Trang Chính

  Dược Vị

  Toa Thuốc

  Diễn Đàn

  Đăng Nhập

  Đăng Ký

Diễn đàn >> Đông Y Thực Dụng >> MỘT SỐ BỆNH Ở ĐẦU MẶT

<< Đăng Chủ Đề Mới >>
MỘT SỐ BỆNH Ở ĐẦU MẶT - posted by Trường Xuân (Hội Viên)
on February , 14 2024
Để tôn trọng ư kiến của tác giả, người dịch sẽ đăng lại lời nói đầu của tác giả trên mỗi chương mục đăng trên trang web này, người dịch mong được người đọc thông cảm cho sự bất tiện này.
Lời nói đầu
Thông thường, mọi người đều sợ hăi bệnh tật.
Theo ư kiến của người viết, thật ra bệnh tật chỉ là một hiện tượng khách quan khi sức khỏe của con người đi chệch hướng b́nh thường, trong đa số trường hợp, việc sớm nhận biết bệnh và điều chỉnh sai lệch kịp thời sẽ khiến sức khỏe con người có rất nhiều cơ hội b́nh phục trở lại. Hoảng loạn và lo lắng chính là những yếu tố không hỗ trợ việc điều trị bệnh, mà c̣n có thể làm cho t́nh trạng sức khỏe tồi tệ hơn, khiến năng lực đề kháng bị suy giảm. Phân tích những căn bệnh phổ biến và loại bỏ sự khó chịu của cơ thể, sự chậm trễ trong việc dùng thuốc hay phẫu thuật không đúng cách, lừa đảo, kéo dài điều trị với mục đích kiếm tiền v.v. Do sự thiếu hiểu biết gây ra, tất cả những điều vừa nêu đă trở thành mục tiêu của người viết khi thực hiện và lưu trữ trang này. Tôi có thể không giúp được bạn, nhưng tôi sẽ cố gắng hết sức để giúp bạn.
Các bệnh được đề cập ở đây đặc biệt chỉ đề cập đến các bệnh về thể chất. Và được chia thành các hệ thống và khu vực bệnh, như bệnh ở phần đầu, cổ, lưng gáy và tay chân hoặc theo từng hệ thống như: Hệ thống tuần hoàn, Hệ thống tiêu hóa, Hệ thống vận động,….hô hấp… Và với tiêu chí là một trang y học cổ truyền nên phần lớn các trang đều có phần biện chứng luận trị theo YHCT, một số ít trang không có phần biện chứng luận trị và một số bệnh không hoặc chưa có phần biện chứng luận trị (Theo YHCT) cũng không có ở trang này, nhưng với những trang có nội dung về ẩm thực, sinh hoạt thiết thực cho việc điều trị và hồi phục sức khỏe th́ theo thiển ư cũng không hại ǵ khi chúng ta có thêm tài liệu để tham khảo.
Trang này thiên về y học cổ truyền, và nhiều bài viết có thể không áp dụng cho bệnh nhân nói chung mà chỉ hỗ trợ tài liệu để tham khảo. Bạn có thể không nhận được những ǵ bạn muốn từ trang này, nhưng theo ư của người viết những kiến thức ở đây phần nào sẽ giúp chúng ta b́nh tĩnh hơn khi chúng ta có thêm một số hiểu biết về bệnh của chính ḿnh. Phải nói rơ rằng trang này không cung cấp đơn thuốc hoặc chẩn đoán định tính cho các bạn. Điều này cần có trách nhiệm với bệnh nhân. Phương thang điều trị được đề xuất trên trang chỉ là gợi ư, v́ vậy bệnh nhân có thể lấy các kế hoạch điều trị này và yêu cầu thày thuốc xác định cách sử dụng và liều lượng tùy theo t́nh trạng bệnh và điều trị theo triệu chứng cụ thể. Ngoài ra, việc giới thiệu các bệnh khác nhau trong chuyên mục này cũng dựa trên việc thu thập các tài liệu y tế khác nhau. Cảm ơn bạn một lần nữa v́ đă tham khảo trang này.
Trên một phương diện khác, với những điều kiện khách quan, nên người dịch chú trọng nhiều hơn về phần YHCT (Y học cổ truyền) của trang web và những phương pháp điều trị bệnh theo YHCT trên trang này, hầu hết đă được người dịch sử dụng trong thời gian dài và đă thu được những hiệu quả trị liệu nhất định. Các loại bệnh được tŕnh bày dựa theo lâm sàng thực dụng hiện nay, phần lớn đều sử dụng tên bệnh theo y học hiện đại. Ở phần mở đầu, tên bệnh theo đông và tây y đều được sơ bộ liên hệ đối chiếu, đồng thời tŕnh bày ngắn gọn nguyên nhân và bệnh lư theo quan điểm đông y. Chẩn tra các điểm chính yếu trên tinh thần kết hợp biện chứng và biện bệnh, giới thiệu được một số tri thức chẩn đoán của y học hiện đại, tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu và ứng dụng của các bạn muốn t́m hiểu về y học cổ truyền. Các phương pháp trị liệu, trọng điểm chủ yếu là biện chứng luận trị, đồng thời với các loại trị liệu tổng hợp, việc sắp xếp thứ tự và nội dung hạng mục cụ thể (Châm cứu, bấm huyệt…)có sự khác biệt tuỳ theo mỗi khoa hay mỗi bệnh. Đến như vấn đề dự pḥng bệnh, tất cả đều xuất phát từ những t́nh huống thực tế.
Do tŕnh độ hạn chế nên chắc chắn những bản dịch c̣n nhiều thiếu sót, mong nhận được những góp ư của bạn đọc.
Trường Xuân
 
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-02-14 01:52:53
Y HỌC CỔ TRUYỀN VỚI CHỨNG ĐAU ĐẦU

Tham khảo tư liệu:
Y học cổ truyền phân loại và điều trị chứng đau đầu dựa trên biện chứng luận trị như thế nào?
Y học cổ truyền chia đau đầu thành các loại sau dựa trên nguyên nhân và cơ chế bệnh và cách điều trị chúng:
(1) Đau đầu do lạnh (phong hàn đầu thống):
Loại đau đầu này là phổ biến nhất. Nguyên nhân là do phong hàn, bệnh khởi phát nhanh, đau đầu kịch liệt, chủ yếu ở vùng trán và thái dương, thường có cảm giác căng cứng ở cổ, khi gặp gió lạnh, cơn đau đầu lập tức trầm trọng hơn. Bởi v́ các lỗ chân tóc trên đầu bị gió và lạnh chặn lại, đau đầu và không đổ mồ hôi, ảnh hưởng đến sự tuyên giáng của phế khí và có thể kèm theo ho, hắt hơi, nghẹt mũi hoặc chảy nước mũi, v.v. Trường hợp nặng có kèm theo sốt và đau nhức cơ thể. Rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn.
Trị pháp: Trị phong giảm đau.
Xử phương: Xuyên khung trà điều tán. Xuyên khung, Kinh giới, Khương hoạt, Bạch chỉ, Pḥng phong mỗi vị 10g, Bạc hà 6g, Tế tân 3g, Cam thảo 6g.

(2) Đau đầu do phong nhiệt:
Chứng trạng chủ yếu: Bệnh khởi phát nhanh, đau đầu dữ dội, kèm theo cảm giác nặng đầu, nóng rát, thường sốt, có cảm giác nóng trong đầu, thích gió mát, khát nước và khô họng khi sốt nặng th́ nước tiểu vàng đỏ, táo bón, chảy nước mũi. Chảy nước mũi hoặc đau răng, v.v. Rêu lưỡi màu vàng, mạch phù sác.
Trị pháp: Khứ phong thanh nhiệt.
Xử phương: Tang cúc ẩm gia giảm. Tang diệp, Cúc hoa, Cát cánh, Liên kiều, Hạnh nhân, Lô căn mỗi vị 10g, Cam thảo 6g, Bạc hà 6g.

(3) Đau đầu do phong thấp:
Các triệu chứng bao gồm đầu nặng trĩu, đau đầu, đầu có cảm giác bị bó chặt, kèm theo chân tay nặng nề, tức ngực và sườn, buồn ngủ và đau nhức khắp cơ thể, hoặc buồn nôn và nôn. Rêu lưỡi trắng nhờn, mạch hoạt.
Trị pháp: Khứ thấp giảm đau.
Xử phương: Khương hoạt thắng thấp thang: Khương hoạt, Độc hoạt, Xuyên khung, Mạn kinh tử, Cao bản, Pḥng phong mỗi vị 10g, Cam thảo 6g.

(4) Đau đầu do Can Dương:
Loại đau đầu này thường có tiền sử tăng huyết áp. Đó là những cơn đau dạng mạch đập, kèm theo chóng mặt, ù tai, hoa mắt, khô mắt, có cảm giác g̣ bó ở cổ gáy, tính t́nh nóng nảy dễ cáu giận, mặt hồng miệng đắng, họng khô. Chất lưỡi đỏ, mạch huyền.
Trị pháp: B́nh can dương.
Xử phương: Thang Trấn can tức phong gia giảm. Hoài ngưu tất, Long cốt sống, Bạch thược, Thiên môn đông, Mạch nha sống, Mẫu lệ sống, Giả thạch, Huyền sâm, Xuyên luyện tử, Thanh hao mỗi vị 10g, Cam thảo 6g.

(5) Đau đầu do phong đàm:
Có các chứng trạng: Đau đầu khá nặng, kèm theo chóng mặt, tức ngực, buồn nôn và nôn, ho có đàm. Rêu lưỡi trắng nhờn, mạch nhu hoạt.
Trị pháp: Kiện tỳ hóa đàm trừ phong.
Xử phương: Thang Tứ quân tử gia giảm: Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Bán hạ, Pḥng phong mỗi vị 10g, Cam thảo 6g.
(6) Huyết ứ đầu thống:
Loại đau đầu này thường có tiền sử ngoại thương. Nó được đặc trưng bởi những cơn đau đầu kịch liệt, các cơn đau thường xuyên và việc điều trị khá khó khăn. Trường hợp nặng có biểu hiện buồn nôn, nôn, đánh trống ngực, khó thở, mất ngủ, suy giảm trí nhớ… Chất lưỡi tím sẫm hoặc có đốm, mạch trầm tế hoặc sáp.
Trị pháp: Hoạt huyết hóa ứ, thông kinh hoạt lạc.
Xử phương: Thông khiếu hoạt huyết thang gia giảm. Xích thược, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa mỗi vị 10g, Xạ hương 0.5g, Thông bạch 3 củ, Sinh khương 6g, Đại táo 5 quả, Hoàng tửu 30g.

(7) Đau đầu do thiếu máu:
Chứng trạng chủ yếu: Đau đầu âm ỉ, trí nhớ suy giảm, chóng mặt và đánh trống ngực, khó thở, chân tay yếu nhược, khi lao động th́ các chứng trạng tăng nặng, chán ăn, da nhợt nhạt hoặc vàng vọt, môi miệng không tươi; Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch trầm tế vô lực.
Trị pháp: Bổ ích khí huyết.
Xử phương: Thang Bát trân gia giảm: Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Đương quy, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa mỗi vị 10g, Cam thảo 6g. Để tránh t́nh trạng Thục địa gây đầy bụng khó tiêu thường gia thêm Sinh khương và Sa nhân tùy theo t́nh trạng tiêu hóa của bệnh nhân.

(8) Đau đầu do thận dương hư:
Chứng trạng chủ yếu: Đau đầu, chóng mặt, hay quên, thắt lưng và đùi đau ê ẩm, chân tay lạnh, đi tiểu nhiều lần và bệnh nặng th́ liệt dương. Chất lưỡi trắng nhạt, mạch trầm tŕ vô lực, nhất là ở mạch xích.
Trị pháp: Bổ ích thận dương.
Xử phương: Địa hoàng, Sơn dược, Phục linh, Sơn thù, Đan b́, Trạch tả mỗi vị 10g, Quế chi 6g, chế Phụ tử 3g.
(9) Đau đầu do thận âm hư:
Chứng trạng chủ yếu: Đau đầu nhẹ, kèm theo chóng mặt, ù tai, hoa mắt, giảm trí nhớ, đau lưng, di tinh, hay mơ và mất ngủ, đánh trống ngực và khó thở, v.v. Trường hợp nặng có thể đổ mồ hôi đêm và sốt nhẹ. Chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.
Trị pháp: Bổ ích thận âm.
Xử phương: Lục vị địa hoàng gia giảm: Sinh địa, Vân linh, Đan b́, Sơn dược, Trạch tả, Sơn thù mỗi vị 10g.
(10) Đau đầu do hỏa nhiệt:
Loại đau đầu này phần lớn là do hội chứng kinh Dương Minh, do tà nhiệt mạnh của khí phận gây ra, chẳng hạn như cơn đau đầu kịch liệt của viêm năo B, kèm theo nôn mửa và sốt cao, đổ mồ hôi nhiều, khát nước và thích đồ uống lạnh, bực bội vội vă, mặt đỏ, nước tiểu đỏ và ít. Rêu lưỡi màu vàng và khô, mạch hồng đại mà sác.
Trị pháp: Thanh nhiệt tả hỏa
Xử phương : Thang Bạch hổ gia giảm:Thạch cao 30g, Tri mẫu 10g, Cánh mễ 10g, Cam thảo 6g, Sinh địa 10g, Mạch đông 10g.

Y học cổ truyền Trung Quốc điều trị các loại đau đầu khác dựa trên sự phân biệt hội chứng như thế nào?
(1) Đau đầu do kinh Thiếu dương:
Chứng trạng chủ yếu: Thỉnh thoảng đau đầu, đau cả hai tai, lạnh và nóng luân phiên (hàn nhiệt văng lai), đau và tức ở ngực và hạ sườn, khó chịu và buồn nôn, khô họng và chóng mặt. Mạch huyền, rêu lưỡi trắng và vàng, chất lưỡi nhạt, đầu lưỡi đỏ.
Trị pháp: Ḥa giải biểu lư.
Xử phương: Thang Tiểu sài hồ gia giảm: Sài hồ 15g, khương Bán hạ 15g, Hoàng cầm 15g, Sinh khương 3 lát, Đại táo 5 quả, Cam thảo 10g, Bạch chỉ 15g, Xuyên khung 15g, Nhân sâm 10g.
(2) Chứng đau dầu do động kinh:
Triệu chứng chính: Đau đầu đột ngột, chấm dứt trong thời gian ngắn, có yếu tố khởi phát rơ ràng, đau vùng trán và thái dương, tính chất đau theo mạch đập, đau như dao cắt hoặc đau nhói.
Trị pháp: Trừ đàm khứ phong, thông khiếu giảm đau.
Xử phương: Điên giản hiệu số 2 (tự chế): Bán hạ 100g, Đảm nam tinh 50g, Ngô công 10 con, Tế tân 25g, Thiên ma 50g. Tất cả tán thành bột, mỗi lần uống 0.5g, ngày uống 3 lần.
(3) Đau đầu do viêm xoang hốc mũi:
Triệu chứng chính: Đau âm ỉ ở đầu, chủ yếu ở mặt trong của trán và xương g̣ má, ví dụ như viêm xoang hàm trên cũng có thể xuất hiện đau răng, sau khi xuất hiện đặc điểm của cơn đau đầu là cơn đau đầu sẽ tiếp tục tăng nặng hơn. Ví dụ, nếu viêm xoang trán trên gây ra, cơn đau đầu sẽ dữ dội vào buổi sáng, nặng hơn vào buổi trưa và nhẹ dần vào buổi tối.
Trị pháp: Thanh nhiệt giải độc, thông khiếu tức phong.
Xử phương: Hoàng liên giải độc thang gia giảm: Hoàng liên, Hoàng cầm, Chi tử, Đại hoàng, Tân di, Bạch chỉ, Pḥng phong, Kinh giới mỗi vị 15g, Thổ miết trùng 50g, Địa đinh 40g, Bạc hà 10g, Cúc hoa 20g.
Dùng thang thuốc nêu trên sắc uống ấm cho đến khi đi đại tiện th́ ngưng, nếu không đi đại tiện th́ tiếp tục uống lại.
(4) Đau đầu khi hành kinh.
Bệnh chủ yếu xảy ra ở phụ nữ trẻ, những người bị đau đầu hoặc đau nửa đầu 1 đến 2 ngày trước kỳ kinh hoặc trong thời kỳ kinh nguyệt.
Triệu chứng chính: Đau đầu hoặc đau nửa đầu, thường kèm theo tức ngực và khó thở, sưng đau hai bên sườn, cáu kỉnh, ít buồn ngủ và mơ nhiều, mạch huyền; Chất lưỡi nhạt, ít rêu lưỡi.
Trị pháp: Sơ can giải uất, hoạt huyết điều kinh.
Xử phương: Tiêu dao tán gia giảm. Sài hồ, Phục linh, Bạch truật, Bạch chỉ mỗi vị 15g, Đương quy, Xuyên khung, Hương phụ, Huyền hồ mỗi vị 20g, Xích thược 10g.

Y học cổ truyền có thể điều trị chứng đau đầu?
Y học cổ truyền là sự tổng hợp kinh nghiệm chống chọi với bệnh tật hàng ngh́n năm của hàng triệu nhân dân, là một bộ phận quan trọng trong di sản văn hóa quư giá của loài người. Y học cổ truyền đă tích lũy kinh nghiệm chẩn đoán và điều trị vô cùng phong phú trong thực hành y học lâu dài và h́nh thành nên một hệ thống lư thuyết độc đáo. Trong hàng ngàn năm, lư thuyết về y học cổ truyền đă hướng dẫn hiệu quả việc thực hành y học lâm sàng nhiều đối tượng khác nhau của y học cổ truyền, đóng góp to lớn cho việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân cũng như sự tái sinh và thịnh vượng của loài người và chiếm một vị trí quan trọng trong y học thế giới. Sau khi được thành lập, y học cổ truyền đă phát triển hơn nữa và thu hút được sự quan tâm lớn của cộng đồng y tế quốc tế.
Y học cổ truyền được đông đảo người dân yêu thích bởi hệ thống lư thuyết khác biệt với Hệ thống lư luận của y học hiện đại phương tây. Nó cũng đă tích lũy được kinh nghiệm phong phú trong chẩn đoán và điều trị đau đầu, dù là đau đầu cấp tính hay đau đầu mạn tính, dù là uống thuốc hay bôi ngoài, châm cứu, xoa bóp,… đều có tác dụng rơ rệt. V́ vậy, y học cổ truyền vẫn rất tốt trong việc điều trị chứng đau đầu.

Y học cổ truyền nhận thức chứng đau đầu như thế nào?
Đau đầu là bệnh có triệu chứng chính là đau một phần hoặc toàn bộ đầu. Nó có thể xuất hiện đơn độc hoặc trong nhiều bệnh cấp tính và mạn tính, liên quan đến các bệnh bên trong, bên ngoài, thần kinh, tâm thần, ngũ quan và các bệnh lâm sàng các khoa khác.
Y học cổ truyền tin rằng nguyên nhân của nó bao gồm cảm thụ từ bên ngoài và tổn thương bên trong. Nhân tố bên ngoài chủ yếu là phong, nhưng thường kèm theo hàn, thử, thấp, nhiệt (lạnh, nắng, ẩm ướt, nhiệt); Nội thương có thể do các yếu tố như can dương nhiễu loạn, thận tinh không đầy đủ, đàm ẩm gây tắc nghẽn, khí huyết suy hư, ứ huyết gây trở ngại kinh lạc. Nguyên nhân bệnh có thể là do bệnh cản trở thanh dương, hoặc do năo không được nuôi dưỡng, hoặc do khí huyết rối loạn và tuần hoàn máu kém mà gây bệnh.
Các chứng như đau đầu do thần kinh, tăng huyết áp, xơ cứng động mạch năo, nhiễm trùng nội sọ, u năo, tai biến mạch máu năo, chấn động năo, động kinh dạng nhức đầu, đau đầu do căng thẳng, thoái hóa đốt sống cổ, cảm lạnh, viêm tai giữa, viêm xoang, trúng nắng, hạ huyết áp trong y học hiện đại. thiếu máu, urê huyết, rối loạn thần kinh, rượu và ngộ độc khí carbon monoxide đều có thể được điều trị dựa trên biện chứng luận trị.

Y học cổ truyền phân loại chứng đau đầu như thế nào?
Y học cổ truyền đă nhận thức sâu sắc về chứng đau đầu từ hơn 2.000 năm trước, qua các thời đại, các lương y cơ bản đă chia bệnh đau đầu thành các loại sau: ① Đau đầu do phong hàn (lạnh); ② Đau đầu do phong nhiệt (nóng); ③ Đau đầu do phong thấp (thấp); ④ Đau đầu do dương của gan (can dương) ; ⑤ Đau đầu do đàm thấp kèm phong,(đàm thấp hiệp phong); ⑥ Đau đầu do ứ huyết; ⑦ Đau đầu do khí huyết hư yếu; ⑧ Đau đầu do thận dương hư; ⑨ Đau đầu do thận âm hư yếu; ⑩ Đau đầu do hỏa nhiệt.

Làm thế nào để phân biệt đau đầu do ngoại cảm và đau đầu do nội thương?
Đau đầu do ngoại cảm thường phát bệnh khá nhanh và có tính chất nghiêm trọng hơn, thường có đặc điểm là đau theo mạch đập, đau trướng, nóng rát, đau kịch liệt và đau không ngừng, thường đi kèm với cảm giác sợ lạnh và sốt, hoặc đau lưng ê ẩm, hoặc cứng cổ gáy và lưng, hoặc nghẹt mũi chảy nước mũi, ho, mạch nhanh, thường kèm theo biểu chứng phong, hàn hoặc nhiệt và thường thuộc thực chứng, trị pháp chủ yếu là khứ phong tán tà. Chứng đau đầu do ngoại cảm thường có bệnh tŕnh ngắn, mức độ tổn thương ít nên dễ khỏi bệnh.

Chứng đau đầu do nội thương, bệnh khởi phát chậm, tính chất của cơn đau chủ yếu là đau âm ỉ, đau có cảm giác trống rỗng (không thống), đau đầu và đầu óc tối tăm, lúc đau lúc không, triệu chứng đau đầu sẽ trầm trọng hơn khi bạn gắng sức. Vị trí bệnh có liên quan đến gan, tỳ, thận, phần lớn là hội chứng hư yếu, hoặc là kết hợp giữa hư và thực, phương pháp điều trị chủ yếu là bồi bổ cơ thể và trừ khứ bệnh.

Đau đầu có liên quan đến lục khí không?
Lục khí là phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa (gió, lạnh, nóng, ẩm, khô, lửa), không chỉ là sáu biểu hiện của sự biến đổi khí hậu bốn mùa mà c̣n là sáu yếu tố gây bệnh trong cơ thể con người, chúng được gọi là “lục dâm” (dâm là thừa thăi là tràn lan) và có liên quan mật thiết đến việc khởi phát những cơn đau đầu.
Những cơn đau đầu do phong thường khởi phát đột ngột và cũng giảm đi nhanh chóng, thường kèm theo chứng trạng như đổ mồ hôi, sợ gió, ngứa ngáy hoặc co giật, run rẩy, lắc lư đầu, chóng mặt và các triệu chứng bất ổn khác.
Đau đầu do lạnh (hàn) là cơn đau tương đối nghiêm trọng, và các triệu chứng dương khí không đầy đủ như căng cơ và co rút, khó co duỗi các khớp một cách tự nhiên, tay chân không ấm áp, miệng nhạt và không khát, đau bụng tiêu chảy, rêu lưỡi trắng, mạch tŕ.
Đau đầu do cảm nắng thường gặp nhiều hơn vào mùa hè và thường kèm theo các triệu chứng bệnh do thấp như sốt, khát nước, đổ mồ hôi, khó thở, mệt mỏi, suy nhược, nhiều người c̣n kèm theo hạ thân nhiệt, tức ngực. đau thắt, buồn nôn và nôn.
Đau đầu do thấp chủ yếu xảy ra vào mùa trưởng hạ (từ lập thu đến trước thu phân), nhưng có thể xảy ra quanh năm, các triệu chứng như đầu nặng, chân tay nặng nề, tức ngực, đầy bụng, tiêu chảy là những triệu chứng thường gặp t́nh trạng thấp lan tỏa.
Đau đầu do táo (khô) có xu hướng xảy ra vào mùa thu, cơn đau thường có cảm giác nóng rát, thường kèm theo các triệu chứng như môi khô nứt nẻ, ho khan không có đờm, da khô, tóc cháy sém, có thể tổn thương phổi và tân dịch.
Đau đầu do hỏa gây ra chủ yếu xảy ra vào mùa hè, khởi phát cấp tính, đau kịch liệt, sốt cao, đổ mồ hôi nhiều, mặt đỏ bừng, đau họng và các hiện tượng chảy máu khác nhau.

Các bộ vị khác nhau của đau đầu có liên quan đến sáu kinh mạch không? Làm thế nào để nhận biết các triệu chứng đau đầu?
Cái gọi là sáu kinh mạch là sáu nhánh kinh mạch gồm Thái Dương, Dương Minh, Thiếu Dương, Thái Âm, Quyết Âm và Thiếu Âm trong học thuyết kinh lạc. Nó là một hệ thống độc đáo nối liền trong ngoài, trên dưới và kết nối các cơ quan nội tạng và các mô, đồng thời vận hành khí và huyết. V́ vậy, nếu kinh lạc nào bị bệnh tật xâm nhập th́ tất yếu sẽ phản ảnh ở những nơi nó lưu thông, chứng đau đầu cũng vậy, chỉ cần t́m thấy cơn đau ở những phần khác nhau trên đầu th́ có thể suy ra đó là bệnh biến của kinh lạc nào. Thông thường: Đau sau gáy và cổ thuộc kinh Thái Dương; Đau hai bên đầu thuộc kinh Thiếu Dương; Đau toàn bộ đầu và nặng nề như bị bao lại th́ thuộc kinh Thái Âm (thường gặp nhất ở hội chứng của thấp); Các cơn đau đầu dữ dội, liên quan đến năo và răng, mặt và móng tay tím tái thuộc về bệnh ở kinh Thiếu Âm (Thường gặp ở bệnh nhân Dương khí hư yếu và hàn phục ở trong, nhưng khá hiếm); Đau trên đỉnh đầu, kèm theo nôn ra nước trong, thuộc kinh Quyết âm.
Hư và thực là hai tiêu chí quan trọng dùng để phán đoán sự thịnh suy của bệnh và năng lực kháng bệnh mạnh hay yếu của cơ thể. Có thể nói, bất cứ một bệnh chứng nào xuất hiện, đều chính là kết quả của cuộc đấu tranh hỗ tương giữa bệnh (tà khí) và năng lực kháng bệnh (chính khí), không cần phải nói rằng sức mạnh thể chất của cơ thể đóng một vai tṛ quan trọng ở đây, hư chứng là biểu hiện hội chứng năng lực kháng bệnh (chính khí) không đầy đủ và công năng tạng phủ suy thoái, thường gặp ở bệnh nhân có tố chất cơ thể hư yếu, nhưng do mức độ hư tổn của âm dương khí huyết khác nhau, v́ thế trên lâm sàng có các hư chứng khác nhau như huyết hư, khí hư, âm hư và dương hư; Thực chứng là biểu hiện hội chứng bệnh tà quá mạnh, công năng hoạt động quá mức của tạng phủ, do tính chất của bệnh khác nhau tùy theo mỗi vị trí bệnh, v́ thế biểu hiện lâm sàng cũng khác nhau. Các triệu chứng thường gặp bao gồm sốt, cơ thể khỏe mạnh, giọng nói và hơi thở thô to, tinh thần khó chịu, ngực, hai bên sườn, vùng thượng vị và bụng, đầy tức đau không chịu ấn nắn, táo bón hoặc kiết lỵ, nước tiểu ít và có màu đỏ, rêu lưỡi dày nhờn, mạch thực hữu lực.
Đau đầu thực chứng thường có đặc điểm là nóng rát, đau theo mạch đập gọi là“Khiêu thống”(跳痛), đau sâu và kịch liệt “Chí thống” (挚痛)là rất đau, “Trọng thống” (重痛) là đau đầu và có cảm giác nặng đầu, “Trướng thống” (胀痛)Đau đầu trướng tức (như muốn vỡ ra) “Thống vô hưu chỉ” (痛无休止)là đau không ngừng, khởi phát nhanh hơn, diễn biến bệnh ngắn hơn và cơn đau dữ dội hơn, chủ yếu do tác nhân gây bệnh bên ngoài gây ra. Đau đầu do hư yếu có các tính chất là đau âm ỉ, đau đầu và đầu óc tối tăm, trống rỗng hoặc đau kéo dài, khi mỏi mệt th́ mức độ đau đầu trầm trọng hơn rơ rệt, bệnh thường khởi phát chậm, thế bệnh khá nhẹ và bệnh thường kéo dài.

Các loại thuốc y học cổ truyền thường được sử dụng để điều trị chứng đau đầu là ǵ?
Mọi người đều biết rằng phương pháp chữa bệnh chủ yếu bằng y học cổ truyền là sử dụng y dược cổ truyền. Hàng ngh́n năm thực hành đă chứng minh rằng nó là vũ khí chính để pḥng bệnh và chữa bệnh cho nhân dân, bảo đảm sức khoẻ cho mọi người, sức khỏe đóng vai tṛ trọng yếu cho sự thịnh vượng của gia đ́nh và đất nước. Hiện nay đă có hơn 5.000 loại dược liệu được ghi chép trong kinh điển đă xuất bản. Có rất nhiều loại thuốc cổ truyền dựa trên các dược tính khác nhau như: Tứ khí, ngũ vị, quy kinh, thăng giáng phù trầm (xem ở phần tính dược) cũng như các chống chỉ định về khả năng tương thích, sau khi khám bệnh nhân, thày thuốc sẽ xác định phương pháp điều trị dựa trên biện chứng thẩm nhân (辨证审因) biện chứng t́m ra nguyên nhân và xem xét, lựa chọn loại thuốc cổ truyền thích hợp, xác định liều lượng và thực hiện các kết hợp theo nguyên tắc thành phần (Quân, thần, tá, sứ) thành đơn thuốc, cho dù đó là thuốc sắc, thuốc viên, bột, thuốc mỡ hay thuốc đan, rượu, trà, dược lộ dù dùng bên trong hay bên ngoài đều có thể chữa khỏi bệnh.
Các loại thuốc truyền thống của thường được sử dụng để điều trị chứng đau đầu như sau:
Pḥng phong: Vị cay, ngọt, tính ấm, quy kinh bàng quang, can, tỳ kinh. Tán phong giải trừ biểu chứng, trừ khứ phong thấp và giảm đau.
Khương hoạt: Vị cay, vị ngọt, tính ấm, quy kinh bàng quang, can, thận kinh. Tán hàn giải trừ biểu chứng khứ phong thấp giảm đau.
Tế tân: Vị cay, ấm, quy các kinh phế và can thận. Tán hàn giải biểu, khứ phong giảm đau, ôn phế hóa đàm.
Sinh khương: Vị cay, tính hơi ấm, quy phế, tỳ kinh. Xuất hăn giải biểu, ấm dạ dày trị ẩu thổ, giải độc.
Bạc hà: Vị cay, mát, quy hai kinh can và phế. Sơ tán phong nhiệt, thanh đầu mắt, thông lợi yết hầu, thấu chẩn trị ngứa.
Hoa cúc: Vị cay, ngọt, hơi đắng, hơi lạnh, quy hai kinh phế và can. Sơ tán phong nhiệt, b́nh can, sáng mắt, trị mụn nhọt, sưng tấy, đau nhức.
Độc hoạt: Vị cay, đắng, tính hơi ấm, quy kinh thận và bàng quang. Khứ phong thắng thấp giảm đau, tán hàn giải trừ biểu chứng.
Phục linh: Vị ngọt, nhạt, tính b́nh, quy các kinh tâm, tỳ và thận. Lợi tiểu và thấm thấp, kiện tỳ bổ trung (trung tiêu) an tâm thần.
Thạch cao: Cay, vị ngọt, tính lạnh, quy các kinh phế , can và vị. Thanh nhiệt tả hỏa, thanh vị nhiệt, thanh phế nhiệt, sinh da thịt, thu liễm vết thương.
Mẫu đan b́: Đắng, cay, hơi lạnh, quy các kinh tâm, can, thận. Thanh nhiệt và mát máu, hoạt huyết tán ứ.
Hoàng cầm: Vị đắng, tính lạnh, quy các kinh phế, đảm, vị và đại tràng. Nó có tác dụng thanh nhiệt táo thấp, thanh nhiệt giải độc, mát máu và an thai.
Thiên hoa phấn: vị đắng, hơi ngọt, tính lạnh, quy các kinh phế và vị. Thanh nhiệt sinh tân dịch, tiêu sưng trừ mủ.
Bán hạ: Cay, tính ấm, có độc, quy các kinh Tỳ, vị và phế. Có tác dụng táo thấp hóa đàm, giáng nghịch trị ẩu thổ tiêu trừ bĩ tắc và kết trệ. Thường dùng gừng để chế biến nên gọi là khương Bán hạ.
Trúc nhự: Vị ngọt, hơi lạnh, quy các kinh phế, vị và đảm. Thanh hóa nhiệt đàm, thanh nhiệt trị ẩu thổ.
Phụ tử: Vị cay, ngọt, tính rất nóng, có độc, quy các kinh Tỳ, thận và tâm. Có tác dụng hồi dương cứu nghịch, làm ấm tỳ và thận, khứ hàn và giảm đau. Sản phẩm này độc hại và nên sắc trước từ 30 đến 60 phút để giảm độc tính.
Nhục quế: Vị cay, ngọt, tính rất nóng, quy các kinh thận, tỳ, tâm, can. Bổ hỏa trợ dương, trừ hàn giảm đau, ôn kinh mạch hoạt huyết.
Trần b́: Cay, đắng, tính ấm, quy các kinh tỳ và phế. Lư khí kiện tỳ, táo thấp hóa đàm.
Chỉ thực: Vị đắng, cay, hơi lạnh, quy các kinh Tỳ, vị và đại tràng. Phá khí tiêu tích trệ, hạ khí thông đại tiện.
Xuyên khung: Vị cay, tính ấm, quy các kinh can, đảm, tâm bào. Hoạt huyết hành khí, khứ phong giảm đau, xua tan gió và giảm đau.
Đào nhân: Vị đắng, ngọt, tính b́nh, quy các kinh tâm, can và đại tràng. Phá huyết trục ứ, nhuận tràng trị táo bón.
Hồng hoa: Vị cay, tính ấm, quy các kinh tâm và Can. Hoạt huyết thông kinh mạch, khứ ứ giảm đau.
Diên hồ sách: Vi cay, đắng, tính ấm, quy các kinh can, tỳ, tâm. Hoạt huyết hành khí và giảm đau.
Ích mẫu thảo: Vị cay, hơi đắng, hơi lạnh, quy các kinh tâm bào, can, thận. Thúc đẩy lưu thông máu và điều ḥa kinh nguyệt, khứ ứ huyết và giảm đau, lợi tiểu và tiêu phù thũng.
Ngưu tất: Vị đắng, chua, tính b́nh, quy kinh can, thận. Thúc đẩy lưu thông máu và loại bỏ ứ huyết, mạnh gân xương ,thuận lợi khớp, dẫn huyết đi xuống, lợi tiểu và trị chứng sỏi niệu.
Cam thảo: Vị ngọt, tính b́nh, quy các kinh tâm, phế, tỳ, vị hoặc quy mười hai kinh. Có fasc dụng bổ trung ích khí, thanh nhiệt và giải độc, khứ đàm trị ho, giảm co thắt và giảm đau (hoăn cấp chỉ thống), và điều ḥa các loại thuốc.
Thục địa hoàng: Vị ngọt, hơi ấm, quy các kinh tâm, can, thận. Bổ huyết tư âm, bổ tinh ích tủy.
Đương quy: Vị ngọt, cay, tính ấm, quy các kinh can, tâm, tỳ. Bổ huyết và điều ḥa kinh nguyệt, hoạt huyết và giảm đau, Nhuận tràng thông đại tiện.
Bạch thược: Vị đắng, chua, hơi lạnh, quy kinh can. Tốt cho gan, giảm đau, bổ máu và điều ḥa kinh nguyệt, nuôi dưỡng gan và cải thiện thị lực, nhuận phế và giảm ho.
Kỷ tử: Vị ngọt, tính b́nh, tác dụng vào kinh can, thận, phế. Bổ gan thận, bổ gan và cải thiện thị lực, nhuận phế và giảm ho.
Lộc giác: Vị mặn, tính ấm, quy các kinh can, thận, bổ can thận, mạnh gân xương, an thai.
Đỗ trọng: Vị ngọt, tính ấm, quy các kinh can thận. Bổ gan thận, mạnh gân xương, an thai.
Sơn dược: Vị ngọt, tính b́nh, quy các kinh tỳ, phế, thận. Bổ tỳ trị tiết tả và làm giảm tiêu chảy, dưỡng phế ích âm, ích thận liễm tinh.
Táo tàu: Vị ngọt, hơi ấm, quy các kinh can, phế, thận. Bổ máu và cầm máu, dưỡng âm và giữ ẩm.
Thạch hộc: Vị ngọt, nhạt, hơi lạnh, quy các kinh vị và thận. Dưỡng vị sinh tân dịch, bổ âm trừ nhiệt.
Quy bản: Vị mặn, ngọt, tính b́nh, quy các kinh can thận và tim. Bổ thận, bổ xương, củng cố kinh nguyệt và giảm đau.
Toàn yết: Vị cay, tính b́nh, có độc, quy kinh can. Trị phong, trấn tĩnh, thông kinh lạc và giảm đau, giải độc tán kết trệ. Toàn yết tân tán có độc, khi sử dụng không nên sử dụng liều lượng quá lớn. Thận trọng khi sử dụng ở người bị huyết hư sinh phong (thiếu máu).
Thiên ma: Vị ngọt, tính b́nh, quy kinh can. Trị phong và giảm co thắt, khứ phong và giảm đau.
Câu đằng: Vị ngọt, hơi lạnh, quy kinh can và tâm bào lạc. Trị phong, giảm co thắt, thanh phế b́nh can.
Ngô công: Vị cay, tính ấm, quy kinh can. Trị phong gió và giảm co thắt, giải độc và tán kết trệ, thông kinh mạch và giảm đau. Sản phẩm này độc hại, có tác dụng an thần, chống co giật và có thể dùng để điều trị ung thư.
Địa long: Vị mặn, tính lạnh, quy các kinh can, tỳ, phế. Có tác dụng thanh nhiệt và giảm co thắt, thanh phế trị hen suyễn suyễn, khứ phong thông lạc mạch.
Bạch truật: Vị đắng, ngọt, tính ấm, quy các kinh tỳ vị. Bổ tỳ bổ khí, táo và lợi tiểu, cố biểu và cầm mồ hôi, an thai.

Nguyên lư của liệu pháp xoa bóp là ǵ và những kỹ thuật điều trị đau đầu phổ biến như thế nào?
Thôi nă, thời xa xưa gọi là “Án ma” (按摩)xoa bóp, massege, là một môn y học cổ truyền, trong đó các thày thuốc sử dụng các phương pháp thao tác để điều trị bệnh tùy theo t́nh trạng bệnh. Việc điều trị bằng xoa bóp không dùng thuốc hay thiết bị làm phương tiện chính, đơn giản, tiện lợi, hiệu quả, không có tác dụng phụ, được bệnh nhân hoan nghênh, được giới Y học cổ truyền và Tây y công nhận và được xă hội đánh giá cao. Sự khác biệt giữa nó và phương pháp điều trị bằng châm cứu là phương pháp trước đạt được hiệu quả điều trị tương tự bằng cách châm cứu trên các du huyệt và kinh lạc, trong khi phương pháp sau sử dụng phương pháp kích thích thủ công các kinh lạc và du huyệt.
Nguyên lư cơ bản của trị bệnh của xoa bóp là điều chỉnh các bất thường về vị trí giải phẫu, thay đổi các chức năng hệ thống liên quan, điều chỉnh và kết hợp việc điều chỉnh vị trí giải phẫu với việc điều chỉnh thông kinh lạc. Trong số đó, nguyên lư trị liệu của xoa bóp cho gân bị thương cụ thể đặc biệt là thư giăn gân và thông kinh lạc, điều chỉnh và khôi phục gân, hoạt huyết khứ ứ. Xoa bóp có tác dụng điều chỉnh công năng của vinh vệ khí huyết và nội tạng.
Các phương pháp điều trị đau đầu thường được áp dụng là ǵ?
Nhất chỉ thiền thôi pháp (一指禅推法) là đẩy bằng 1 ngón tay: Nắm một bàn tay trống không, duỗi ngón tay cái một cách tự nhiên để che lỗ nắm tay, dùng bề mặt có gân hoặc đỉnh đầu ngón tay cái để tập trung vào một bộ phận nhất định hoặc huyệt vị kinh lạc, hạ thấp vai và khuỷu tay, treo cổ tay và sử dụng cổ tay Sự xoay của khớp ngón tay cái điều khiển các hoạt động gấp và duỗi của khớp ngón tay cái, để lực sinh ra tác động lên các huyệt kinh lạc luân phiên và liên tục.
Nă pháp (拿法) là phép cầm: Dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa úp vào nhau, nhéo vào một bộ phận hoặc huyệt đạo nhất định, dùng lực từ từ để khép và thực hiện các động tác nhào liên tục, từ nhẹ đến nặng rồi từ nặng đến nhẹ.
Án pháp (按法): Dùng ngón tay hoặc ḷng bàn tay ấn lên một bộ phận hoặc huyệt đạo nhất định trên bề mặt cơ thể rồi ấn dần xuống. Hướng ấn phải thẳng đứng, lực từ nhẹ đến nặng, đều đặn và liên tục th́ sự kích thích mới có thể thấm sâu hoàn toàn vào các mô trong cơ thể.
Thôi pháp (推法): Dùng ngón tay hoặc ḷng bàn tay tác dụng lực lên một bộ phận hoặc huyệt đạo nhất định trên cơ thể người và thực hiện chuyển động tuyến tính (hoặc h́nh ṿng cung) theo một hướng.
Ma pháp (摩法): Dùng bề mặt của ngón trỏ, ngón giữa, ngón đeo nhẫn hoặc bề mặt ḷng bàn tay để xoa, sát vào một phần nhất định trên bề mặt cơ thể rồi xoa theo ṿng tṛn và nhịp nhàng. Đây là phương pháp nhẹ nhàng nhất, khớp khuỷu tay hơi cong, cổ tay thả lỏng, các ngón tay, ḷng bàn tay duỗi thẳng tự nhiên và nhẹ nhàng đặt lên một bộ phận nào đó trên bề mặt cơ thể, sau đó liên kết cẳng tay để thực hiện động tác xoa thành ṿng tṛn nhẹ nhàng và phối hợp.
Nhu pháp (揉法nhào, day): Dùng phần nổi phía dưới ngón tay cái (Đại ngư tế), gốc bàn tay hoặc mặt gân của các ngón tay tập trung vào một bộ phận hoặc một huyệt vị nào đó, thực hiện các động tác xoay tṛn nhẹ nhàng để tác động vào mô dưới da ở nơi đó.
Cách làm: Giữ một bàn tay trống, dùng phần nhô ra của khớp liên đốt thứ nhất của ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út và ngón út để vào một bộ phận nào đó trên bề mặt cơ thể, thả lỏng cổ tay và lắc qua lắc lại đều đặn, làm cho nắm tay cuộn lại. qua lại. Trọng điểm là phải luôn tiếp xúcvới bề mặt cơ thể và không thể tách rời hoặc cọ xát. Phạm vi lăn được kiểm soát ở khoảng 90 độ, nghĩa là nắm tay ở phía trước và phía sau khoảng 45 độ khi lăn. Áp lực phải đồng đều và xoay phải linh hoạt, khoảng 160 lần mỗi phút. Ngoài ra, Một kiểu lăn liên quan đến phần mu bàn tay gần phía ngón tay út hoặc phần nhô ra của khớp ngón út, ngón đeo nhẫn hoặc giữa ngón tay Nó được đặt vào một bộ phận nhất định, thông qua chuyển động tới lui liên tục các động tác gấp, duỗi, xoay ngoài của khớp cổ tay, lực sinh ra tác động luân phiên và liên tục lên vùng điều trị c̣n gọi là cổn pháp.
Phương pháp xoa: Đặt ḷng bàn tay sát vào da, ấn nhẹ xuống và xoa lên xuống hoặc trái phải theo một đường thẳng để tạo ra một lượng nhiệt nhất định. Khi thực hiện phương pháp cọ xát, mặt qua lại phải thẳng, không bị lệch, khi cọ xát khoảng cách qua lại phải dài, chuyển động phải liên tục, áp lực phải đồng đều, vừa phải.
Bá pháp: Chụm năm ngón tay lại và dùng ḷng bàn tay trống vỗ thẳng vào một khu vực nhất định, có thể gây sung huyết cục bộ và tăng cường lưu thông máu cục bộ.
Uyên ương lư ngạch pháp: Thày thuốc đứng phía sau bệnh nhân, dùng ngón cái của cả hai tay đặt vào vùng thái dương của bệnh nhân sau đó day vào huyệt Thái dương, lấy đầu ngón tay cái làm trục xoay tṛn vào trong và hướng lên trên, bốn ngón c̣n lại bắt chéo nhau và đồng thời giao thoa theo từng cặp và đặt sát vào chân tóc.
Phương pháp găi như khỉ: Các ngón tay của cả hai tay hơi tách ra và uốn cong tự nhiên, có h́nh dạng như móng vuốt, vùng được điều trị được găi ngược từ dưới lên trên, có h́nh dạng giống như khỉ găi ngứa.
Phương pháp chắp hai bàn tay vào nhau tạo thành kỹ thuật cổ tiao: chắp hai bàn tay vào nhau bằng ngón cái của cả hai bàn tay đan chéo, tác dụng lực lên cổ và xoa bóp cơ cổ gáy.
Phương pháp chuyển vận thái dương kép: Đặt ngón giữa hoặc ngón cái của cả hai tay lên thái dương bên trái và bên phải, xoay nhẹ nhàng và nhẹ nhàng để tạo chuyển động điểm tṛn.
Phương pháp gội đầu khô: Tách nhẹ mười ngón tay của cả hai tay, đặt chúng lên mép trên của ṿng xoắn trái và phải của vành tai, tập trung vào vùng da đầu cần điều trị, xoa và găi như thể đang gội đầu tóc.

Y học cổ truyền cần chú ư điều ǵ khi điều trị đau đầu? dùng những biện pháp cấp cứu nào để giảm đau khi điều trị đau đầu?
Đau đầu là một trong những triệu chứng thường gặp, nguyên nhân gây đau đầu rất nhiều và phức tạp, trong đó phổ biến nhất là: Các bệnh nội sọ như viêm, u bướu, bệnh mạch máu năo...; Các bệnh ngoại sọ như thoái hóa đốt sống cổ, đau thần kinh tam thoa, viêm tai giữa, viêm xoang, bệnh về mắt, v.v.; Các bệnh có tính toàn thân, như bệnh truyền nhiễm toàn thân, tăng huyết áp, trúng nắng, hạ đường huyết, thiếu máu, urê huyết, rối loạn thần kinh, rượu, ngộ độc carbon monoxide, chấn thương năo, v.v.
Khi điều trị đau đầu bằng y học cổ truyền, phải kết hợp Tây y với sự cân nhắc toàn diện, đặc biệt khi người bệnh bị đau đầu dữ dội, buồn nôn, nôn mửa th́ phải dùng thêm Tây y để bệnh không bị kéo dài. Nếu cơn đau đầu của bạn không thuyên giảm mà trở nên trầm trọng hơn sau khi điều trị lâu dài bằng y học cổ truyền th́ bạn cũng phải t́m ra nguyên nhân theo Tây y. Tóm lại, y học cổ truyền có tác dụng tốt hơn đối với chứng đau đầu mạn tính nói chung và đau đầu phi khí chất gây ra, phần c̣n lại thường phải điều trị bằng sự kết hợp giữa Đông y và Tây y, chẩn đoán rơ ràng, xác định nguyên nhân và nâng cao hiệu quả chữa bệnh.
Các biện pháp giảm đau khẩn cấp khi điều trị chứng đau đầu trong y học cổ truyền Trung Quốc bao gồm:
Châm cứu giảm đau: Thông thường, châm cứu bằng kim sẽ dùng kích thích mạnh, việc lựa chọn huyệt chủ yếu dựa vào vị trí của cơn đau, ví dụ như đối với những cơn đau ở phía sau đầu th́ dùng các huyệt như Thiên trụ, Phong phủ, Hậu khê, Thân mạch...
Đau ở thái dương dùng các huyệt: Thái dương, Phong tŕ, Ngoại quan, Trung chử...
Đau trán dùng: Đầu duy, Toán trúc, Hợp cốc, Liệt khuyết...
Đau ở đỉnh đầu dùng Bách hội, Thượng tinh, Hậu khê, Thái xung...
Đau toàn đầu dùng các huyệt Hợp cốc, Thái dương, Bách hội, Phong phủ...; Cũng có thể dùng liệu pháp kim tam lăng châm ra máu, dùng các huyệt Thái dương, Dương bạch, Trung xung...Châm xuất huyết một chút; C̣n có thể dùng liệu pháp hỏa quán (giác hơi), đối với chứng đâu đầu do ngoại cảm phong hàn có hiệu quả rất tốt; C̣n có thể dùng phép dán huyệt vị, dùng lá bạc hà tươi giă nát như bùn rồi dán vào các huyệt (dùng băng keo băng lại), mỗi ngày có thể dán 1~2 lần, tác dụng giảm đau rất tốt.

Để giảm đau bằng thuốc, bạn có thể chọn dịch tiêm bắp Diên hồ sách, viên giảm đau phục phương Diên hồ sách bằng đường uống; bạn cũng có thể uống 15 đến 20 viên Tốc hiệu cứu tâm hoàn và thử uống 8 viên trong thời gian cơn đau gián đoạn, hai lần một ngày, hoặc mỗi lần uống 10 viên có thể dùng làm biện pháp dự pḥng, phương pháp trên có tác dụng chữa đau đầu do mạch máu và thần kinh. Nếu có cơn đau đầu cấp tính do viêm xoang, có thể dùng thuốc nhỏ mũi ephedrine 1% để nhỏ vào mũi, 3 đến 4 lần một ngày.

Y học cổ truyền Trung Quốc chữa đau đầu do phong hàn, phong nhiệt như thế nào?
Khi bị đau đầu do phong hàn, đau lan đến cổ và lưng, đặc biệt nặng hơn khi tiếp xúc với gió, thường thích quấn khăn quanh đầu, sợ gió lạnh, không khát; Rêu lưỡi trắng và mạch phù.
Trị pháp: Khứ phong tán hàn, thông kinh hoạt lạc giảm đau.
Xử phương: Xuyên khung trà điều tán gia giảm. Bạch chỉ 12g, Cam thảo 6g, Khương hoạt 10g, Kinh giới 10g, Xuyên khung 15g, Tế tân 3g, Pḥng phong 12g, Bạc hà 6g.
Châm thích dùng các huyệt Thái dương, Ấn đường, Phong tŕ, Bách hội, Hợp cốc. Dùng phép b́nh bổ b́nh tả, lưu kim 20~30 phút, kèm theo ngẹt mũi chảy nước mũi gia Nghênh hương; Kèm theo sốt gia Khúc tŕ, Đại chuy; Kèm theo ho gia Liệt khuyết, Phế du (cứu).
Thôi nă (xoa bóp) trước tiên bạn có thể xoa bóp huyệt Kiên tỉnh 5 lần, xoa bóp Phong tŕ, Phong phủ, bấm Phế du, sau đó là day huyệt Thái dương, hai bên kinh Bàng quang, mức độ là làm cho nóng cục bộ. Sau cùng xoa huyệt Đại chuy cho nóng lên, sau cùng day hai bên cổ từ huyệt Phong tŕ đến huyệt Đại trữ.
Chứng đau đầu do cảm thụ phong nhiệt đau rất kịch liệt, tựa như đầu muốn vỡ ra, phát sốt, sợ gió, mặt hồng, mắt đỏ, khát nước, táo bón, nước tiểu đỏ; Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch phù sác.
Trị pháp: Khứ phong thanh nhiệt, thông kinh hoạt lạc giảm đau.
Xử phương: Khung chỉ thạch cao thang.
Xuyên khung 15g, Bạch chỉ 10g, Thạch cao 20g, Cúc hoa 15g, Cao bản 10g, Khương hoạt 10g. Nếu táo bón, lở miệng lưỡi, gia Đại hoàng 15g, Hoàng liên 12g; Nếu chất lưỡi hồng ít tân dịch, là nhiệt đă gây tổn thương chân âm, có thể gia Thạch hộc, Hoa phấn mỗi vị 18g.
Châm cứu: Dùng huyệt Thái dương (xuất huyết), Phong tŕ, Suất cốc, Liệt khuyết, châm dùng phép tả, lưu kim từ 20~30 phút.
Thôi nă (xoa bóp) day huyệt Phong tŕ, Phong phủ, Thiên trụ, lại day Khúc tŕ, Hợp cốc, day đến khi có cảm giác tức trướng., dùng tay vỗ huyệt Đại chuy, vỗ đến khi da thịt ửng hồng nhẹ, dùng tay vỗ vào hai bên kinh bàng quang, vỗ đến khi da thịt ửng hồng. Nă (véo, nhéo) mạnh hai bên Kiên tỉnh, day Thiên tông, sau cùng nă ngũ kinh, từ 5 ngón tay theo chân tóc phía trước, day đến huyệt Phong tŕ, để kết thúc bằng cách day huyệt Bách hội. Ngũ kinh (2 kinh đảm, hai kinh bàng quang và ở giữa là mạch đốc)

Các phương pháp điều trị bệnh đau đầu do phong thấp của y học cổ truyền là ǵ?
Đau đầu do phong thấp khi đầu có cảm giác như bị bó trong quần áo, đầu óc tối tăm, tức trướng và nặng, cơ thể cảm thấy nặng nề và mệt mỏi, lồng ngực phiền muộn, chán ăn, phân lỏng; Rêu lưỡi trắng nhờn, mạch nhu.
Trị pháp: Khứ phong thắng thấp, tán hàn thông lạc giảm đau.
Xử phương: Thang Khương hoạt thắng thấp.
Khương hoạt 15g, Độc hoạt 12g, Bạch truật 10g, Cúc hoa 10g, Chỉ xác 10g, Xuyên khung 18g, Bạch chỉ 10g, Pḥng phong 10g, Tiền hồ 10g, Cát cánh 10g, Bạc hà 6g, Kinh giới 10g, Sài hồ 10g, Cam thảo 6g. Chán ăn, lồng ngực phiền muộn gia Hậu phác 10g, Trần b́ 6g; Lợm giọng buồn nôn gia khương Bán hạ 10g.

Châm cứu: Các huyệt Phong tŕ, Đầu duy, Thông thiên, Hợp cốc, Tam dương, khi châm dùng phép tả. Như đau đầu phần trước trán gia huyệt Thượng tinh, Dương bạch; Đau vùng đỉnh đầu gia Bách hội, Tiền đính; Đau phía sau đầu gia Thiên trụ, Hậu đính; Đau hai bên cạnh đầu gia Suất cốc, Thái dương.

Thôi nă (Xoa bóp): Cho bệnh nhân ngồi, thày thuốc dùng cả hai tay nắm Kiên tỉnh và ấn vào Đại chuy, Phong phủ. Ở tư thế nằm ngửa, dùng phương pháp uyên ương xoa vùng trán, bấm huyệt Đầu duy, nă (véo, nhéo) Túc tam âm lên, cuối cùng điểm vào Âm lăng tuyền, Tam âm giao và Phong long.

Các phương pháp điều trị chứng đau đầu thử thấp và thử nhiệt của y học cổ truyền là ǵ? (Thử là nắng)
Hội chứng nhức đầu mùa hè ẩm ướt có đặc điểm là cơ thể nóng, ớn lạnh, đổ mồ hôi kém, khát nước, tức ngực, buồn nôn và chán ăn, ăn không ngon, lưỡi đỏ rêu vàng nhờn, mạch sũng nước.
Trị pháp: Thanh thử hóa thấp.
Xử phương: Hoàng liên Hương nhu ẩm gia giảm
Hoàng liên 15g, Hương nhu 12g, Hậu phác 10g, Hoắc hương 15g, Bội lan 12g, Trúc nhự 15g, Hà diệp 30g, Hoạt thạch 20g, Xuyên khung 15g, Bạch chỉ 9g, Cúc hoa 15g.
Đau đầu do nắng nóng mùa hè có các biểu hiện chủ yếu như nóng đầu, trướng đầu, đau nhức, nếu ở gần lửa nóng sẽ khiến triệu chứng đau đầu tăng nặng hơn, miệng khô khát, ra mồ hôi nhiều như mưa; Chất lưỡi đỏ nhạt, mạch phù sác. Bệnh thường gặp vào mùa hạ.
Trị pháp: Thanh thử khứ nhiệt.
Bài thuốc: Thuốc sắc thạch cao lá tre.
Đạm trúc diệp 10g, Thạch cao 24g, Mộc thông 6g, Khổ Cát cánh 6g, Cam thảo 5g, Bạc hà 3g.

Chẩn đoán và điều trị chứng đau đầu do hỏa nhiệt như thê nào?
Chứng đau đầu do hỏa nhiệt có các biểu hiện như đau đầu dữ dội như thể đầu sắp vỡ ra, các triệu chứng sẽ trầm trọng hơn khi tiếp xúc với nhiệt, kèm theo các chứng trạng như đắng miệng , khô họng, mắt đỏ, mặt đỏ bừng, phân khô, nước tiểu ít và có màu đỏ, màu như nước trà, hoặc phiền muộn, hôi miệng; Chất lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng, mạch hồng đại.
Trị pháp: Thanh nhiệt tả hỏa.
Xử phương: Lương cách tán.
Đại hoàng 10g, Phác tiêu 10g, Sơn chi 10g, Liên kiều 10g, Bạc hà 5g, Hoàng cầm 10g, Cam thảo 5g, Đạm trúc diệp 12g.

Làm thế nào để biện chứng đau đầu do các kinh Dương Minh, Thiếu Dương, Thái Dương, Quyết Âm?
Đau đầu do kinh Dương Minh là đau ở vùng trán nối xương lông mày, đau đầu như búa bổ, mắt đỏ, nóng bừng, đổ mồ hôi (tự hăn), rêu lưỡi vàng khô, mạch đại hữu lực. Thường gặp ở hội chứng hỏa nhiệt bốc lên,
Trị pháp: Thanh nhiệt kinh dương minh.
Xử phương: Thang Bạch hổ gia giảm.
Cát căn 15g, Thăng ma 5g, Bạch chỉ 9g, Thạch cao sống 30g, Tri mẫu 10g, Cánh mễ sao 15g, Cam thảo 5g.
Đau đầu do kinh Thiếu Dương với các vị trí đau ở hai bên đầu nối liền với gốc tai và chân tóc, hoặc đau nửa đầu, kèm theo lúc lạnh lúc nóng, lạnh nóng luân phiên (hàn nhiệt văng lai), đau tức ở ngực và hai bên sườn, miệng đắng, chóng mặt, mạch huyền tế; Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng. Trên lâm sàng thường hay gặp bệnh nhân bị hỏa nhiệt của gan mật bốc lên hoặc hội chứng phong nhiệt.
Trị pháp: Ḥa giải biểu lư.
Xử phương: Thang Tiểu sài hồ gia giảm.
Sài hồ 10g, Hoàng cầm 6g, Đảng sâm 10g, khương Bán hạ 10g, Cam thảo nướng 5g, Mạn kinh tử 10g, Cao bản 10g.
Đau đầu do bệnh ở kinh Thái dương thường đau vùng sau đầu lan xuống cổ và lưng, kèm theo sốt, sợ gió lạnh, mạch phù. Thường gặp trong các hội chứng ngoại cảm phong hàn và phong nhiệt.
Trị pháp: Sơ phong giải biểu.
Xử phương: Thang Khương hoạt pḥng phong.
Khương hoạt 6g, Pḥng phong 6g, Mạn kinh tử 10g, Cao bản 10g, Xuyên khung 5g, Cam thảo 3g.
Đau đầu do bệnh ở kinh Quyết Âm vị trí đau chủ yếu ở đỉnh đầu, kéo sang 2 góc đầu, cảm thấy có luồng khí dâng lên hoặc muốn nôn nhưng không thể, hoặc nôn ra bọt dăi.
Trị pháp: Ôn tán hàn lănh ở quyết âm.
Xử phương: Thang Ngô thù du gia giảm.
Ngô thù du 6g, Sinh khương 10g, khương Bán hạ 10g, Cao bản 10g, Đảng sâm 15g, Cam thảo nướng 3g.

Đau đầu do động kinh là ǵ và cách điều trị như thế nào?
Đau đầu quyết nghịch có triệu chứng kèm theo như đau răng, nhức đầu lạnh, ớn lạnh, sắc mặt nhợt nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, chất lưỡi nhạt, mạch huyền.
Trị pháp: Ôn tán hàn tà.
Xử phương: Thang Khương hoạt Phụ tử.
Khương hoạt 10g, Thục phụ tử 10g, Phục linh 9g, Nhân sâm 3g, Bạch truật 10g, Thược dược 9g, Nhục quế 9g, Cam thảo nướng 6g.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu do can dương, can uất, can hỏa, can phong, can hàn như thế nào?
Chứng đau đầu do can dương thường kèm theo chóng mặt, khó chịu hay cáu giận, mất ngủ, hoặc đau cạnh sườn, mặt đỏ, miệng đắng, đặc trưng là đau đầu, đầu trướng, lúc nặng lúc nhẹ, hoặc đau nửa đầu; Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi màu vàng mỏng, mạch huyền có lực.
Trị pháp: Thanh nhiệt b́nh can, Tiềm dương trị đau, thông kinh hoạt lạc.
Xử phương: Thiên ma câu đằng ẩm gia giảm.
Thiên ma 10g, Câu đằng 12g, Thạch quyết minh 12g, Cúc hoa 12g, Hoàng cầm 10g, Chi tử 10g, Ngưu tất 10g. Đau đầu nhiều , gia Long đảm thảo 10g, Hạ khô thảo 10g. Đau đầu kèm chóng mặt ẩu thổ, gia Đại giả thạch 20g, Long cốt sống 20g, Mẫu lệ sống 20g; Nếu can thận âm hư, khứ Sơn chi, gia Địa hoàng, Kỷ tử, Bạch thược mỗi vị 10g; Eo lưng ê ẩm đùi mỏi yếu, gia Đỗ trọng 10g, Tang kư sinh 10g.

Châm cứu: Chọn các huyệt Huyền lô, Hạp yêm (hàm yên), Thái xung, Thái khê, dùng tả pháp và lưu kim trong ṿng 20 đến 30 phút. Những người có mắt đỏ gia thêm huyệt Thái dương (xuất huyết) , những bn chóng mặt sẽ gia thêm huyệt Suất cốc.
Massage: Đầu tiên xoa Phong tŕ và Kiên tỉnh, đẩy Kiều cung, đẩy từ trên xuống dưới, mỗi bên hơn trăm lần, luân phiên hai bên. Sau đó dùng phương pháp quét để tác động lên kinh đảm ở một bên đầu từ trước ra sau, từ trên xuống dưới, xen kẽ hai bên, mỗi bên hàng chục lần, phối hợp xoa bóp huyệt Giác tôn, xoa bóp các huyệt Thái Xung và Hành gian cả hai bên, phải day cho đến khi huyệt vị có cảm giác đau và sưng lên mới đạt. Lại day huyệt Dũng tuyền hai bên, day đến khi vị trí huyệt nóng lên mới ngừng.C uối cùng, xoa bóp các huyệt Tam âm giao ở cả hai bên, đồng thời xoa bóp các huyệt Can du, Đảm du và Tâm du ở hai bên.
Chứng can uất gây đau đầu, thường kèm theo trướng đầy ở hai bên sườn, hay thở dài, biểu hiện im lặng, buồn nôn chán ăn; Rêu lưỡi trắng, mạch huyền.
Trị pháp: Sơ can giải uất.
Xử phương: Tiêu dao tán gia giảm.
Sài hồ 15g, Đương quy 10g, Bạch thược 10g, Bạch truật 10g, Phục linh 15g, Cam thảo 6g, Bạc hà 6g, Đan b́ 10g, Chi tử 10g.
Đau đầu do hỏa ở gan (can hỏa) thường kèm theo chóng mặt, trướng đầu, đau hai bên hoặc đỉnh đầu, mặt và mắt đỏ, cáu gắt khó chịu, miệng khô đắng, táo bón, nước tiểu đỏ; Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch huyền sác.
Trị pháp: Thanh can tả hỏa.
Xử phương: Thang Long đảm tả can.
Long đảm thảo 6g, Sin tườngh địa 15g, Đương quy 10g, Hoàng cầm 10g, Tiêu sơn chi 10g, Mộc thông 6g, Sài hồ 6g, Xa tiền tử 10g, Cam thảo 6g.
Chứng đau đầu do can phong gây chóng mặt kịch liệt, cơn đau thường có cảm giác như co kéo, khó mở mắt, đau không có vị trí cố định; Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền hoạt hoặc sác.
Trị pháp: B́nh can tức phong.
Xử phương: Thang Linh giác câu đằng gia giảm.
Sinh địa 15g, Bạch thược sống 15g, Đông tang diệp 10g, Hàng Cúc hoa 10g, Câu đằng 6g, bột Linh dương giác 0.5g. Phương trên thích hợp với can phong nội động.
Nếu là do thận âm hư th́ dùng trị pháp Tư âm tức phong, Phương dược: Đại định phong châu gia giảm: Bạch thược 15g, Sinh địa hoàng 15g, Mẫu lệ sống 24g, Quy bản 10g, Miết giáp 15g, Hỏa ma nhân 15g, Mạch đông 12g, Ngũ vị 3g, Cam thảo nướng 5g, uống riêng 2 cái ḷng đỏ trứng gà.
Đau đầu do gan bị lạnh thường đau ở đỉnh đầu, khi đau có cảm giác lạnh ở đầu, chân tay lạnh, nôn mửa và chảy nước dăi, rêu lưỡi trắng trơn, mạch trầm khẩn.
Trị pháp: Ôn can giáng nghịch.
Xử phương: Thang Ngô thù du gia giảm.
Ngô thù du 15g, Nhân sâm 3g, Sinh khương 6g, Đại táo 6 quả, Đương quy 10g, Nhục quế 6g.

Đông y điều trị chứng đau đầu do đàm trọc và đàm hỏa như thế nào?
Triệu chứng đau đầu do đờm trọc bao gồm các chứng trạng như thỉnh thoảng đau đầu, đầu óc nặng nề hôn ám, tức ngực và vị quản, nôn ra đờm và nước bọt, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch hoạt.
Trị pháp: Kiện tỳ hóa đàm, khứ phong b́nh can, thông lạc giảm đau.
Xử phương: Thang Bán hạ bạch truật thiên ma gia giảm.
Bán hạ 15g, Trần b́ 18g, Thiên ma 9g, Bạch truật 20g, Phục linh 30g, Hậu phác 12g, Tô tử 12g, Sa nhân 12g, Sinh khương 15g, Mạn kinh tử 12g. Nếu đàm uất hóa nhiệt như miệng đắng, táo bón, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác th́ dùng phương trên khứ Bạch truật và Sinh khương, gia thêm Trúc nhự 15g, Chỉ thực 10g, Hoàng cầm 15g, Đại hoàng 12g.
Châm cứu: Dùng các huyệt: Bách Hội, Ấn đường, Đầu duy, Phong long, Hợp cốc, Châm dùng phép tả, ẩu thổ gia Nội quan, Trung quản; Phân lỏng nát gia Thiên xu, lưu kim 20~30 phút, mỗi ngày 1 lần.

Thôi nă (Massage): Đầu tiên dùng một ngón tay massage (Nhất chỉ thiền)lên các huyệt Trung quản, Thiên xu ở bụng trong 10 phút, sau đó xoa bóp Tỳ du, Vị du, Đại tràng du, tiếp tục xoa theo chiều ngang ở phía bên trái của lưng cho đến khi cảm nhận được hơi nóng th́ ngưng lại. Xoa bóp hai bên các huyệt Túc tam lư, Phong long, Nội quan, xoa huyệt Dũng tuyền (hai bên), và cuối cùng xoa bụng theo chiều kim đồng hồ trong 10 phút, và và bấm huyệt Kiên tỉnh hơn 10 lần.
Đau đầu do đàm hỏa thường kèm theo ù tai, khạc nhổ nhiều, mặt và mắt đỏ bừng, khát nước và táo bón, bực bội dễ cáu giận, tức ngực, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch hồng hoạt sác.
Trị pháp: Hóa đàm thanh hỏa.
Xử phương: Mông thạch cổn đàm hoàn gia giảm.
Thanh mông thạch 30g, Trầm hương 10g, Đại hoàng 6g, Hoàng cầm 15g, Phác tiêu 10g, Bán hạ 15g, Trần b́ 10g, Sinh khương 6g, Cam thảo 6g.

Chứng đau đầu do thực phẩm bị đ́nh trệ là ǵ, y học cổ truyền điều trị như thế nào?
Đau đầu do ứ trệ thực phẩm thường kèm theo ngực và cơ hoành bĩ tắc, ợ hơi ợ chua, đau nhiều hơn khi no bụng, hoặc táo bón đau bụng, rêu lưỡi nhờn, mạch hoạt.
Trị pháp: Tiêu thực trừ trệ.
Xử phương: Bảo ḥa hoàn gia giảm.
Trần b́ 15g, Bán hạ 12g, Lai bặc tử 18g, Sơn tra 15g, Phục linh 18g, Binh lang 10g, Chỉ thực 12g, Sa nhân 15g, Mạn kinh tử 10g.

Làm thế nào để chẩn đoán và điều trị đau đầu do nóng dạ dày (Vị nhiệt đầu thống)?
Đau đầu do dạ dày nóng, đặc điểm là đau đầu kịch liệt, nhất là vùng trán, đầu nóng mặt đỏ bừng, khát nước, nóng toàn thân và đổ mồ hôi, hoặc táo bón, đầy bụng và đau, rêu lưỡi vàng khô, mạch hồng đại hoặc trầm thực có lực.
Trị pháp: Thanh tiết vị nhiệt.
Công thức: Thang Bạch Hổ gia giảm.
Thạch cao 30g, Tri mẫu 10g, Cam thảo 5g, Cánh mễ 30g, Trạch tả 10g, Sinh địa 10g, Mạch đông 10g.
Nếu dạ dày và ruột khô táo, có thể dùng thang Đại thừa khí, gồm Mang tiêu 20g, Chỉ thực 10g, Đại hoàng 6g, Hậu phác 10g, gia thêm Bạch chỉ 10g.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu do thấp nhiệt như thế nào?
Chứng đau đầu do thấp nhiệt khi phát tác có cảm giác như đầu ḿnh bị bao lại, có khi mắt bị vàng, xương khớp tay chân đau ê ẩm, nước tiểu màu đỏ lượng ít; Rêu lưỡi vàng nhớt, mạch huyền và nhịp đập hơi nhanh.
Trị pháp: Phương hương hóa trọc, thanh lợi thấp nhiệt.
Xử phương: Tam nhân thang.
Quang Hạnh nhân 12g, phi Hoạt thạch 20g, Bạch thông thảo 6g, Đạm trúc diệp 6g, Xuyên hậu phác 6g, Rĩ nhân sống 24g, pháp Bán hạ 10g, Bạch khấu nhân 5g.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu do ứ huyết như thế nào?
Người bị đau đầu do ứ huyết thường có tiền sử chấn thương đầu, đau đầu dai dẳng, điểm đau cố định; Chất lưỡi tím, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế hoặc tế sáp.
Trị pháp: Hoạt huyết hóa ứ.
Xử phương: Thang Thông khiếu hoạt huyết gia giảm. Đào nhân 12g, Hồng hoa 15g, Xuyên khung 18g, Bạch chỉ 10g, Địa long 15g, Nguyên hồ 12g, Uất kim 12g, Thạch xương bồ 10g, Hương phụ 15g. Nếu đau đầu nghiêm trọng, gia Toàn trùng 10g, Ngô công 3 con, Xạ hương 0.1g (ḥa nước nguội uống riêng); Nếu đau đầu đă giảm, nhưng c̣n vựng đầu chóng mặt, hay quên, mất ngủ hay mơ, gia Thủ ô 20g, Nữ trinh tử 15g, Kỷ tử 18g, Táo nhân sao 20g.

Châm cứu: Dùng huyệt A thị, Thái dương, Hợp cốc, Liệt khuyết, Huyết hải, Tam âm giao. Đau lông mày th́ thêm Toán trúcvà Ấn đường; Đau nửa đầu th́ thêm Đầu duy và huyệt Suất cốc; Đau phía sau đầu th́ thêm Phong tŕ và Hậu khê. Sử dụng phương pháp châm tả, lưu kim trong 20 đến 30 phút, mỗi ngày một lần.
Xoa bóp: Khi bệnh nhân ngồi, dùng phương pháp nhất chỉ thiền (day bằng một ngón tay) để di chuyển lên xuống dọc theo kinh bàng quang ở hai bên cổ trong 3 đến 4 phút, sau đó ấn vào các huyệt Phong tŕ, Phong phủ, Thiên trụ. Kế tiếp day Phong tŕ hai bên và xoa dọc theo kinh bàng quang ở hai bên cổ 4 đến 5 lần từ trên xuống dưới. Sau đó, sử dụng phương pháp nhất chỉ thiền (bằng một ngón tay) để bắt đầu từ Ấn đường, đi lên dọc theo trán và chân tóc đến huyệt Đầu duy, Thái Dương, qua lại 3 đến 4 lần và phối hợp ấn vào các huyệt Ấn đường, Thái dương, Bách hội. Sau đó dùng phương pháp nhào nặn tác động lên trán, tập trung vào Ấn đường và huyệt Thái dương hai bên. Sau đó dùng phương pháp xoa từ Ấn đường hướng lên dọc theo chân tóc đến huyệt Thái dương, xoa lên xuống 3 đến 4 lần. Cuối cùng dùng cách 5 ngón giữ từ cổ đến Phong Tŕ, chuyển sang cách 3 ngón, men theo kinh bàng quang ra 2 bên Đại chuy, lặp lại 4 đến 5 lần. Nhào, ấn rồi xoa lên huyệt Thái dương, Toán trúc và trán, hai bên đầu là nơi tuần hành của kinh đảm, kinh đảm lưu thông trên trán và hai bên đầu, xoa trán, hai bên đầu và thái dương, xoa đến khi nóng lên là đạt.

Chứng đau đầu do khí hư, huyết hư và khí huyết lưỡng hư là ǵ và chúng được chẩn đoán và điều trị theo y học cổ truyền như thế nào?
Người bệnh đau đầu do khí hư có những cơn đau đầu liên tục lặp đi lặp lại, gắng sức quá mức sẽ khiến cơn đau đầu trở nên trầm trọng hơn, mệt mỏi yếu sức, tinh thần uể oải khó thở, kém ăn; Chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế vô lực.
Trị pháp: Ích khí thăng dương.
Xử phương: Thang Hoàng kỳ ích khí gia giảm.
Hoàng kỳ 15g, Bạch truật 10g, Nhân sâm 3g, Bán hạ 10g, Trần b́ 6g, Đương quy 10g, Xuyên khung 10g, Cao bản 10g, Cam thảo 6g, Thăng ma 6g.
Đau đầu do thiếu máu, có đặc điểm như đau âm ỉ, lúc đau lúc không, chóng mặt, hoảng hốt, mệt mỏi yếu sức, mặt trắng bệch, môi nhạt; Chất lưỡi nhạt, ít rêu, mạch tế nhược.
Trị pháp: Dưỡng huyết sung doanh, kiện năo vinh lạc.
Xử phương: Thang Tứ vật gia vị: Địa hoàng 20g, Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung, Thủ ô mỗi vị 10g, Kỷ tử 12g. Huyết hư nghiêm trọng gia A giao 30g; Kiêm khí hư gia Hoàng kỳ, Đảng sâm mỗi vị 15g; Kèm theo can thận âm hư, gia Quy bản 20g, Thục địa 12g

Châm cứu: Chọn các huyệt Bách hợp, Đầu duy, Túc tam lư, Tam âm giao, gia cứu Túc tam lư, Tam âm giao, Khí hải, dùng phép bổ, lưu kim 20 phút, cách ngày 1 lần. Nếu kèm theo mất ngủ gia Thần môn, Nội quan. Sau khi chứng đau đầu hoăn giải, cân nhắc cứu các huyệt Can du, Tỳ du, Thận du, Khí hải...

Xoa bóp: Bệnh nhân ngồi, thày thuốc dùng ngón cái của cả hai tay ấn vào tâm du, Cách du và Tỳ du, sau đó dùng phương pháp găi tôn hầu, day huyệt Khí hải.
Bệnh nhân bị đau đầu do khí huyết lưỡng hư có thể bị đau đầu âm ỉ, chóng mặt, mặt không tươi, môi và móng tay nhợt nhạt, hồi hộp và mất ngủ, tự xuất mồ hôi, mệt mỏi uể oải, trướng bụng; Chất lưỡi nhợt nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, và mạch tế nhược.
Trị pháp: Song bổ khí huyết, hoạt lạc giảm đau.
Xử phương: Thang Bát trân gia giảm.
Đảng sâm, Sinh Thục địa, Cát căn mỗi vị 16g, Phục linh, Bạch truật, Đương quy, Bạch thược mỗi vị 10g, Chích cam thảo 5g, Xuyên khung 5g, gừng tươi 3 lát, táo 5 quả. Nếu uống thuốc bị đầy bụng có thể gia Sa nhân 4g.
Châm cứu: Chọn các huyệt Bách hội, Tâm du, Cách du, Tỳ du, Liệt khuyết, Hợp cốc, Trung quản, Thiên xu, Khí hải, Túc tam lư, Tam âm giao. Sử dụng cả châm và cứu, dùng phép bổ, cách ngày 1 lần.
Xoa bóp: Người bệnh ngồi, đầu tiên dùng phương nă pháp (cầm), phương pháp ấn Thiền bằng một ngón tay (Nhất chỉ thiền) và phương pháp nhào nặn trong 2 phút cho mỗi huyệt Phong Tŕ, Thiên Trụ; Sau đó dọc theo các kinh Túc Thái Dương và Túc Thiếu Dương từ trên xuống dưới. đến cả hai bên của huyệt Đại chuy. Lặp lại thao tác 3 đến 5 lần. Sau đó dùng nhất chỉ thiền xoa bóp các huyệt Bách hội, Hợp cốc, Đầu lâm khấp, Đầu duy, Thái dương mỗi huyệt 2 phút, xoa từ huyệt Toán trúc dọc theo lông mày đến huyệt Thái dương 5 đến 6 lần, đồng thời xoa bóp Cách du, Tỳ du, Thận du, Trung quản, Khí hải, Túc tam lư mỗi huyệt từ 1 đến 2 phút, cuối cùng day huyệt Hợp cốc trong 2 phút.

Làm thế nào để điều trị chứng đau đầu do thận âm, thận dương hư?
Người thận âm hư đau đầu thường có cảm giác nhức đầu và cảm giác đầu óc trống rỗng, choáng váng ù tai, thắt lưng và đầu gối đau nhức, ngũ tâm phiền nóng (ngũ tâm gồm ḷng bàn tay bàn chân và ngực), di tinh đái hạ; Chất lưỡi đỏ ít rêu lưỡi, mạch huyền tế vô lực.
Trị pháp: Bồi bổ thận âm, thông lạc giảm đau.
Xử phương: Đại bổ nguyên tiễn gia giảm.
Thục địa 18g, Sơn dược 25g, Sơn thù 15g, Kỷ tử 18g, Đỗ trọng 25g, Xuyên đoạn 25g, Ngưu tất 20g, Nữ trinh 15g, Thủ ô 18g.
Châm cứu: Bách hội, Phong tŕ, Tam âm giao, Thái khê, Hiệp khê, Hành gian. Dùng phép bổ, cách ngày 1 lần, lưu kim 30 phút.
Thôi nă (Massage): Đầu tiên, massage bụng tập trung vào huyệt Khí hải và huyệt Quan nguyên từ 6 đến 8 phút. Massage Thận du, Đại tràng du, Chí thất ở hai bên bằng ngón tay. Chà gốc bàn tay vào mạch Đốc ở lưng, đặc biệt là phần dưới, sau đó xoa thắt lưng và thận du, mệnh môn đến eo và xương cùng, xoa đến khi nóng các điểm vừa nêu mới ngừng, dùng tay day lắc huyệt Quan nguyên, Bách hội, sau cùng day Kiên tỉnh, xoa huyệt Phong tŕ, Thái dương, xoa sát Dũng tuyền, xoa Tam âm giao.
Đau đầu do thận dương hư, đau đầu có cảm giác lạnh, đau nhẹ, khi chườm nóng th́ giảm đau, khi gắng sức th́ đau tăng lên, sắc mặt nhợt nhạt, eo và đầu gối đau mỏi, tay chân lạnh, phân lỏng; Chất lưỡi nhạt, mạch tế nhược.
Trị pháp: Ôn bổ thận dương.
Đơn thuốc: Hữu quy hoàn gia giảm.
Thục địa 18g, Sơn dược 20g, Sơn thù 18g, Kỷ tử 15g, Đỗ trọng 25g, Thố ti tử 18g, Tục đoạn 20g, Cẩu tích 20g, Ngưu tất 18g, Dâm dương hoắc 10g, Nhục quế 6g. Nếu thận hư đă lâu, tỳ khí cũng hư, kèm theo thở ngắn âm thanh thấp nhỏ, ăn ít, phân lỏng nát, gia Hoàng kỳ 30g, Đảng sâm 25g, Bạch truật 20g.
Châm cứu: Bách Hội, Thái Dương, Hợp Cốc, Mệnh Môn, Chí Thất, Thái khê. Sử dụng đồng thời châm và cứu, dùng phép bổ, mỗi ngày một lần và lưu kim trong 30 phút.
Xoa bóp (Thôi nă): Người bệnh nằm ngửa hoặc tư thế ngồi, thày thuốc ở tư thế thích hợp, luân phiên dùng hai ngón tay cái đẩy Ấn đương qua tiền đ́nh và Ấn đường về Bách Hội. Từ Ấn đường về Ngư yêu và từ Thái dương đến phía trước tai, dùng ngón tay cái đẩy 3 lần. Tự Ấn đường đến Đầu duy, từ trước tai đến sau tai phân ra đẩy 3 lần, sau đó bấm các huyệt Ấn đường, Thái dương, Đầu duy, Bách hội mỗi huyệt 1 phút.Sau đó dùng ngón tay cái hoặc nhiều ngón tay xoa, nhéo sau gáy và vai nhiều lần, bấm Phong tŕ, Kiên tỉnh, Hợp cốc mỗi huyệt 1 phút, lại xoa bụng từ 6~8 phút và trọng điểm là hai huyệt Khí hải và Quan nguyên, xoa trực tiếp lên mạch đốc ở lưng, xoa ngang sang thận du ở eo bệnh nhân, xoa huyệt mệnh môn đến xương cùng, xoa đến khi cục bộ huyệt ấm lên là đạt yêu cầu.

Đau đầu do phong, đau đầu do rượu là ǵ và cách điều trị bằng y học cổ truyền như thế nào?
Đau đầu do phong gọi là thương phong đầu thống, thường có cơn đau đầu kịch phát, sợ gió và không ra mồ hôi, nghẹt mũi nhiều, mí mắt giật giật, rêu lưỡi mỏng màu vàng, mạch phù khẩn.
Trị pháp: Khứ phong giải trừ biểu chứng.
Xử phương: Khung chỉ hương tô tán.
Xuyên khung 10g, Bạch chỉ 10g, Tô diệp 20g, Trần b́ 20g, Cam thảo 10g.
Người bị đau đầu do rượu (Thương tửu đầu thống) có biểu hiện nhức đầu, chóng mặt, hai mắt thất thần, kèm theo các triệu chứng say rượu, buồn nôn và nôn, tức ngực và cơ hoành bĩ đầy, khát nước và đầu óc ngu muội, tay chân run rẩy, tiểu khó, phân lỏng nát, bồn chồn hoặc ngủ mê; Rêu lưỡi vàng, mạch sác.
Trị pháp: Ḥa vị tỉnh tửu, giải độc.
Xử phương: Thang giải tửu.
Cát hoa 10g, Đậu khấu 15g, Sa nhân 15g, Bạch truật 10g, Thanh b́ 9g, Trạch tả 6g, Thần khúc 6g, Can khương 6g, Đảng sâm 5g, Trư linh 5g, Phục linh 5g, Trần b́ 5g, Mộc hương 3g.

Chứng đau nửa đầu là ǵ và y học cổ truyền chẩn đoán và điều trị như thế nào?
Chứng đau nửa đầu hay c̣n gọi là chứng thiên đầu thống, có đặc điểm phát bệnh rất nhanh (bạo phát), đau rất kịch liệt, đau một bên đầu (bên phải hoặc bên trái), thậm chí liên quan đến mắt hoặc răng, khi cơn đau ngừng lại th́ như người b́nh thường và phần lớn có liên quan với phong hỏa của kinh can.
Trị pháp: B́nh can tức phong thanh nhiệt.
Xử phương: Cúc hoa 6g, Thiên ma 15g, Sơn dược 10g, Bạch chỉ 10g, Thạch cao sống 20g, Cao bản 10g, Mạn kinh tử 10g, Câu đằng 10g, Toàn yết 2g, Địa long 3g. Nếu hỏa của gan nhiều, có thể gia Long đảm thảo 15g, Chi tử 10g, Hoàng cầm 10g, Đan b́ 10g; Nếu nhiều đàm có thể gia Trần b́ 10g, Bán hạ 9g, Đảm nam tinh 10g; Nếu đau đă lâu bệnh đă xâm nhập lạc mạch, có thể dùng thêm các vị thuốc hóa ứ thông lạc, như Đào nhân 20g, Hồng hoa 6g, Xích thược 10g.

Lôi đầu phong là ǵ và y học cổ truyền chẩn đoán và điều trị như thế nào?
Lôi đầu phong là người bệnh cảm thấy đau đầu và như có sấm sét trong đầu, đầu và mặt nổi hạch, đỏ sưng tấy, khó mở mắt, phần lớn là do đàm ẩm và hỏa bốc lên gây ra.
Trị pháp: Trừ thấp hóa đàm.
Xử phương: Thanh chấn thang gia vị.
Thăng ma 10g, Thương truật 10g, Hà diệp 10g, Trần b́ 6g, Bán hạ 9g, Đảm nam tinh 10g, Phục linh 10g, Xuyên khung 10g.

Chân đầu thống (đau đầu thực sự) là ǵ? Chẩn đoán và điều trị bằng y học cổ truyền như thế nào?
Đau đầu thực sự (chân đầu thống) là cơn đau đầu liên quan đến năo và tủy sống, đau đến mức không thể chịu nổi, tay chân sợ lạnh, tay lạnh qúa khuỷu tay, chân lạnh quá đầu gối, trường hợp nặng bệnh nhân không thể nhấc đầu lên được; Chất lưỡi nhợt nhạt, mạch vi dục tuyệt (nhỏ như muốn hết mạch).
Trị pháp: Bổ thận, nạp dương.
Xử phương: Hắc tích đan gia giảm.
Trầm hương, Phụ tử sao, Hồ lô ba, Dương khởi thạch, Hồi hương, Bổ cốt chỉ, Nhục đậu khấu, Xuyên luyện tử, Mộc hương, Nhục quế mỗi vị 30g, một ít Hắc tích đan, một ít Lưu hoàng, hoàn bằng hồ và rượu, người lớn mỗi lần uống 5g.

V́ sao nên dùng “Dẫn kinh dược” (引经药) thuốc dẫn kinh khi điều trị đau đầu?
Trong điều trị lâm sàng chứng đau đầu, việc lựa chọn các loại thuốc dẫn kinh khác nhau sẽ hữu ích để phát huy tác dụng hỗ trợ đơn thuốc ban đầu. Theo vị trí đau đầu, hăy tham khảo đường đi của kinh mạch, ví dụ như đau đầu ở Thái Dương, nếu đau ở phía sau đầu và cổ, hăy chọn Khương hoạt, Màn kinh tử và Xuyên khung; đối với đau đầu Dương Minh, nếu đau ở trán, chọn Cát căn, Bạch chỉ, Tri mẫu; Đối với đau đầu Thiếu Dương, đau ở cổ, bạn có thể sử dụng Sài hồ, Hoàng cầm, Xuyên khung; Nếu đau đầu do Quyết âm và đau trên đỉnh đầu, bạn có thể sử dụng Ngô thù du, Cao bản v.v.

Làm thế nào để điều trị đau đầu do thần kinh huyết quản bằng y học cổ truyền?
Đau đầu do bệnh thần kinh mạch máu là cơn đau đầu tái phát do rối loạn điều ḥa thần kinh mạch máu ở đầu. Đặc điểm lâm sàng là đau đầu dữ dội kịch phát một bên, kèm theo mờ mắt, buồn nôn và nôn. Chẩn đoán và điều trị được chia thành hai loại: Đau nửa đầu và không đau nửa đầu.
Chứng đau nửa đầu điển h́nh phổ biến hơn ở phụ nữ và khoảng 60% đến 80% bệnh nhân có tiền sử di truyền, khởi phát thường xuyên hơn ở tuổi thiếu niên.
Theo cách phân biệt hội chứng của y học cổ truyền, đau đầu do tà khí xâm nhập vào năo là cơn đau dữ dội ở một bên đầu, bên trái hoặc bên phải, có biểu hiện đau giật hoặc đau nhói, kinh niên không khỏi và thường xuyên bùng phát, do gió, bị lạnh hoặc tâm trạng không tốt mà dụ phát bệnh; Rêu lưỡi trắng mỏng, mạch huyền hoặc khẩn.
Trị pháp: Sơ phong hoạt huyết giảm đau.
Xử phương: Xuyên khung trà điều tán. Xuyên khung 30g, Tế tân 3g, Bạch chỉ 12g, Pḥng phong 12g, Kinh giới 12g, Khương hoạt 10g, Bạc hà 5g, Toàn yết 6g, Cương tàm 6g.
Loại h́nh lạc mạch trong năo bị nghẹt tắc đau phần nhiều ở một bên, lúc đau lúc không, có điểm đau hoặc đau như kim châm hoặc đau kịch liệt như bị rách, hoặc lộ gân xanh, loại h́nh này hay gặp ở phụ nữ khỏe mạnh, kinh nguyệt lượng ít và sáp trệ, kèm theo kinh nguyệt có huyết khối, hoặc khi hành kinh chứng đau đầu tăng nặng; Chất lưỡi tím tối, hoặc có ứ ban, ứ điểm, mạch huyền hoặc tế sáp.
Trị pháp: Hoạt huyết hóa ứ
Xử phương: Huyết phủ trục ứ thang gia giảm.
Xuyên khung 30g, Đào nhân 15g, Hồng hoa 15g, Xích thược 15g, Sài hồ 10g, Ngưu tất 15g, Sinh địa 15g, Cát cánh 3g, Đương quy 20g, Chỉ xác 6g, Cam thảo 3g.

Đau đầu loại h́nh can kinh phong hỏa thường đau trướng một bên, đặc biệt là vùng trán, các cơ và cân mạch ở thái dương nổi lớn và đau giật theo mạch đập, nhức nhối, thậm chí có cảm giác toàn bộ đầu đau trướng tức như muốn vỡ ra, hoặc do hỏa tả bốc lên th́ cơn đau đầu thường do nguyên nhân tinh thần căng thẳng mà dụ phát, bệnh nhân mặt hồng mắt đỏ, chói mắt nh́n không rơ, bực bội khó chịu, lơm giọng ẩu thổ, miệng khô đắng; Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác.
Trị pháp: Thanh can tức phong.
Xử phương: Đảm Cúc ẩm. Long đảm thảo 15g, Cúc hoa 12g, Thiên ma 12g, Xuyên khung 20g, Bạch chỉ 12g, Hạ khô thảo 30g, Câu đằng 30g, Địa long 12g, Toàn yết 10g, Chi tử 12g, Đan b́ 12g, Trân châu mẫu 30g.
Loại h́nh đau đầu do can dương thượng kháng (bốc lên), đau trướng nửa đầu và chóng mặt, hoặc cả đầu đau âm ỉ, khi cáu giận th́ đau đầu tăng nặng, người bệnh bực bội vội vă, mất ngủ hay mơ, mặt nóng bừng, ù tai điếc tai; Chất lưỡi hồng, ít rêu lưỡi, mạch huyền tế mà sác.
Trị pháp: B́nh can tiềm dương.
Xử phương: Thiên ma câu đằng ẩm gia giảm. Thiên ma 12g, Câu đằng 30g, Thạch quyết minh 30g, Sinh, Thục địa mỗi vị 15g, Phục thần 12g, Dạ giao đằng 20g.
Loại h́nh đau đầu do đàm trọc (che lấp) là đau nửa đầu, đầu óc tối tăm, buồn nôn và nôn, ngực và dạ dày đầy trướng phiền muộn, chán ăn, ăn ít; Rêu lưỡi trắng nhớt, mạch huyền hoạt.
Trị pháp: Hóa đàm giáng nghịch.
Xử phương: Bán hạ Bạch truật Thiên ma thang hợp Khiên chính tán gia giảm. Bán hạ 20g, Bạch truật 12g, Phục linh 30g, Trần b́ 12g, Thiên ma 12g, Bạch phụ tử 12g, Bạch cương tàm 10g, Toàn yết 5g, Địa long 10g, Nha tạo (nướng) 5g, Mạn kinh tử 10g.
Đau đầu do tinh huyết hư yếu, đầu đau có cảm giác trống rỗng, đau liên tục, khi gắng sức th́ đau tăng nặng, kèm theo chóng mặt, ù tai, hồi hộp, dễ sợ hăi, eo và đầu gối đau mỏi, tinh thần uể oải yếu sức; Chất lưỡi nhợt nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, và mạch trầm tế vô lực.
Trị pháp: Bổ ích tinh tủy, bổ khí ích huyết.
Xử phương: Đại bổ nguyên tiễn hợp Tứ vật thang hóa tài. Thục địa 30g, Sơn thù 15g, Sơn dược 15g, Kỷ tử 15g, Đỗ trọng 12g, Đương quy 15g, Bạch thược 20g, Xuyên khung 15g, Hồng sâm 5g, Hoàng kỳ 30g.

Châm cứu: Dùng các huyệt gồm Thái Dương, Đầu duy, Hợp Cốc và A Thị. Can dương bốc lên gia Thái Xung, đàm thấp gia Phong Long. Thủ pháp bao gồm nâng, chèn và vê kim, kích thích mạnh và lưu kim tại chỗ từ 30 đến 50 phút, mỗi ngày một lần. Đối với cơn đau dữ dội, có thể thực hiện kích thích từ trung b́nh đến mạnh tại các huyệt như Thái dương, Thái xung và huyệt Hợp cốc ở bên không đau, cũng như các huyệt Phong tŕ và Suất cốc ở bên bị đau. Ngoài ra, cũng có thể áp dụng liệu pháp châm cứu ngoại biên, tức là cách chu vi vùng đau khoảng 0,5 cm, dùng kim 0,5 đến 1 inch đâm kim chéo về phía tâm vùng đau, châm sâu khoảng 0,2 đến 0,5 cm, sau đó đâm kim cứ 0,5 cm cho đến khi tạo thành h́nh tṛn. Những cơn đau đầu khó chữa cũng có thể được điều trị bằng liệu pháp chôn kim, tức là lấy hai chiếc kim dạng sợi dài 1,5 đến 2 inch và chèn thẳng chúng vào các đường phía trước và phía sau thái dương, dán cán kim bằng băng dính lưu kim trong 24 đến 28 giờ hoặc lâu hơn. Chỉ có thể bắt đầu châm sau khi hết đau.
Thôi nă (Xoa bóp): Cho bệnh nhân ngồi, trước tiên dùng phương pháp cầm (véo), phương pháp nhất chỉ thiền (đẩy) và phương pháp xoa day để áp dụng vào các huyệt Thiên Tŕ, Thiên Trụ và các huyệt khác, mỗi huyệt 2 phút, sau đó thực hiện 3 thao tác qua lại dọc theo kinh Túc Thái Dương và kinh túc Thiếu Dương từ trên xuống dưới ở hai bên Đại Chùy từ 3~5 lần. Sau đó dùng các phương pháp nhất chỉ thiền và nhào nặn, xoa bóp mỗi huyệt trong 2 phút trên các huyệt Bách hội, Suất cốc, Đầu lâm khấp, Đầu duy, Thái dương. Đồng thời xoa từ huyệt Toán trúc dọc theo lông mày lên đến huyệt Thái dương 5 đến 6 lần, cuối cùng thực hiện nă (nhéo) huyệt Hợp cốc 2 phút. (nă là dùng ngón cái và một vài ngón c̣n lại nắm lấy vị trí đă chọn)

Điều trị chứng đau đầu do bệnh răng miệng và nha chu bằng y học cổ truyền như thế nào?
Cơn đau do bệnh răng và nha chu cũng có thể gây ra đau đầu ở nhiều mức độ khác nhau. Kèm theo hôi miệng, nướu đỏ sưng đau, tiết mủ và chảy máu, táo bón, nước tiểu màu vàng đỏ; Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày, mạch hồng đại hoặc hoạt sác, hội chứng này thuộc loại h́nh thực hỏa ở đường kinh vị.
Trị pháp: Thanh nhiệt tả hỏa, chiết xung giảm đau.
Xử phương: Thanh vị tán gia vị. Hoàng liên 6g, Sinh địa 15g, Đương quy 10g, Đan b́ 10g, Thăng ma 6g, Lục nguyệt tuyết 15g, Bồ công anh 24g, Tử hoa địa đinh 15g.
Loại âm hư hỏa vượng là đau đầu chóng mặt, khô miệng triều nhiệt (nóng sau giờ trưa), răng lung lay, nhai yếu, lợi sưng đỏ có mủ; Chất lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng mạch tế sác.
Trị pháp: Thanh vị ích thận, tráng thủy giảm đau.
Xử phương: Sinh địa 20g, Tri mẫu 10g, Mạch đông 12g, Ngưu tất 12g, Thạch cao sống 30g, Thố ti 15g, Kỷ tử 12g, Phục linh 15g, Tường vi hoa 10g, Cam thảo 6g.
Châm cứu: Dùng các huyệt Hạ quan, Giáp xa Thính cung, Hợp cốc, kích thích trung độ (vừa phải) lưu kim trong 20 phút.

Y học cổ truyền điều trị đau đầu do huyết áp thấp như thế nào?
Huyết áp thấp hay gặp ở phụ nữ trẻ, huyết áp tâm thu thường dưới 80 đến 90mmHg, thường kèm theo nhức đầu âm ỉ, chóng mặt, ù tai, đau lưng, suy nhược toàn thân, phù nề nhẹ, hồi hộp và khó thở; Chất lưỡi trắng nhạt, lưỡi to có dấu răng ở cạnh lưỡi, mạch trầm tế vô lực.
Biện chứng theo y học cổ truyền phần lớn thuộc hội chứng suy nhược.
Trị pháp: Kiện tỳ bổ khí, tráng thận dưỡng huyết phương pháp điều trị nên là cường tỳ bổ khí, cường thận dưỡng huyết.
Xử phương: Chỉ xác 15g, Hoàng kỳ nướng 30g, Phụ phiến 10g, Đương quy 10g, Hồng sâm 3g, Hồng táo 30g, Bạch truật 12g, Quế chi 6g, Sa sâm 24g, Kỷ tử 12g.
Châm cứu: Chọn các huyệt gồm Nội quan, Quan nguyên, Túc tam lư, Đại chuy, Mệnh môn, trong đó trực tiếp cứu bằng điếu ngải 2 huyệt Quan nguyên và Túc tam lư, mỗi huyệt 3 tráng, 2 đến 3 ngày cứu một lần, châm dùng phép bổ.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu do đau dây thần kinh đại chẩm như thế nào?
Đau đầu do đau dây thần kinh chẩm lớn thường đau kịch liệt từng đợt ở vùng chẩm và cổ, tức là phát tác xen giữa các cơn đau âm ỉ, phần lớn bệnh nhân có tiền sử bệnh cột sống cổ, nhiều bệnh nhân c̣n kèm theo các chứng trạng như âm thanh ở cổ, chóng mặt, buồn nôn, ù tai, giảm thính lực, tê tay hoặc suy giảm cảm giác, teo cơ.
Biện chứng luận trị của y học cổ truyền là thông kinh, giảm đau, gồm các vị thuốc: Tam thất 3g, Hồng hoa 10g, Đào nhân 10g, Xuyên đoạn 12g, Đan sâm 20g, Xuyên khung 10g, Cát căn 30g, Cúc hoa 10g, Huyền hồ 10g.
Châm cứu: Dùng các huyệt Phong tŕ, Đại trữ, Thiên trụ, Ngoại quan, Hợp cốc, Phong long, Côn luân, kích thích mạnh sau đó lưu kim 30’, mỗi ngày 1 lần.
Thôi nă (Xoa bóp): Bệnh nhân ngồi hơi nghiêng về phía trước để lộ toàn bộ cổ, đầu tiên thày thuốc dùng ngón tay cái day xoa liên tục nhiều lần dọc theo mạch Đốc từ huyệt Phong phủ, Á môn, đến huyệt Đại chuy, lại day xoa dọc theo hai bên xương sống các điểm đau phân bố của các huyệt Thiên trụ, Đại trữ đến Kiên trung du, Kiên ngoại du, sau đó áp dụng phương pháp day xoa vào cạnh dưới và cạnh trên của mặt lưng cánh tay bị ảnh hưởng và xoa bóp huyệt Thủ tam lư.

Dùng thuốc và châm cứu để điều trị chứng đau đầu do viêm màng năo, viêm năo như thế nào?
Các bệnh truyền nhiễm hệ thần kinh trung ương, thường gặp bao gồm viêm màng năo, viêm năo, áp xe năo, viêm màng năo năo, v.v. Những bệnh này đều có những cơn đau đầu cực kỳ phổ biến khi khởi phát bệnh.
Trong số đó, đau đầu do viêm màng năo có tính lưu hành (dịch), viêm màng năo lao, viêm màng năo do virus là những cơn đau đầu kịch liệt, kèm theo buồn nôn, nôn mửa, phản ứng vùng cổ, bệnh nhân có thể sốt cao, co giật, hôn mê, dễ xảy ra ở trẻ em. Khi cơn đau đầu cấp tính xảy ra, phương pháp điều trị bằng Đông y có tác dụng thanh nhiệt, giải độc.Dùng: Kim ngân 20g, Liên kiều 20g, Đại thanh diệp 20g, nam Sa sâm 20 gam, Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, Sài hồ 6g, Sinh địa 15g, Lô căn tươi 24g, Ngư tinh thảo 30g, Hoàng cầm 10g, Hồng táo 5 quả.
Châm cứu: Chọn các huyệt Bách hội, Thái Dương, Phong Tŕ, phối hợp với Hợp cốc, Nội quan, kích thích mức độ trung b́nh, lưu kim trong 30 phút.
Nếu bị đau đầu di chứng của viêm năo kèm theo co giật nhẹ, tê liệt tay chân th́ có thể dùng phương pháp dưỡng âm giải độc, dùng Sinh địa 15g, Trúc diệp 10g, Thạch cao sống 20g, Hoàng cầm 10g, Mạch môn 12g, Xuyên khung 10g, Bạch tật lê 12g, Câu đằng 12g, Xích thược 10g, Cam thảo 6g.

Điều trị đau đầu do áp xe năo, u năo bằng y học cổ truyền như thế nào?
Áp xe năo thường lây lan trực tiếp từ các bệnh nhiễm trùng ở tai giữa, xương chũm, xoang cạnh mũi… gây đau đầu dữ dội, buồn nôn và nôn mửa, thậm chí có triệu chứng suy giảm ư thức và nhiễm trùng toàn thân.
Khi lựa chọn phương pháp điều trị bằng kháng sinh, đồng thời bạn có thể sử dụng thuốc đông y để thanh nhiệt, giải độc, công thức cơ bản là Hoàng liên 6g, Hoàng bá 10g, Đại hoàng sống 4.5g, Dă cúc hoa 20g, , Cao bản 20g, Sinh địa 20g, Kim ngân hoa 10g, Quán chúng 20g, Cam thảo 6g. Váng đầu hoa mắt, gia Hoàng kỳ sống 15g, Mẫu lệ sống 30g, Ngũ vị tử 6g.
Đau đầu đôi khi có thể do khối u trong năo gây ra, đặc biệt khi xuất hiện trạng thái tinh thần uể oải, biểu hiện thờ ơ, suy giảm khả năng tư duy và tổng hợp, xuất hiện những thay đổi về thính giác, thị giác và khứu giác th́ cần phải kiểm để xác định chẩn đoán.
U năo có thể sử dụng thuốc y học cổ truyền trước và sau phẫu thuật, điều trị trước phẫu thuật nên bắt đầu bằng việc điều ḥa khí âm và vận hành huyết mạch, sử dụng các loại thuốc như Sa sâm 24g, Đảng sâm 15g, Bán chi liên 30g, Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, Xuyên khung 10g, Uy linh tiên 30g, Đào nhân 15g, Vương bất lưu hành 10g, Cam thảo 6g. Sau khi phẫu thuật dùng phương pháp hoạt huyết hóa ứ, khứ phong ích thận. Gồm Đương quy, Xích thược, Xuyên khung, Pḥng phong, Xuyên đoạn, Sài hồ, Kỷ tử mỗi vị 9g, Câu đằng 12g, Kê huyết đằng 15g, Ngũ vị tử 3g, Cam thảo 3g.
Điều trị đau đầu sau khi chọc ḍ tủy sống bằng y học cổ truyền và châm cứu như thế nào?
Chọc ḍ tủy sống là phương pháp thường được sử dụng để chẩn đoán lâm sàng và thực hiện gây mê phẫu thuật, nhưng đôi khi một số bệnh nhân bị đau trướng đầu dai dẳng, đau âm ỉ và đau theo mạch đập vài giờ sau khi chọc, điều này có liên quan đến vị trí cơ thể.
Biện chứng y học cổ truyền cho thấy hội chứng phong phần lớn thường liên quan đến hư chứng, trị pháp thường dùng là: Khứ phong bổ hư thanh khiếu. Phương cơ bản gồm: Xuyên khung 12g, Pḥng phong 6g, Cửu tiết xương bồ 10g, Bạc hà 6g, Bạch thược 15g, Hoàng liên 3g, Câu đằng 10g, Uất kim 10g, Hoàng kỳ chích 15g. Đầu óc tối tăm gia Thiên ma 6g, Trân châu phấn 6g.
Châm cứu: Dùng các huyệt: Ấn đường, Thái dương, Hợp cốc, Đàu duy, Phong tŕ, Đại chuy, kích thích mạnh, lưu kim 30’.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu do hội chứng măn kinh như thế nào?
Măn kinh thường đề cập đến một nhóm các triệu chứng xảy ra khi phụ nữ khoảng 45 tuổi và nam giới khoảng 55 tuổi, một số bệnh nhân bị đau đầu âm ỉ, liên tục và giảm dần, trầm trọng hơn sau khi gặp phải một số kích thích nhất định, thường kèm theo các triệu chứng khác như chóng mặt, mất ngủ, đánh trống ngực, khó thở, cảm xúc không ổn định, đau lưng, mệt mỏi.
Y học cổ truyền biện chứng cho thấy phần lớn phụ nữ đều thuộc loại h́nh âm hư dương kháng (âm hư dương thịnh), điều trị chủ yếu là dưỡng âm liễm can, tráng thủy, an thần.Gồm: Đương quy 10g, Bạch thược 10g, Kỷ tử 15g, Miết giáp sống 15g, A giao 12g, Bá tử nhân 10g, Sa sâm 20g, Mạch đông 12g, Trạch tả 15g, Hoàng liên 3g, Đan sâm 10g. Người nam thường thuộc loại h́nh thận dương hư yếu, Phương dùng Kim quỹ thận khí hoàn gia giảm: Phụ tử phiến 6g, Tiên linh tỳ 12g, Hoài sơn 15g, Bổ cốt chỉ 12g, Đan b́ 12g, Đương quy 10g, Sinh Thục địa mỗi vị 15g, Ba kích 10g, Ngũ vị 6g, Xuyên khung 10g.
Châm cứu: Bệnh nhân nữ dùng Tam âm giao, Túc tam lư, Huyết hải; Bệnh nhân nam dùng Thận du, Ủy trung, Dương lăng tuyền, kích thích nhẹ, mỗi ngày một lần, lưu kim trong 20 phút, hoặc dùng phương pháp cứu ngải 15 phút.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu dobệnh động kinh như thế nào?
Động kinh có thể được chia thành động kinh nguyên phát và thứ phát, có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến hơn ở thanh thiếu niên, một số bệnh nhân bị đau đầu là cơn chính, kèm theo sắc mặt tái nhợt, đổ mồ hôi, chóng mặt, nôn mửa, v.v. và kéo dài. có thể Nó có thể dao động từ vài phút đến hàng chục phút, và một số thậm chí có thể kéo dài hơn một ngày.
Y học cổ truyền cho rằng các cơn động kinh dạng đau đầu thường liên quan đến âm hư, dương kháng, chuyển hóa nhiệt và sinh phong, phương pháp điều trị nên là tức phong, trấn tĩnh động kinh, tiêu đàm, giảm đau. Thuốc gồm Câu đằng 12g, Thiên ma 6g, Bối mẫu 12g, Đảm nam tinh 10g, Bán hạ sống 10g, Trần b́ 6g, Phục linh 10g, Đan sâm 5g, Mạch môn 12g, Toàn trùng 10g, Xuyên khung 10g, Hổ phách 5g, Cam thảo 10g, sau khi qua cơn phát tác của bệnh, mà bệnh nhân vẫn đau đầu không ngừng, có thể dùng pp Sơ can giải uất, kiện tỳ dưỡng huyết, với Tiêu dao tán gia giảm là thích hợp, trong phương có Sài hồ, Chỉ xác, Đương quy, Xuyên khung, Pḥng phong, Bạch thược sao, Uất kim, Huyền hồ mỗi vị 10g, Hoàng kỳ chích 20g, Cam thảo 6g, Thiên ma 6g, Viễn chí 4.5g
Châm cứu: Dùng các huyệt như Thần Môn, Nội Quan, Can du, Phong Long, Phong Tŕ, Tâm du, Tỳ du, Tam Âm Giao, v.v., thủ pháp b́nh bổ b́nh tả, mỗi ngày một lần, một liệu tŕnh 10 lần.

Chứng đau đầu khi hành kinh là ǵ và cách điều trị bằng y học cổ truyền?
Đau đầu khi hành kinh dùng để chỉ những người bị đau đầu là triệu chứng chính trước và sau kỳ hành kinh và trong thời kỳ kinh nguyệt, gọi là đau đầu kinh nguyệt (kinh hành đầu thống). Biện chứng y học cổ truyền phân loại thuộc loại h́nh đau đầu do thiếu máu, tức là chóng mặt và nhức đầu trong hoặc sau kỳ kinh, đánh trống ngực, ngủ ít, tinh thần mệt mỏi; Chất lưỡi nhợt nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch hư tế, điều trị cần dưỡng huyết bổ khí, dùng thang Bát trân thang gia vị: Đương quy 15g, Xuyên khung 10g, Bạch thược 10g, Thục địa 15g, Nhân sâm 3g, Bạch truật 10g, Phục linh 10g, Chích thảo 6g, Kỷ tử 10g, Thủ ô 10g.nếu uống thuốc bị đầy bụng phân lỏng th́ gia Sinh khương, Sa nhân).
Đau đầu khi hành kinh thuộc loại h́nh can hỏa có các đặc điểm như đau kịch liệt, đau ở vùng đỉnh đầu, vựng đầu hoa mắt, vội vă dễ cáu giận, miệng họng khô đắng; Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch tế huyền sác.
Trị pháp:Dưỡng âm thanh nhiệt, nhu can tức phong.
Xử phương: Kỷ cúc địa hoàng hoàn gia vị : Thục địa 15g, Sơn dược, Trạch tả, Đan b́, Phục linh, Kỷ tử, Khổ đinh trà, Hạ khô thảo, Bạch tật lê mỗi vị 10g, Cúc hoa 6g.
Đau đầu khi hành kinh thuộc loại h́nh ứ huyết có các đặc điểm như đau đầu kịch liệt trước và đang khi hành kinh, kinh nguyệt màu tím sẫm và vón cục, đau bụng dưới không chịu ấn nắn; Chất lưỡi sẫm màu hoặc có chấm xuất huyết ở đầu lưỡi và cạnh lưỡi, mạch tế sáp hoặc huyền sáp.
Trị pháp: Điều khí hoạt huyết, hóa ứ thông lạc.
Xử phương: Thông khiếu hoạt huyết thang. Xích thược 15g, Xuyên khung 10g, Đào nhân 20g, Hồng hoa 5g, Lăo 5g, Xạ hương thông căn (củ hành già), Xạ hương 0.1g (bọc lụa), gừng tươi 6g, Táo 6 quả


“Trấn Năo Ninh” (镇脑宁) là thuốc ǵ, v́ sao điều trị được chứng đau đầu?

Hướng dẫn sử dụng của “Trấn năo ninh” (viên nang) có nội dung: Thuốc này có tác dụng nhanh chóng đối với chứng đau đầu do mạch máu và thần kinh, có tác dụng chữa bệnh tốt (tổng tỷ lệ hiệu quả là 96,8%) và không có phản ứng phụ. Thuốc bao gồm chín công thức thuốc tự nhiên, bao gồm Xuyên khung, Tế tân, Bạch chỉ, Cao bản...tổng cộng 9 loại vị thuốc thiên nhiên phối hợp tạo thành., có tác dụng tức phong thông lạc, dùng cho các chứng đau đầu có tính thần kinh huyết quản như cao huyết áp, sơ vữa động mạch, kèm lợm giọng, ẩu thổ, nh́n vật không rơ, tê tay chân, vựng đầu ù tai.
Người viết cho rằng xét từ tác dụng tức phong thông lạc th́ thuốc có tác dụng tốt hơn đối với chứng đau đầu do can khí uất kết, can phong nội động có nguyên nhân tạo thành chứng đau đầu từ sự tức giận (Nộ khí thương can)

Loại h́nh đau đầu nào được điều trị tốt hơn bởi “Chính Thiên hoàn” (正天丸)và “Thái cực thông thiên dịch” (太极通天液) cũng có thể điều trị đau đầu?
“Chính Thiên hoàn”cũng là một loại thuốc độc quyền của YHCT được sử dụng phổ biến trong thực hành lâm sàng, sau khi một số bệnh nhân uống thuốc sắc đă giảm đau đầu, họ cần tiếp tục dùng thuốc độc quyền của YHCT trong một thời gian để củng cố tác dụng. “Chính Thiên hoàn” là một trong những thuốc đáng được giới thiệu.
Thuốc này có thành phần là Đương quy, Xuyên khung, Tế tân, Hồng hoa, Pḥng phong, Độc hoạt, Phụ tử, có tác dụng hoạt huyết hóa ứ, khứ phong trừ thấp. Theo hướng dẫn cho biết thuốc được thiết kế đặc biệt để điều trị các chứng đau đầu mạn tính khác nhau (đau đầu do bệnh thần kinh, đau đầu do mạch máu, đau nửa đầu, đau đầu do căng thẳng, đau đầu do thoái hóa đốt sống cổ và đau dây thần kinh tam thoa). Kinh nghiệm lâm sàng của tác giả và kết hợp với tác dụng kích hoạt tuần hoàn máu và loại bỏ ứ máu, tin rằng nó có tác dụng tốt đối với bệnh xơ vữa mạch máu và đau đầu do chấn thương.
“Thái cực thông thiên dịch” (太极通天液), được bệnh nhân rất ưa chuộng trong những năm gần đây, không chỉ được dùng để ngăn ngừa xuất huyết năo, huyết khối năo và cải thiện di chứng của bệnh mạch máu năo mà c̣n có thể dùng để điều trị chứng đau đầu, có thể điều trị chứng đau nửa đầu, đau đầu do thần kinh, đau đầu do căng thẳng, đau đầu do mạch máu, đau đầu do cảm lạnh và đau đầu do thoái hóa đốt sống cổ.
Thành phần của nó là: Xuyên khung, Tế tân, Bạch chỉ, Khương hoạt, v.v. Các chức năng và chỉ định của nó hoạt huyết hóa ứ và hoạt lạc, thông mạch, giáng áp, sơ phong giảm đau. Một số người cho rằng nó hiệu quả hơn trong việc điều trị chứng đau đầu do mạch máu (huyết quản tính đầu thống).

Tại sao có người cho rằng vị Thiên ma có tác dụng điều trị tốt chứng đau đầu?
Đúng là có một số người thích dùng Thiên ma để chữa đau đầu, hoặc dùng gà hầm Thiên ma làm thuốc chữa đau đầu th́ hiệu quả quả thực là tốt nhưng nếu bạn chưa hiểu rơ về dược tính của Thiên ma th́ hiệu quả sẽ không tốt. Suy cho cùng, Thiên ma không phải là “thần dược” duy nhất để điều trị chứng đau đầu”.
Thiên ma là củ của thực vật thiên ma, một loại cây thân thảo sống kư sinh lâu năm thuộc họ Lan, được sản xuất chủ yếu ở Tứ Xuyên, Vân Nam và Quư Châu, phân bố rộng răi ở phía bắc và phía nam Trung hoa. “Xuân ma” tác dụng hơi kém, trong khi chất lượng “Đông ma” lại tốt hơn. Vị ngọt, tính b́nh, quy can kinh, tác dụng tức phong, giảm co thắt, b́nh can tiềm dương. Nó chủ yếu được sử dụng cho các hội chứng như can phong npooij động, co giật động kinh, cũng có thể được sử dụng cho các hội chứng chóng mặt và đau đầu do gan dương hoạt động quá mức (can dương thượng kháng). Nếu dùng cùng với Câu đằng, Hoàng cầm, Ngưu tất, có thể điều trị chóng mặt và đau đầu do gan dương hoạt động quá mức; nếu dùng cùng với Xuyên khung, nó cũng có thể điều trị chứng đau nửa đầu, chẳng hạn như Thiên ma hoàn.
Như trên có thể thấy, Thiên ma có tác dụng tốt trong việc làm dịu gan, tiềm dương đối với chứng đau nửa đầu do can dương quá nhiều nên Thiên ma là sự lựa chọn hàng đầu cho những cơn đau đầu hàng ngày do cao huyết áp, tức giận,… . Đối với những cơn đau đầu do nguyên nhân khác gây ra th́ cần xác định rơ nguyên nhân và điều trị riêng biệt, ví dụ như người bệnh sau khi phẫu thuật hoặc khí huyết yếu th́ không có tác dụng như gà hầm Hoàng kỳ khi bị chóng mặt, đau đầu.

Các đơn thuốc phổ biến để điều trị chứng đau đầu là ǵ?
Mạn kinh tử 6g, sắc lấy nước uống thường xuyên, hoặc thêm Thạch nam diệp 10g sắc sắc uống thay trà.
Hổ trượng 2g và Từ Trường Khanh 3g, mỗi ngày 1 liều, sắc 2 lần.
Xuyên khung 3g, Mạn kinh tử 3g, tán thành bột, mỗi ngày 1 thang phân 3 lần uống.
Đương quy, Xuyên khung, Toàn yết, Thiên ma, Đảm thảo, Bạch chỉ, Bá tử nhân, làm thành 2 bao xung tễ, sáng và tối mỗi lần 1 bao, nhức ầu phát liên tục th́ gia thêm 1 bao.
Công thức dùng điều trị chứng đau nửa đầu: Trân châu mẫu 30g (sắc trước), Long đảm 3g, Cúc hoa 12g, Pḥng phong 5g, Đương quy 9g, Bạch thược 9g, Sinh địa 18g, Xuyên khung 5g, Toàn trùng 2 con, Địa long 9g, Ngưu tất 9g, Thổ miết trùng 9g, sắc hai lần, ḥa chung phân hai lần uống trong ngày, uống lúc thuốc c̣n ấm, ngay uống 1 thang ;
Đảng sâm, Hoàng kỳ, Xích thược, Phục linh, Ngô du, cầm, chế Xuyên quân, chích Cam thảo, Sinh địa, Thục địam Đương quy, Xuyên khung, Uylinh tiên, Thiên ma, Khương hoạt, Pḥng phong, Sài hồ, Bán hạ, Toan táo nhân, Ngũ vị, Phụ tử, Màn kinh tử, Hoàng tinh, Kỷ tử, Trạch tả, Nga truật, Huyền hồ, Toàn yết, Hoàng bá, Ngô công mỗi vị 500g, Thạch cao sống 1000g, chế Mă tiền tử 340g, sao khô, tán thành bột để dùng, mỗi ngày 20g, phân thành 2~3 lần ḥa nước uống, uống liên tiếp 10 ngày là một liệu tŕnh, sau khi uống có hiệu quả, có thể uống liên tiếp 2~3 liệu tŕnh.
Toàn phương có tính thiên về lạnh, mát, thích hợp với chứng đau nửa đầu do nhiệt; Đảng sâm, Đương quy, Bạch vi mỗi vị 10g, Thạch quyết minh sống 25g, mỗi ngày 1 thang, sắc rồi chia 2 lần uống; Bản lam căn 30g, Thạch cao sống 15g, Đậu thị 15g, Xuyên khung 10g, sắc chia 2 lần uống, mỗi ngày 1 thang; Bạch chỉ 3g, Thiên ma 6g, Kinh giới, Pḥng phong mỗi vị 9g, tán hai vị trước thành bột, sắc hai vị sau lấy nước uống với thuốc bột, thuốc nêu trên là lượng thuốc uống 1 lần, mỗi ngày uống 1 lần, nếu đau nhiều th́ có thể uống 2 lần; Cẩu kỷ căn 30g, sắc uống, bệnh nhẹ uống ngày 2 lần, bệnh nặng uống ngày 3 lần; Thạch xương bồ 15g, Vạn niên thanh 15g, sắc uống; Sơn dương giác 30g, Bạch cúc hoa 12g, Xuyên khung 6g, mỗi ngày 1 thang, sắc chia hai lần uống.
Bài thuốc điều trị chứng đau đầu do thần kinh huyết quản gồm có: Hoa sinh diệp tươi 100g, sắc uống trước khi đi ngủ hoặc chia làm 2 lần vào buổi sáng và buổi tối; Câu đằng 10g, Thái tử sâm 10g, cứu Toàn yết 15g, Đại xuyên khung 15g, Tử đan sâm 10g, Quảng địa long 15g, tán tất cả thành bột, mỗi lần uống 3g, chiêu bằng nước, khi bệnh phát tác mỗi ngày uống 3 lần, khi bệnh không phát tác th́ mỗi ngày uống 1 lần, tránh uống lâu dài.
Một bài thuốc chữa đau đầu do chấn thương bao gồm: Địa phu tử 30g, Xích thược, Hồng hoa, Kinh giới tuệ mỗi vị 10g, Cương tàm 6g, Đường nâu 30g, Trà lá 0,5g. tất cả các vị thuốc nấu trước 20’, cho lá trà vào nấu lại trong 10 phút, sau đó loại bỏ cặn, thêm đường nâu vào đun tan, uống 1/2 liều vào buổi sáng và buổi tối.
Đơn thuốc chữa viêm mũi, viêm xoang là: Thương nhĩ tử 15g, sao vàng, sắc uống thay trà; Tân di, Thăng ma, Chi tử, Mạn kinh tử mỗi vị 9g, sắc uống, mỗi ngày 1 thang, chia hai lần uống; Cát cánh, Thương nhĩ mỗi vị 30g, Ư rĩ, Liên kiều mỗi vị 15g, Cát căn, Tân di, Bạch chỉ, Cúc hoa, Tây thảo mỗi vị 10g, Bạc hà 5g, mỗi ngày 1 thang, uống sau ăn.
Bài thuốc chữa đau dây thần kinh tam thoa bao gồm: Huyền sâm, Thăng ma, Tê giác, Xích thược, Hoàng cầm, Cát cánh, Quán chúng, Cam thảo, các vị lượng bằng nhau, mỗi lần uống 12g, sắc uống; Xuyên khung, Thạch cao sống, Cúc hoa, Bạch thược, Đương quy, Bạch phụ tử, Cương tàm, Toàn yết các vị lượng bằng nhau tán thành bột, dùng đường uống dưới dạng bột; Bạch thược sao 30g, chích Cam thảo 15g, sắc uống, mỗi ngày 1 thang; Bạch thược 50g, chích Cam thảo 30g, Toan táo nhân 20g, Mộc qua 10g, sắc uống mỗi ngày 1 thang; Đào nhân 10g, Hồng hoa 5g, Xuyên khung, Xích thược, Cương tàm mỗi vị 12g, Đan sâm 30g, Ngô công 2 con, Toàn yết 4g (nghiền bột), mỗi ngày 1 thang sắc uống.


Đơn thuốc thôi nă cơ bản chữa đau đầu bằng xoa bóp (massage) là ǵ?
Để bệnh nhân nằm ngửa, lương y dùng hai ngón tay cái lần lượt đẩy kinh Ấn đường qua tiền đ́nh đến Bách hội; từ kinh Ấn đường đến Ngư yêu, Thái Dương ra trước tai, ấn ngón cái 3 lần; Tự Ấn đường qua Đầu duy, từ trên tai đến tai, ấn 3 lần, mỗi lần 1 phút cho Ấn đường, Thái dương, Đầu duy, Bách hội. Bệnh nhân chuyển sang tư thế ngồi, lương y dùng ngón tay cái hoặc nhiều ngón xoa bóp sau gáy và vai, lặp lại nhiều lần, cuối cùng bấm vào Phong tŕ, Kiên tỉnh và Hợp cốc mỗi huyệt 1 phút. Nếu là đau đầu do can dương, hăy áp dụng các kỹ thuật bóp, xoa, nhất chỉ thiền thiền vào Thái xung, Hành gian, Dũng tuyền và các huyệt khác, mỗi huyệt trong 2 phút, đồng thời dọc theo kinh Túc quyết âm dùng phép xoa từ phía dưới đầu gối cho nóng lên là mức độ yêu cầu; Đau đầu do huyết hư và thận hư, dùng phép xoa ở lưng và bụngthêm vào lưng bụng, dùng ḷng bàn tay xoa vào vùng thắt lưng xương cùng, xoa bóp tỳ du, Vị du, Thận du, Yêu dương quan, Trung quản, Thiên xu, Tam âm giao.

Các đơn thuốc khác để điều trị chứng đau đầu là:
Xuyên khung, Bạch chỉ và Thạch cao ba vị trọng lượng bằng nhau tán thành bột, mỗi lần uống 12g uống với nước trà để trị nhức đầu do phong nhiệt; hoặc Kinh giới tuệ và Thạch cao lượng bằng nhau, tán thành bột, mỗi lần uống 6g với nước trà; Hoặc dùng Cúc hoa, Thạch cao, Xuyên khung mỗi vị 10g tán bột, mỗi lần uống 5g với nước trà.
Đại ô đầu 2 miếng, gọt vỏ hấp chín, Xuyên khung, Sinh khương mỗi vị 30g, sao khô nghiền thành bột, uống với nước trà mỗi lần 3g, trị chứng đau đầu do phong hàn.
Bạch phụ tử, Thiên nam tinh, Bán hạ bạ vị lượng bằng nhau, tán thành bột, trộn với nước gừng, chưng thành bánh làm viên to bằng hạt đậu xanh, mỗi lần uống 40 viên, trị chứng đau đầu do đàm trọc; Hoặc dùng Ngưu bàng (sao), Toàn phú hoa lượng bằng nhau tán bột, mỗi sáng uống 3g; Đau đầu do phong đàm có thể dùng Thiên nam tinh, Kinh giới mỗi vị 30g tán bột, làm viên bằng khương trấp (nước gừng) và hồ, viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 20 viên; Đau đầu do đàm nhiệt có thể dùng Qua lâu 1 quả, Xích vương qua tử 7 cái sao khô, Ngưu bàng 120g sao khô, tán thành bột uống với trà. (không ghi số lượng uống mỗi lần, ngày uống mấy lần.).
Ô dược, Xuyên khung lượng bằng nhau, mỗi lần uống 10g, uống với trà giấm, trị chứng đau đầu do can khí thượng nghịch.
Thạch quyết minh sống (sắc trước) 30g, Câu đằng 12g (hậu hạ), Toàn yết 10g, Bắc Tế tân 4.5g, sắc uống, trị chứng đau đầu do can dượng bốc lên; Hoặc dùng Dă cúc hoa (toàn quả) 30g, sắc uống



Các phương pháp vật lư trị liệu cho chứng đau đầu là ǵ?
Đau dây thần kinh tam thoa có thể được điều trị bằng điện di ion bằng thuốc ḍng điện trực tiếp: sử dụng 5% procain và 0,3% nước tiểu, đặt ở bên mặt bị ảnh hưởng, đặt cực không hoạt động giữa hai bả vai, lượng ḍng điện có thể là 5 đến 10 mA, 15 đến 20 lần mỗi lần phút, mỗi ngày một lần hoặc cách ngày, 20 lần cho một đợt điều trị; cũng có thể sử dụng phương pháp điều trị bằng laser, sử dụng laser bán dẫn năng lượng cao, bước sóng 810nm, công suất đầu ra 0 ~ 300 mw, Đường kính chùm tia 5 mm, có tác dụng giảm đau mạnh, mỗi điểm điều trị Thời gian là 3 phút. T́m điểm kích hoạt theo điểm đau khi cơn đau dây thần kinh sinh ba tấn công. Việc điều trị được chia thành 3 đến 6 điểm, tổng cộng là 18 điểm phút, mỗi ngày một lần hoặc cách ngày, 20 lần là một liệu tŕnh.
Đối với chứng đau đầu thông thường, cũng có thể sử dụng liệu pháp điện tia lửa cộng hưởng, sử dụng phương pháp điều trị cục bộ trên đầu, phương pháp chuyển động tiếp xúc, lượng vừa phải, mỗi ngày một lần, mỗi lần 5 đến 7 phút; cũng có thể sử dụng liệu pháp từ tính, đặt đầu từ tính trên thái dương, huyệt Dương Bạch hoặc huyệt đau. Để điều trị, hăy điều trị từng huyệt một, mỗi lần 15 phút, mỗi ngày một lần và 10 lần là một liệu tŕnh.

Giác hơi và tam lăng châm, lấy máu điều trị chứng đau đầu như thế nào?
Giác hơi cũng có thể điều trị chứng đau đầu. Phương pháp giác hơi là phương pháp dùng cốc làm công cụ để loại bỏ không khí với sự hỗ trợ của nhiệt, gây ra áp suất âm khiến nó hấp phụ vào các huyệt hoặc bề mặt cơ thể của các bộ phận cần rút ra, gây kích ứng và gây sung huyết, ứ huyết cục bộ để đạt được mục đích pḥng ngừa và điều trị bệnh tật. Nó có tác dụng thông kinh hoạt lạc, hành khí hoạt huyết, tiêu thũng giảm đau, khứ phong tán hàn, phạm vi thích ứng của phương pháp này khá rộng.
Chọn các huyệt Ấn đường, Thái dương, Khúc tŕ. Những bệnh nhân thuộc thực chứng nên điều trị bằng phương pháp giác hơi, những người bị ứ máu nên điều trị bằng phương pháp giác hơi sau khi châm vào các lạc mạch.
Giác hơi ở trán và thái dương chủ yếu thích hợp với chứng đau đầu do ngoại cảm phong hàn.
Kim tam lăng là một dụng cụ lấy máu thông dụng, dùng để châm vào một số bộ phận trên cơ thể con người và tiết ra một lượng máu nhỏ để đạt được mục đích trị bệnh. Kim tam lăng châm và chảy máu có các tác dụng như thông kinh hoạt lạc, khai khiếu tiết nhiệt (hỗ trợ hạ nhiệt), điều ḥa khí huyết, tiêu sưng giảm đau, v.v. Có thể áp dụng cho các hội chứng khác nhau như thực chứng, nhiết chứng, ứ huyết và chứng đau.
Đối với những người bị đau đầu kịch liệt do cao hyết áp, có thể chọn các huyệt Thái dương, Dương bạch, Trung xung, dùng kim tam lăng nhỏ châm vào cho chảy ra một chút máu.
Đối với chứng đau đầu do tăng huyết áp, bạn có thể chọn hai bên Thái bạch và Ấn đường. Phối huyệt như sau: Đau trướng kịch liệt ở trán th́ thêm song Toán trúc; Nếu đau nhiều ở đỉnh đầu th́ gia huyệt Bách hội; Đau kịch liệt th́ thêm Tứ thần thông; Nếu kèm theo cứng cổ gáy th́ thêm Song Phong tŕ; Chóng mặt muốn ngă, hoa mắt, ù tai là những chứng trạng nổi bật th́ gia song huyệt Đầu duy. Để bệnh nhân ngồi, sau khi tiêu độc các vị trí huyệt, dùng kim tam lăng châm vào mỗi huyệt sâu khoảng 0.2 mm, mỗi huyệt chừng 5~6 giọt máu, mỗi ngày hoặc cách ngày 1 lần, một liệu tŕnh là 10 lần.
Đau đầu do thần kinh cũng có thể được điều trị bằng cách dùng kim tam lăng châm vào các huyệt Thái dương (đôi), Ngư yêu (đôi) và huyệt Ấn đường, lấy ra một lượng máu thích hợp, sau đó dùng bông g̣n ấn vào các lỗ kim.

Sử dụng phương pháp khêu thích để điều trị chứng đau đầu như thế nào?
Phương pháp khêu thích hay c̣n gọi là phương pháp khêu trị là phương pháp sử dụng những chiếc kim đặc biệt để lấy đi các mô sợi màu trắng dưới da tại một số huyệt hoặc bộ phận nhất định để điều trị một số bệnh.
T́m kiếm các điểm phản ứng tích cực ở hai bên cột sống cổ, chẳng hạn như nổi mụn trên da, hoặc các điểm Bách hội và Phong tŕ, sau khi tiêu độc thường quy bằng iốt và rượu, trước tiên hăy khêu lớp biểu b́, sau đó sử dụng phương pháp nửa móc nửa khêu để t́m vật thể dạng sợi, khi thấy th́ kéo nhẹ lên, dùng lực đủ để khai thông kinh mạch rồi cắt đứt, lặp lại như vậy hơn mười lần. Kỹ thuật điều trị nên từ nhẹ đến nặng, từng bước một, sau khi điều trị nên kiêng rượu, ăn cay, tránh kích động tinh thần, không nên điều trị khi đói quá, no quá, hoặc làm việc quá sức. Phương pháp này hiệu quả khá tốt đối với chứng đau đầu do thần kinh.
Chứng đau nửa đầu cũng có thể được điều trị bằng liệu pháp khêu thích. Nên cắt bỏ các nhánh trán và đỉnh của động mạch thái dương nông ở bên bị ảnh hưởng. Phương pháp tương tự như trên.

Sử dụng liệu pháp Gua Sha để điều trị chứng đau đầu như thế nào?
Liệu pháp quát sa (cạo gió) là một phương pháp được nhân dân sử dụng phổ biến và hiệu quả. Khi sử dụng chỉ cần dùng một chiếc đĩa đồng hoặc th́a sứ nhúng vào dầu trà nóng rồi cạo từ trên xuống dưới vùng trán, chỗ lơm giữa sau gáy và hai bên cột sống cho đến khi da có màu tím, dùng phương pháp này trị phong hàn, hoặc nhức đầu do nhiệt, hiệu quả rất khả quan.
Tuy nhiên, khi cạo bạn nên chú ư cạo theo một hướng và không cạo qua lại. Động tác phải nhẹ nhàng, lực đều, nhanh quá, nặng quá, ngắn quá đều không phù hợp. Đồng thời, việc cạo nên thực hiện trong nhà hoặc ở nơi tránh gió để tránh bị cảm lạnh do gió.

Bệnh nhân đau đầu thực hiện massage tự chăm sóc như thế nào?
Cách 1: Dùng ḷng bàn tay đỡ phía sau đầu, dùng ngón cái và ngón giữa của tay kia lần lượt ấn vào tóc mai và thái dương từ bên trái và bên phải, sau đó ngửa đầu ra sau để điều chỉnh lượng máu cung cấp và áp lực của năo và giảm đau đầu. Cuối cùng, nắm tay bằng cả hai tay và dùng ngón tay gơ nhẹ vào da đầu để thư giăn da đầu.
Cách 2: Dùng ngón tay cái ấn vào huyệt Ấn đường, đẩy lên về phía Bách hội, ấn trong 1 phút, lặp lại vài lần; sau đó dùng cả hai ngón cái chỉ vào thái dương, móc huyệt Phong Tŕ bằng cả hai ngón giữa, đồng thời ấn tiến lùi bằng hai ngón tay 3 đến 5 lần, sau đó điểm vào các huyệt Phong môn, Đại chuy, Hợp cốc, Thái xung nhiều lần, cuối cùng, dùng mười ngón tay chải đầu và mổ đầu 30 đến 50 lần để kết thúc massage.
Phương pháp tự xoa bóp chữa đau dây thần kinh sinh ba như sau: tự xoa bóp đầu và mặt, dùng ngón tay cái hoặc ngón trỏ và ngón giữa xoa bóp Dương bạch, Ngư yêu, Thái dương, Tứ bạch, Thượng quan, Hạ quan, Thừa tương mỗi huyệt 1~ 2 phút, hai tay thay đổi xoa bóp các huyệt Khúc tŕ, Hợp cốc, Nội đ́nh, dùng ngón cái bấm Thái xung, Thái khê.

Dùng massage các huyệt ở chân để điều trị đau đầu như thế nào?
Liệu pháp xoa bóp các huyệt chân có đặc điểm chẩn đoán và điều trị của y học cổ truyền, nó sử dụng “Toàn tức phôi học thuyết ḥa huyệt vị toàn tức luật” (全息胚学说和穴位全息律) để giải thích các nguyên tắc cơ bản của xoa bóp huyệt bàn chân. Các kỹ thuật cơ bản bao gồm 8 Phương pháp: Ấn, nhào, cọ xát, gơ, véo , giữ, móc và xoay.
Khi điều trị đau đầu, các kỹ thuật xoa bóp như ấn, nhào và xoa được sử dụng trước tiên để kích thích các vùng phản xạ cơ bản của bàn chân bệnh nhân (tuyến yên, thận, tuyến thượng thận, Phúc xoang thần kinh ṭng (đám rối celiac), niệu quản và bàng quang), sau đó xoa bóp triệu chứng các vùng phản xạ (đầu, cổ và cơ h́nh thang), sau đó xoa bóp các vùng phản xạ liên quan (tuyến giáp, tuyến cận giáp, tinh hoàn hoặc buồng trứng). Xoa bóp bàn chân của bệnh nhân theo các động tác nhịp nhàng 50, 30 và 20, mỗi động tác 15 phút, với cường độ từ đau đến không đau.
Người bệnh đau đầu cũng có thể tự xoa bóp bàn chân, phương pháp là ngồi co chân, dùng một nắm tay bằng một ngón trỏ hoặc ngón cái ấn vào huyệt chũm, xoang trán, xoang hàm trên và cả hai cổ, sau đó xoa và vặn bằng ngón cái và ngón trỏ.Ngón chân út. Sau đó dùng một ngón trỏ nắm thành nắm đấm hoặc dùng ngón cái ấn vào đám rối thân tạng, tuyến thượng thận, bàng quang,… Thao tác nên lặp lại đối với những vùng có phản ứng bất thường của bàn chân được phát hiện trong quá tŕnh khám và điều trị. Cuối cùng, sử dụng đại ngư tế hoặc xoa huyể Dũng tuyền trên bàn chân.

Chữa đau đầu bằng thuốc đông y và xông hơi ngoài da như thế nào?
Phương pháp đắp thuốc chữa đau đầu cấp tính như sau: Nghiền lá bạc hà tươi thành bùn rồi đắp lên các huyệt : Thái Dương, Dương Bạch, Ấn đường, ngày 1 đến 2 lần.
Đối với chứng đau đầu do thần kinh huyết quản, có thể nghiền sinh Nam Tinh, sinh Xuyên ô thô và Bạch chỉ mỗi loại 30 gam thành bột mịn, có thể trộn nước hành tươi và đắp lên thái dương, thích hợp cho những người bị hội chứng thiên về lạnh.
Chữa đau dây thần kinh tam thoa, có thể dùng Ngô công 1 con, Địa long 10g. Lâu cô (con dế mèn) 1 con, Ngũ bội tử 10g, Nam tinh sống 15g, Bán hạ sống 10g, Bạch phụ tử 10g, Mộc hương 10g, tất cả tán bột, mỗi lần dùng lượng vừa đủ, trộn với giấm thành từng bánh, đắp lên huyệt Thái dương bên đàu bị đau, lấy vải phủ lên, lấy vải mỏng cố định, mỗi ngày thay thuốc 1 lần, thích hợp với các loại h́nh đau đầu.
Đại hoàng, Phác tiêu mỗi vị 30g, tán thành bột, cho nước vào và làm thành từng bánh, hoặc ḥa thành dạng hồ, dán lên hai bên huyệt Thái dương.
Liệu pháp xông hơi là phương pháp điều trị sử dụng thuốc sắc và nhiệt để xông, rửa và ngâm vùng da hoặc vùng bị ảnh hưởng. Công thức sử dụng Đại toán 1 củ, Xuyên khun, Cao bả, Thiên lư quan, Toàn Đương quy, Xích thược, Pḥng phong mỗi vị 10g. Nhúng 7 đến 8 lớp gạc vào trong canh thuốc, đắp lên vùng bị ảnh hưởng khi c̣n nóng, dùng một miếng gạc khác nhúng liên tục vào trong canh thuốc, giữ cho gạc trải đều trên vùng bị ảnh hưởng ở một độ ẩm và nhiệt nhất định.
Dùng Xuyên khung 15g, Văn tàm sa 30g, Cương tàm 20~30 con (20 tuổi trở lên cứ thêm 1 tuổi là thêm 1 con), Bach chỉ 15g, cho tất cả vào nồi, đổ 5 chén nước, đun nhỏ lữa cạn c̣n 3 chén, dùng miếng giấy dày buộc lại, nếu đau hết cả đầu
dùng giấy dày buộc lại, nếu nhức đầu th́ hướng đầu vào miệng nồi (nhắm chặt mắt hoặc dùng khăn quấn lại) che đầu bằng một miếng vuông lớn dùng khăn nóng xông hơi, mỗi ngày một liều, mỗi liều xông 2 lần, mỗi lần xông từ 10 đến 15 phút.

Sử dụng liệu pháp nhỏ thuốc vào mũi để điều trị chứng đau đầu như thế nào?
Trị liệu bằng thuốc nhỏ mũi là một phương pháp điều trị bên ngoài giúp làm giảm hoặc thậm chí loại bỏ cơn đau đầu thông qua việc nhét thuốc và nhỏ mũi.
“Đầu thống tắc tỵ tán” (头痛塞鼻散) được làm từ Xuyên khung, Bạch chỉ và cứu Viễn chí mỗi vị 30g, Tế tân7,5g, Băng phiến 10g nghiền thành bột mịn, đóng chai và bảo quản trong b́nh kín không để hả hơi. Cách dùng: Lấy một lượng nhỏ bột thuốc bọc trong mảnh vải lụa hoặc vải mịn nhỏ rồi nhét vào lỗ mũi, nếu nhức đầu bên phải th́ nhét vào mũi trái, nếu nhức đầu bên trái, nhét vào mũi phải, thông thường cơn đau đầu sẽ dần biến mất sau 3 đến 5 phút.
Đối với chứng đau nửa đầu, có thể dùng bột Hùng hoàng và bột Tế tân mỗi loại 5g, đun sôi Hùng hoàng với dấm và lá củ cải trong 2 giờ, phơi khô và xay mịn, trộn với bột Tế tân rồi nhỏ vào mũi. co giật (một liều có thể sử dụng 70 đến 80 lần), 2 đến 3 lần một ngày. Địa long và Nhũ hương thành những phần bằng nhau, nghiền thành bột mịn, đặt lên giấy để xoắn giấy rồi đốt gần mũi để ngửi khói. Bạch chỉ 6g và Băng phiến 3g tán thành bột mịn, mỗi lần thổi một lượng thích hợp vào mũi.
Trị đau dây thần kinh sinh ba bằng mũi có thể dùng cây Tế tân, Hồ tiêu hoặc Xuyên tiêu mỗi loại 10 gam,Can khương 6g, Bạch tửu15 đến 30 ml, thêm nước đun sôi, dùng giấy h́nh kèn để hít hơi nước vào xoang mũi. mỗi lần 10 phút, một ngày 2 lần.
Dùng nước ép tỏi, Hạn liên thảo tươi giă lấy nước, Bạc hà tươi giă lấy nước, nước hoa dâm bụt tươi nhỏ vào mũi có tác dụng nhất định đối với các triệu chứng đau đầu do ngoại cảm và nội thương.

Liệu pháp thuốc gối đầu cũng có thể điều trị chứng đau đầu?
Điều trị bệnh đau đầu bằng thuốc gối đầu là một phương pháp trị liệu bên ngoài đơn giản và hiệu quả, là liệu pháp truyền thống của y học cổ truyền, do mỗi ngày con người dành gần 1/3 thời gian để ngủ nên chất thuốc đặc biệt trong lơi gối tỏa ra mùi hương của thuốc đi vào cơ thể theo hơi thở. và tạo ra tác dụng chữa bệnh. Nó tốt nhất cho những cơn đau đầu do huyết áp cao và cũng có hiệu quả đối với những cơn đau đầu khác kèm theo triệu chứng mất ngủ. Hai công thức cốt lơi được giới thiệu dưới đây:
Cúc hoa 1000g, Xuyên khung 400g, Đan b́ 200g, Bạch chỉ 200g, Trúc diệp 500g cho vào lơi gối vải sạch, mỗi túi có thể dùng được hơn nửa năm.
Dùng phương trên gia Tế tân 200g, có thể điều trị chứng đau đầu kịch liệt gặp lạnh là phát bệnh; Gia Địa long 300g, có thể điều trị chứng đau đầu do ứ huyết đ́nh trệ.

Liệu pháp thể dục có thể điều trị chứng đau đầu?
Thể liệu c̣n là phương pháp pḥng ngừa và điều trị đau đầu hiệu quả, có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, giúp bạn vui vẻ, sảng khoái, đặc biệt hiệu quả đối với một số chứng đau đầu mạn tính và đau đầu do căng thẳng. Dưới đây là một số phương pháp:
Thái cực quyền di chuyển chậm răi, nhẹ nhàng, thư giăn cơ bắp, tập trung ư thức, phương pháp đơn giản và hữu ích trong việc điều trị các chứng đau đầu khác nhau.
Ngũ cầm hí là một môn thể thao được sáng tạo bởi Hoa Đà, một danh y nổi tiếng thời Tam Quốc, dựa trên chuyển động cơ thể của năm loài động vật: hổ, gấu, hươu, khỉ và chim, và được h́nh thành bằng cách phối hợp với hô hấp (hơi thở). Nó có ưu điểm là đơn giản dễ học dễ thực hành.
Đi bộ và chạy bộ rất được bệnh nhân ưa chuộng v́ chúng đơn giản, dễ thực hiện và số lượng bài tập dễ kiểm soát. Trong số đó, nó có tác dụng chữa bệnh tốt hơn, đặc biệt đối với những bệnh nhân đau đầu do hư chứng. Đi bộ và chạy bộ thường được thực hiện tốt nhất vào buổi sáng hoặc có thể xen kẽ với các hoạt động khác. Tuy nhiên, chỉ cần nhịp tim không vượt quá 120 nhịp mỗi phút sau khi hoạt động và bạn không cảm thấy tức ngực hoặc đánh trống ngực là đủ.

Điều trị đau đầu bằng chế độ thực phẩm với thuốc như thế nào và để pḥng ngừa đau đầu cần chú ư những điều ǵ?
Liệu pháp thực phẩm hoặc chế độ ăn uống thực phẩm với thuốc là một phần trong phương pháp điều trị đau đầu toàn diện trong y học cổ truyền. Bằng cách chế biến thực phẩm hợp lư, nó không chỉ cung cấp dinh dưỡng phong phú mà c̣n cải thiện sự mất cân bằng của cơ thể với các đặc tính, mùi vị và chức năng vốn có của nó, từ đó phát huy những vai tṛ nhất định mà thuốc không thể đạt được. Sử dụng các phương pháp nấu ăn khác nhau để chế biến các món ăn dễ dàng cho bệnh nhân chấp nhận.
Nguyên tắc ăn kiêng điều trị đau đầu là không thể bỏ qua việc điều trị bằng thuốc, bạn phải tin tưởng vào thày thuốc và không bao giờ phá vỡ các quy tắc điều trị để thỏa măn sở thích cá nhân, công thức ăn kiêng phải đa dạng để tăng sự hứng thú của người bệnh. Các biện pháp ăn kiêng đau đầu phổ biến bao gồm:
Đối với người bệnh thiếu máu, nhức đầu, thêm 1 con gà xương đen, Hoàng kỳ 30g, Đương quy 20g thêm hành và gừng, nấu chung rồi uống nước canh. Hoặc nấu cháo với Đại táo 10 quả, Quế viên10 quả (nhăn) và một lượng hạt sen vừa đủ, nấu cháo ăn.
Những người khí trệ đau đầu có thể dùng củ cải vỏ đỏ với lượng thích hợp và 250 gam cá, nấu thành món canh như sữa rồi uống.
Người bệnh can dương thượng kháng, đau đầu dùng một lượng vừa đủ hoa cúc khô, Kỷ tử 10g, Sơn tra 10g, Trần b́ 15g và một ít đường phèn;
Dùng 2 quả trứng, Bạch cúc 30g, Bạch chỉ 30g, Xuyên khung 30g, Pḥng phong 15g gam. Dùng kim chọc hàng chục lỗ nhỏ trên quả trứng rồi đặt sang một bên. Sắc thuốc với nước, sau khi sôi th́ cho trứng đă đục lỗ vào tiếp tục nấu, sau khi trứng chín th́ ăn trứng và uống nước canh, có thể dùng chữa các chứng đau đầu do ngoại cảm phong hàn, phong nhiệt.
Cho 1 bộ óc lợn và Thiên ma 10g vào nồi thêm lượng nước thích hợp, đun trên lửa nhỏ trong 1 giờ thành nước súp đặc, loại bỏ cặn thuốc. Uống súp nhiều lần trong ngày và dùng thường xuyên có thể điều trị chứng đau đầu do thần kinh.
Các biện pháp pḥng bệnh bao gồm tăng cường tập thể dục, tăng cường thể lực, điều ḥa chức năng của các cơ quan và tránh các cảm giác bên ngoài, chấn thương bên trong và té ngă; tích cực điều trị tất cả các cơn đau đầu mạn tính có thể gây ra các cơn đau đầu cấp tính và những bệnh nhân mắc các bệnh này và những người có tiền sử tái phát. Chứng đau đầu nên tránh các nhân tố thúc đẩy phát bệnh; Tích cực điều trị bệnh nguyên phát và cố gắng hết sức để bệnh không chuyển thành chứng co giật, đột quỵ và hôn mê.
Kiên tŕ uống thuốc để pḥng cảm mạo, tránh ăn những thực phẩm dễ động phong, bốc hỏa như gà trống, đầu heo, tôm, tránh hút thuốc, uống rượu.

Tập khí công thế nào để không đau đầu?
Là một liệu pháp độc đáo trong Y học cổ truyền, khí công đóng một vai tṛ quan trọng trong việc rèn luyện sức khỏe và pḥng chống bệnh tật. Có rất nhiều kỹ thuật khí công, dưới đây là liệu pháp thở thai nhi dễ thực hiện và hiệu quả.
Liệu pháp nín thở bao gồm hai loại: nín thở và kiểm soát hơi thở, loại thứ nhất dựa vào các bài tập nín thở đặc biệt để dần dần kéo dài khả năng chịu đựng việc ngừng thở, loại thứ hai điều ḥa hơi thở bằng cách giữ cho tâm trí b́nh tĩnh để đạt được "sự b́nh tĩnh của tâm trí và giảm hơi thở". , gây cảm giác dọc theo kinh tuyến, thường được gọi là thuật giả kim bên trong. Cả hai đều mô phỏng trạng thái thở của thai nhi, kích hoạt và tích lũy Khí trong cơ thể, từ đó đạt được mục đích bồi bổ cơ thể, chữa bệnh, kéo dài tuổi thọ. Phương pháp tập thở của thai nhi như sau:
(1) Phương pháp thở kín:
① Người tập có thể chọn thời gian tập từ nửa đêm (23h đến 1h) đến trưa (11h đến 13h) hàng ngày, có thể ngồi hoặc nằm, nhắm mắt và tập trung. Theo lối sống của con người hiện đại, cũng có thể thay đổi thành một lần vào buổi sáng và một lần trước khi đi ngủ.
②Sau khi “tâm tĩnh”, “hơi thở tĩnh” và “tâm tĩnh” th́ có thể thực hành phương pháp nín thở. Người mới bắt đầu có thể hít vào từ từ bằng mũi, sau khi hít vào đầy đủ th́ có thể nín thở và đọc thầm các số từ một đến hàng trăm hoặc nhiều hơn, khi nín thở đến khi không thể khép được nữa th́ có thể từ từ thở ra không khí đục. Dù hít vào hay thở ra, bạn nên cố gắng làm cho nó dài, dài, mỏng và vi tế, không có tiếng thở hổn hển. Sau một thời gian luyện tập, những hơi thở nặng và ngắn dần được thay thế bằng những hơi thở dài và nhẹ, cho đến khi đạt được tiêu chuẩn “Hồng mao trứ tỵ thượng nhi bất động” (鸿毛着鼻上而不动) chiếc lông hồng trên mũi mà không lay động.
(2) Phương pháp điều chỉnh hơi thở:
Thời gian tập cũng tương tự như trên, bạn nên ngồi xếp bằng hoặc ngồi xếp bằng, hai ḷng bàn tay chồng lên nhau, ḷng bàn tay hướng lên trên, các ngón cái đan vào nhau, đặt ḷng bàn tay lên vùng bụng dưới hoặc ấn ḷng bàn tay lên cơ thể. đầu gối. Hăy ngừng suy nghĩ và đặt lưỡi của bạn lên ṿm miệng. Đầu tiên hăy hít thở tự nhiên và đếm hơi thở của bạn một cách thầm lặng, từ một đến mười, lặp đi lặp lại. Sau khi bước vào trạng thái tĩnh lặng nông, hăy tập trung vào phần dưới đan điền (ở giữa rốn hoặc dưới rốn 1,3 inch) và chuyển sang thở bụng, dần dần làm cho hơi thở của bạn đều, mỏng, nhẹ và dài. Thông qua nhiều tuần hoặc nhiều tháng thực hành, thông thường có thể tạo ra được trạng thái tĩnh lặng sâu sắc. Hơi thở cực kỳ chậm và hiện tượng dẫn truyền cảm giác đặc biệt dọc theo kênh Rendu có thể xảy ra một cách tự nhiên. Tuy nhiên, loại hiện tượng này không thể được theo đuổi hay hướng dẫn bởi suy nghĩ mà nó phải diễn ra một cách tự nhiên. Sau mỗi lần tập, không nên đứng dậy và đi lại một cách đột ngột mà trước tiên nên xoa mặt, tai hoặc khớp, sau đó từ từ mở mắt và đứng dậy để có sự luân phiên chậm răi giữa trạng thái tĩnh lặng và thức dậy.
Phương pháp này có thể có tác dụng pḥng ngừa và điều trị tích cực đối với các bệnh mạn tính lâm sàng và bệnh tâm lư khác nhau. Nó có tác dụng rất rơ rệt đối với bệnh viêm phế quản mạn tính, hen suyễn, khí thũng, đau đầu do nhiều nguyên nhân khác nhau, căng thẳng, đau bụng, mất ngủ, v.v. 
Trường Xuân dịch
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-02-14 01:52:59
Y HỌC CỔ TRUYỀN VỚI CHỨNG ĐAU ĐẦU

Tham khảo tư liệu:
Y học cổ truyền phân loại và điều trị chứng đau đầu dựa trên biện chứng luận trị như thế nào?
Y học cổ truyền chia đau đầu thành các loại sau dựa trên nguyên nhân và cơ chế bệnh và cách điều trị chúng:
(1) Đau đầu do lạnh (phong hàn đầu thống):
Loại đau đầu này là phổ biến nhất. Nguyên nhân là do phong hàn, bệnh khởi phát nhanh, đau đầu kịch liệt, chủ yếu ở vùng trán và thái dương, thường có cảm giác căng cứng ở cổ, khi gặp gió lạnh, cơn đau đầu lập tức trầm trọng hơn. Bởi v́ các lỗ chân tóc trên đầu bị gió và lạnh chặn lại, đau đầu và không đổ mồ hôi, ảnh hưởng đến sự tuyên giáng của phế khí và có thể kèm theo ho, hắt hơi, nghẹt mũi hoặc chảy nước mũi, v.v. Trường hợp nặng có kèm theo sốt và đau nhức cơ thể. Rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù khẩn.
Trị pháp: Trị phong giảm đau.
Xử phương: Xuyên khung trà điều tán. Xuyên khung, Kinh giới, Khương hoạt, Bạch chỉ, Pḥng phong mỗi vị 10g, Bạc hà 6g, Tế tân 3g, Cam thảo 6g.

(2) Đau đầu do phong nhiệt:
Chứng trạng chủ yếu: Bệnh khởi phát nhanh, đau đầu dữ dội, kèm theo cảm giác nặng đầu, nóng rát, thường sốt, có cảm giác nóng trong đầu, thích gió mát, khát nước và khô họng khi sốt nặng th́ nước tiểu vàng đỏ, táo bón, chảy nước mũi. Chảy nước mũi hoặc đau răng, v.v. Rêu lưỡi màu vàng, mạch phù sác.
Trị pháp: Khứ phong thanh nhiệt.
Xử phương: Tang cúc ẩm gia giảm. Tang diệp, Cúc hoa, Cát cánh, Liên kiều, Hạnh nhân, Lô căn mỗi vị 10g, Cam thảo 6g, Bạc hà 6g.

(3) Đau đầu do phong thấp:
Các triệu chứng bao gồm đầu nặng trĩu, đau đầu, đầu có cảm giác bị bó chặt, kèm theo chân tay nặng nề, tức ngực và sườn, buồn ngủ và đau nhức khắp cơ thể, hoặc buồn nôn và nôn. Rêu lưỡi trắng nhờn, mạch hoạt.
Trị pháp: Khứ thấp giảm đau.
Xử phương: Khương hoạt thắng thấp thang: Khương hoạt, Độc hoạt, Xuyên khung, Mạn kinh tử, Cao bản, Pḥng phong mỗi vị 10g, Cam thảo 6g.

(4) Đau đầu do Can Dương:
Loại đau đầu này thường có tiền sử tăng huyết áp. Đó là những cơn đau dạng mạch đập, kèm theo chóng mặt, ù tai, hoa mắt, khô mắt, có cảm giác g̣ bó ở cổ gáy, tính t́nh nóng nảy dễ cáu giận, mặt hồng miệng đắng, họng khô. Chất lưỡi đỏ, mạch huyền.
Trị pháp: B́nh can dương.
Xử phương: Thang Trấn can tức phong gia giảm. Hoài ngưu tất, Long cốt sống, Bạch thược, Thiên môn đông, Mạch nha sống, Mẫu lệ sống, Giả thạch, Huyền sâm, Xuyên luyện tử, Thanh hao mỗi vị 10g, Cam thảo 6g.

(5) Đau đầu do phong đàm:
Có các chứng trạng: Đau đầu khá nặng, kèm theo chóng mặt, tức ngực, buồn nôn và nôn, ho có đàm. Rêu lưỡi trắng nhờn, mạch nhu hoạt.
Trị pháp: Kiện tỳ hóa đàm trừ phong.
Xử phương: Thang Tứ quân tử gia giảm: Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Bán hạ, Pḥng phong mỗi vị 10g, Cam thảo 6g.
(6) Huyết ứ đầu thống:
Loại đau đầu này thường có tiền sử ngoại thương. Nó được đặc trưng bởi những cơn đau đầu kịch liệt, các cơn đau thường xuyên và việc điều trị khá khó khăn. Trường hợp nặng có biểu hiện buồn nôn, nôn, đánh trống ngực, khó thở, mất ngủ, suy giảm trí nhớ… Chất lưỡi tím sẫm hoặc có đốm, mạch trầm tế hoặc sáp.
Trị pháp: Hoạt huyết hóa ứ, thông kinh hoạt lạc.
Xử phương: Thông khiếu hoạt huyết thang gia giảm. Xích thược, Xuyên khung, Đào nhân, Hồng hoa mỗi vị 10g, Xạ hương 0.5g, Thông bạch 3 củ, Sinh khương 6g, Đại táo 5 quả, Hoàng tửu 30g.

(7) Đau đầu do thiếu máu:
Chứng trạng chủ yếu: Đau đầu âm ỉ, trí nhớ suy giảm, chóng mặt và đánh trống ngực, khó thở, chân tay yếu nhược, khi lao động th́ các chứng trạng tăng nặng, chán ăn, da nhợt nhạt hoặc vàng vọt, môi miệng không tươi; Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch trầm tế vô lực.
Trị pháp: Bổ ích khí huyết.
Xử phương: Thang Bát trân gia giảm: Đảng sâm, Bạch truật, Phục linh, Đương quy, Xuyên khung, Bạch thược, Thục địa mỗi vị 10g, Cam thảo 6g. Để tránh t́nh trạng Thục địa gây đầy bụng khó tiêu thường gia thêm Sinh khương và Sa nhân tùy theo t́nh trạng tiêu hóa của bệnh nhân.

(8) Đau đầu do thận dương hư:
Chứng trạng chủ yếu: Đau đầu, chóng mặt, hay quên, thắt lưng và đùi đau ê ẩm, chân tay lạnh, đi tiểu nhiều lần và bệnh nặng th́ liệt dương. Chất lưỡi trắng nhạt, mạch trầm tŕ vô lực, nhất là ở mạch xích.
Trị pháp: Bổ ích thận dương.
Xử phương: Địa hoàng, Sơn dược, Phục linh, Sơn thù, Đan b́, Trạch tả mỗi vị 10g, Quế chi 6g, chế Phụ tử 3g.
(9) Đau đầu do thận âm hư:
Chứng trạng chủ yếu: Đau đầu nhẹ, kèm theo chóng mặt, ù tai, hoa mắt, giảm trí nhớ, đau lưng, di tinh, hay mơ và mất ngủ, đánh trống ngực và khó thở, v.v. Trường hợp nặng có thể đổ mồ hôi đêm và sốt nhẹ. Chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.
Trị pháp: Bổ ích thận âm.
Xử phương: Lục vị địa hoàng gia giảm: Sinh địa, Vân linh, Đan b́, Sơn dược, Trạch tả, Sơn thù mỗi vị 10g.
(10) Đau đầu do hỏa nhiệt:
Loại đau đầu này phần lớn là do hội chứng kinh Dương Minh, do tà nhiệt mạnh của khí phận gây ra, chẳng hạn như cơn đau đầu kịch liệt của viêm năo B, kèm theo nôn mửa và sốt cao, đổ mồ hôi nhiều, khát nước và thích đồ uống lạnh, bực bội vội vă, mặt đỏ, nước tiểu đỏ và ít. Rêu lưỡi màu vàng và khô, mạch hồng đại mà sác.
Trị pháp: Thanh nhiệt tả hỏa
Xử phương : Thang Bạch hổ gia giảm:Thạch cao 30g, Tri mẫu 10g, Cánh mễ 10g, Cam thảo 6g, Sinh địa 10g, Mạch đông 10g.

Y học cổ truyền Trung Quốc điều trị các loại đau đầu khác dựa trên sự phân biệt hội chứng như thế nào?
(1) Đau đầu do kinh Thiếu dương:
Chứng trạng chủ yếu: Thỉnh thoảng đau đầu, đau cả hai tai, lạnh và nóng luân phiên (hàn nhiệt văng lai), đau và tức ở ngực và hạ sườn, khó chịu và buồn nôn, khô họng và chóng mặt. Mạch huyền, rêu lưỡi trắng và vàng, chất lưỡi nhạt, đầu lưỡi đỏ.
Trị pháp: Ḥa giải biểu lư.
Xử phương: Thang Tiểu sài hồ gia giảm: Sài hồ 15g, khương Bán hạ 15g, Hoàng cầm 15g, Sinh khương 3 lát, Đại táo 5 quả, Cam thảo 10g, Bạch chỉ 15g, Xuyên khung 15g, Nhân sâm 10g.
(2) Chứng đau dầu do động kinh:
Triệu chứng chính: Đau đầu đột ngột, chấm dứt trong thời gian ngắn, có yếu tố khởi phát rơ ràng, đau vùng trán và thái dương, tính chất đau theo mạch đập, đau như dao cắt hoặc đau nhói.
Trị pháp: Trừ đàm khứ phong, thông khiếu giảm đau.
Xử phương: Điên giản hiệu số 2 (tự chế): Bán hạ 100g, Đảm nam tinh 50g, Ngô công 10 con, Tế tân 25g, Thiên ma 50g. Tất cả tán thành bột, mỗi lần uống 0.5g, ngày uống 3 lần.
(3) Đau đầu do viêm xoang hốc mũi:
Triệu chứng chính: Đau âm ỉ ở đầu, chủ yếu ở mặt trong của trán và xương g̣ má, ví dụ như viêm xoang hàm trên cũng có thể xuất hiện đau răng, sau khi xuất hiện đặc điểm của cơn đau đầu là cơn đau đầu sẽ tiếp tục tăng nặng hơn. Ví dụ, nếu viêm xoang trán trên gây ra, cơn đau đầu sẽ dữ dội vào buổi sáng, nặng hơn vào buổi trưa và nhẹ dần vào buổi tối.
Trị pháp: Thanh nhiệt giải độc, thông khiếu tức phong.
Xử phương: Hoàng liên giải độc thang gia giảm: Hoàng liên, Hoàng cầm, Chi tử, Đại hoàng, Tân di, Bạch chỉ, Pḥng phong, Kinh giới mỗi vị 15g, Thổ miết trùng 50g, Địa đinh 40g, Bạc hà 10g, Cúc hoa 20g.
Dùng thang thuốc nêu trên sắc uống ấm cho đến khi đi đại tiện th́ ngưng, nếu không đi đại tiện th́ tiếp tục uống lại.
(4) Đau đầu khi hành kinh.
Bệnh chủ yếu xảy ra ở phụ nữ trẻ, những người bị đau đầu hoặc đau nửa đầu 1 đến 2 ngày trước kỳ kinh hoặc trong thời kỳ kinh nguyệt.
Triệu chứng chính: Đau đầu hoặc đau nửa đầu, thường kèm theo tức ngực và khó thở, sưng đau hai bên sườn, cáu kỉnh, ít buồn ngủ và mơ nhiều, mạch huyền; Chất lưỡi nhạt, ít rêu lưỡi.
Trị pháp: Sơ can giải uất, hoạt huyết điều kinh.
Xử phương: Tiêu dao tán gia giảm. Sài hồ, Phục linh, Bạch truật, Bạch chỉ mỗi vị 15g, Đương quy, Xuyên khung, Hương phụ, Huyền hồ mỗi vị 20g, Xích thược 10g.

Y học cổ truyền có thể điều trị chứng đau đầu?
Y học cổ truyền là sự tổng hợp kinh nghiệm chống chọi với bệnh tật hàng ngh́n năm của hàng triệu nhân dân, là một bộ phận quan trọng trong di sản văn hóa quư giá của loài người. Y học cổ truyền đă tích lũy kinh nghiệm chẩn đoán và điều trị vô cùng phong phú trong thực hành y học lâu dài và h́nh thành nên một hệ thống lư thuyết độc đáo. Trong hàng ngàn năm, lư thuyết về y học cổ truyền đă hướng dẫn hiệu quả việc thực hành y học lâm sàng nhiều đối tượng khác nhau của y học cổ truyền, đóng góp to lớn cho việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân cũng như sự tái sinh và thịnh vượng của loài người và chiếm một vị trí quan trọng trong y học thế giới. Sau khi được thành lập, y học cổ truyền đă phát triển hơn nữa và thu hút được sự quan tâm lớn của cộng đồng y tế quốc tế.
Y học cổ truyền được đông đảo người dân yêu thích bởi hệ thống lư thuyết khác biệt với Hệ thống lư luận của y học hiện đại phương tây. Nó cũng đă tích lũy được kinh nghiệm phong phú trong chẩn đoán và điều trị đau đầu, dù là đau đầu cấp tính hay đau đầu mạn tính, dù là uống thuốc hay bôi ngoài, châm cứu, xoa bóp,… đều có tác dụng rơ rệt. V́ vậy, y học cổ truyền vẫn rất tốt trong việc điều trị chứng đau đầu.

Y học cổ truyền nhận thức chứng đau đầu như thế nào?
Đau đầu là bệnh có triệu chứng chính là đau một phần hoặc toàn bộ đầu. Nó có thể xuất hiện đơn độc hoặc trong nhiều bệnh cấp tính và mạn tính, liên quan đến các bệnh bên trong, bên ngoài, thần kinh, tâm thần, ngũ quan và các bệnh lâm sàng các khoa khác.
Y học cổ truyền tin rằng nguyên nhân của nó bao gồm cảm thụ từ bên ngoài và tổn thương bên trong. Nhân tố bên ngoài chủ yếu là phong, nhưng thường kèm theo hàn, thử, thấp, nhiệt (lạnh, nắng, ẩm ướt, nhiệt); Nội thương có thể do các yếu tố như can dương nhiễu loạn, thận tinh không đầy đủ, đàm ẩm gây tắc nghẽn, khí huyết suy hư, ứ huyết gây trở ngại kinh lạc. Nguyên nhân bệnh có thể là do bệnh cản trở thanh dương, hoặc do năo không được nuôi dưỡng, hoặc do khí huyết rối loạn và tuần hoàn máu kém mà gây bệnh.
Các chứng như đau đầu do thần kinh, tăng huyết áp, xơ cứng động mạch năo, nhiễm trùng nội sọ, u năo, tai biến mạch máu năo, chấn động năo, động kinh dạng nhức đầu, đau đầu do căng thẳng, thoái hóa đốt sống cổ, cảm lạnh, viêm tai giữa, viêm xoang, trúng nắng, hạ huyết áp trong y học hiện đại. thiếu máu, urê huyết, rối loạn thần kinh, rượu và ngộ độc khí carbon monoxide đều có thể được điều trị dựa trên biện chứng luận trị.

Y học cổ truyền phân loại chứng đau đầu như thế nào?
Y học cổ truyền đă nhận thức sâu sắc về chứng đau đầu từ hơn 2.000 năm trước, qua các thời đại, các lương y cơ bản đă chia bệnh đau đầu thành các loại sau: ① Đau đầu do phong hàn (lạnh); ② Đau đầu do phong nhiệt (nóng); ③ Đau đầu do phong thấp (thấp); ④ Đau đầu do dương của gan (can dương) ; ⑤ Đau đầu do đàm thấp kèm phong,(đàm thấp hiệp phong); ⑥ Đau đầu do ứ huyết; ⑦ Đau đầu do khí huyết hư yếu; ⑧ Đau đầu do thận dương hư; ⑨ Đau đầu do thận âm hư yếu; ⑩ Đau đầu do hỏa nhiệt.

Làm thế nào để phân biệt đau đầu do ngoại cảm và đau đầu do nội thương?
Đau đầu do ngoại cảm thường phát bệnh khá nhanh và có tính chất nghiêm trọng hơn, thường có đặc điểm là đau theo mạch đập, đau trướng, nóng rát, đau kịch liệt và đau không ngừng, thường đi kèm với cảm giác sợ lạnh và sốt, hoặc đau lưng ê ẩm, hoặc cứng cổ gáy và lưng, hoặc nghẹt mũi chảy nước mũi, ho, mạch nhanh, thường kèm theo biểu chứng phong, hàn hoặc nhiệt và thường thuộc thực chứng, trị pháp chủ yếu là khứ phong tán tà. Chứng đau đầu do ngoại cảm thường có bệnh tŕnh ngắn, mức độ tổn thương ít nên dễ khỏi bệnh.

Chứng đau đầu do nội thương, bệnh khởi phát chậm, tính chất của cơn đau chủ yếu là đau âm ỉ, đau có cảm giác trống rỗng (không thống), đau đầu và đầu óc tối tăm, lúc đau lúc không, triệu chứng đau đầu sẽ trầm trọng hơn khi bạn gắng sức. Vị trí bệnh có liên quan đến gan, tỳ, thận, phần lớn là hội chứng hư yếu, hoặc là kết hợp giữa hư và thực, phương pháp điều trị chủ yếu là bồi bổ cơ thể và trừ khứ bệnh.

Đau đầu có liên quan đến lục khí không?
Lục khí là phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa (gió, lạnh, nóng, ẩm, khô, lửa), không chỉ là sáu biểu hiện của sự biến đổi khí hậu bốn mùa mà c̣n là sáu yếu tố gây bệnh trong cơ thể con người, chúng được gọi là “lục dâm” (dâm là thừa thăi là tràn lan) và có liên quan mật thiết đến việc khởi phát những cơn đau đầu.
Những cơn đau đầu do phong thường khởi phát đột ngột và cũng giảm đi nhanh chóng, thường kèm theo chứng trạng như đổ mồ hôi, sợ gió, ngứa ngáy hoặc co giật, run rẩy, lắc lư đầu, chóng mặt và các triệu chứng bất ổn khác.
Đau đầu do lạnh (hàn) là cơn đau tương đối nghiêm trọng, và các triệu chứng dương khí không đầy đủ như căng cơ và co rút, khó co duỗi các khớp một cách tự nhiên, tay chân không ấm áp, miệng nhạt và không khát, đau bụng tiêu chảy, rêu lưỡi trắng, mạch tŕ.
Đau đầu do cảm nắng thường gặp nhiều hơn vào mùa hè và thường kèm theo các triệu chứng bệnh do thấp như sốt, khát nước, đổ mồ hôi, khó thở, mệt mỏi, suy nhược, nhiều người c̣n kèm theo hạ thân nhiệt, tức ngực. đau thắt, buồn nôn và nôn.
Đau đầu do thấp chủ yếu xảy ra vào mùa trưởng hạ (từ lập thu đến trước thu phân), nhưng có thể xảy ra quanh năm, các triệu chứng như đầu nặng, chân tay nặng nề, tức ngực, đầy bụng, tiêu chảy là những triệu chứng thường gặp t́nh trạng thấp lan tỏa.
Đau đầu do táo (khô) có xu hướng xảy ra vào mùa thu, cơn đau thường có cảm giác nóng rát, thường kèm theo các triệu chứng như môi khô nứt nẻ, ho khan không có đờm, da khô, tóc cháy sém, có thể tổn thương phổi và tân dịch.
Đau đầu do hỏa gây ra chủ yếu xảy ra vào mùa hè, khởi phát cấp tính, đau kịch liệt, sốt cao, đổ mồ hôi nhiều, mặt đỏ bừng, đau họng và các hiện tượng chảy máu khác nhau.

Các bộ vị khác nhau của đau đầu có liên quan đến sáu kinh mạch không? Làm thế nào để nhận biết các triệu chứng đau đầu?
Cái gọi là sáu kinh mạch là sáu nhánh kinh mạch gồm Thái Dương, Dương Minh, Thiếu Dương, Thái Âm, Quyết Âm và Thiếu Âm trong học thuyết kinh lạc. Nó là một hệ thống độc đáo nối liền trong ngoài, trên dưới và kết nối các cơ quan nội tạng và các mô, đồng thời vận hành khí và huyết. V́ vậy, nếu kinh lạc nào bị bệnh tật xâm nhập th́ tất yếu sẽ phản ảnh ở những nơi nó lưu thông, chứng đau đầu cũng vậy, chỉ cần t́m thấy cơn đau ở những phần khác nhau trên đầu th́ có thể suy ra đó là bệnh biến của kinh lạc nào. Thông thường: Đau sau gáy và cổ thuộc kinh Thái Dương; Đau hai bên đầu thuộc kinh Thiếu Dương; Đau toàn bộ đầu và nặng nề như bị bao lại th́ thuộc kinh Thái Âm (thường gặp nhất ở hội chứng của thấp); Các cơn đau đầu dữ dội, liên quan đến năo và răng, mặt và móng tay tím tái thuộc về bệnh ở kinh Thiếu Âm (Thường gặp ở bệnh nhân Dương khí hư yếu và hàn phục ở trong, nhưng khá hiếm); Đau trên đỉnh đầu, kèm theo nôn ra nước trong, thuộc kinh Quyết âm.
Hư và thực là hai tiêu chí quan trọng dùng để phán đoán sự thịnh suy của bệnh và năng lực kháng bệnh mạnh hay yếu của cơ thể. Có thể nói, bất cứ một bệnh chứng nào xuất hiện, đều chính là kết quả của cuộc đấu tranh hỗ tương giữa bệnh (tà khí) và năng lực kháng bệnh (chính khí), không cần phải nói rằng sức mạnh thể chất của cơ thể đóng một vai tṛ quan trọng ở đây, hư chứng là biểu hiện hội chứng năng lực kháng bệnh (chính khí) không đầy đủ và công năng tạng phủ suy thoái, thường gặp ở bệnh nhân có tố chất cơ thể hư yếu, nhưng do mức độ hư tổn của âm dương khí huyết khác nhau, v́ thế trên lâm sàng có các hư chứng khác nhau như huyết hư, khí hư, âm hư và dương hư; Thực chứng là biểu hiện hội chứng bệnh tà quá mạnh, công năng hoạt động quá mức của tạng phủ, do tính chất của bệnh khác nhau tùy theo mỗi vị trí bệnh, v́ thế biểu hiện lâm sàng cũng khác nhau. Các triệu chứng thường gặp bao gồm sốt, cơ thể khỏe mạnh, giọng nói và hơi thở thô to, tinh thần khó chịu, ngực, hai bên sườn, vùng thượng vị và bụng, đầy tức đau không chịu ấn nắn, táo bón hoặc kiết lỵ, nước tiểu ít và có màu đỏ, rêu lưỡi dày nhờn, mạch thực hữu lực.
Đau đầu thực chứng thường có đặc điểm là nóng rát, đau theo mạch đập gọi là“Khiêu thống”(跳痛), đau sâu và kịch liệt “Chí thống” (挚痛)là rất đau, “Trọng thống” (重痛) là đau đầu và có cảm giác nặng đầu, “Trướng thống” (胀痛)Đau đầu trướng tức (như muốn vỡ ra) “Thống vô hưu chỉ” (痛无休止)là đau không ngừng, khởi phát nhanh hơn, diễn biến bệnh ngắn hơn và cơn đau dữ dội hơn, chủ yếu do tác nhân gây bệnh bên ngoài gây ra. Đau đầu do hư yếu có các tính chất là đau âm ỉ, đau đầu và đầu óc tối tăm, trống rỗng hoặc đau kéo dài, khi mỏi mệt th́ mức độ đau đầu trầm trọng hơn rơ rệt, bệnh thường khởi phát chậm, thế bệnh khá nhẹ và bệnh thường kéo dài.

Các loại thuốc y học cổ truyền thường được sử dụng để điều trị chứng đau đầu là ǵ?
Mọi người đều biết rằng phương pháp chữa bệnh chủ yếu bằng y học cổ truyền là sử dụng y dược cổ truyền. Hàng ngh́n năm thực hành đă chứng minh rằng nó là vũ khí chính để pḥng bệnh và chữa bệnh cho nhân dân, bảo đảm sức khoẻ cho mọi người, sức khỏe đóng vai tṛ trọng yếu cho sự thịnh vượng của gia đ́nh và đất nước. Hiện nay đă có hơn 5.000 loại dược liệu được ghi chép trong kinh điển đă xuất bản. Có rất nhiều loại thuốc cổ truyền dựa trên các dược tính khác nhau như: Tứ khí, ngũ vị, quy kinh, thăng giáng phù trầm (xem ở phần tính dược) cũng như các chống chỉ định về khả năng tương thích, sau khi khám bệnh nhân, thày thuốc sẽ xác định phương pháp điều trị dựa trên biện chứng thẩm nhân (辨证审因) biện chứng t́m ra nguyên nhân và xem xét, lựa chọn loại thuốc cổ truyền thích hợp, xác định liều lượng và thực hiện các kết hợp theo nguyên tắc thành phần (Quân, thần, tá, sứ) thành đơn thuốc, cho dù đó là thuốc sắc, thuốc viên, bột, thuốc mỡ hay thuốc đan, rượu, trà, dược lộ dù dùng bên trong hay bên ngoài đều có thể chữa khỏi bệnh.
Các loại thuốc truyền thống của thường được sử dụng để điều trị chứng đau đầu như sau:
Pḥng phong: Vị cay, ngọt, tính ấm, quy kinh bàng quang, can, tỳ kinh. Tán phong giải trừ biểu chứng, trừ khứ phong thấp và giảm đau.
Khương hoạt: Vị cay, vị ngọt, tính ấm, quy kinh bàng quang, can, thận kinh. Tán hàn giải trừ biểu chứng khứ phong thấp giảm đau.
Tế tân: Vị cay, ấm, quy các kinh phế và can thận. Tán hàn giải biểu, khứ phong giảm đau, ôn phế hóa đàm.
Sinh khương: Vị cay, tính hơi ấm, quy phế, tỳ kinh. Xuất hăn giải biểu, ấm dạ dày trị ẩu thổ, giải độc.
Bạc hà: Vị cay, mát, quy hai kinh can và phế. Sơ tán phong nhiệt, thanh đầu mắt, thông lợi yết hầu, thấu chẩn trị ngứa.
Hoa cúc: Vị cay, ngọt, hơi đắng, hơi lạnh, quy hai kinh phế và can. Sơ tán phong nhiệt, b́nh can, sáng mắt, trị mụn nhọt, sưng tấy, đau nhức.
Độc hoạt: Vị cay, đắng, tính hơi ấm, quy kinh thận và bàng quang. Khứ phong thắng thấp giảm đau, tán hàn giải trừ biểu chứng.
Phục linh: Vị ngọt, nhạt, tính b́nh, quy các kinh tâm, tỳ và thận. Lợi tiểu và thấm thấp, kiện tỳ bổ trung (trung tiêu) an tâm thần.
Thạch cao: Cay, vị ngọt, tính lạnh, quy các kinh phế , can và vị. Thanh nhiệt tả hỏa, thanh vị nhiệt, thanh phế nhiệt, sinh da thịt, thu liễm vết thương.
Mẫu đan b́: Đắng, cay, hơi lạnh, quy các kinh tâm, can, thận. Thanh nhiệt và mát máu, hoạt huyết tán ứ.
Hoàng cầm: Vị đắng, tính lạnh, quy các kinh phế, đảm, vị và đại tràng. Nó có tác dụng thanh nhiệt táo thấp, thanh nhiệt giải độc, mát máu và an thai.
Thiên hoa phấn: vị đắng, hơi ngọt, tính lạnh, quy các kinh phế và vị. Thanh nhiệt sinh tân dịch, tiêu sưng trừ mủ.
Bán hạ: Cay, tính ấm, có độc, quy các kinh Tỳ, vị và phế. Có tác dụng táo thấp hóa đàm, giáng nghịch trị ẩu thổ tiêu trừ bĩ tắc và kết trệ. Thường dùng gừng để chế biến nên gọi là khương Bán hạ.
Trúc nhự: Vị ngọt, hơi lạnh, quy các kinh phế, vị và đảm. Thanh hóa nhiệt đàm, thanh nhiệt trị ẩu thổ.
Phụ tử: Vị cay, ngọt, tính rất nóng, có độc, quy các kinh Tỳ, thận và tâm. Có tác dụng hồi dương cứu nghịch, làm ấm tỳ và thận, khứ hàn và giảm đau. Sản phẩm này độc hại và nên sắc trước từ 30 đến 60 phút để giảm độc tính.
Nhục quế: Vị cay, ngọt, tính rất nóng, quy các kinh thận, tỳ, tâm, can. Bổ hỏa trợ dương, trừ hàn giảm đau, ôn kinh mạch hoạt huyết.
Trần b́: Cay, đắng, tính ấm, quy các kinh tỳ và phế. Lư khí kiện tỳ, táo thấp hóa đàm.
Chỉ thực: Vị đắng, cay, hơi lạnh, quy các kinh Tỳ, vị và đại tràng. Phá khí tiêu tích trệ, hạ khí thông đại tiện.
Xuyên khung: Vị cay, tính ấm, quy các kinh can, đảm, tâm bào. Hoạt huyết hành khí, khứ phong giảm đau, xua tan gió và giảm đau.
Đào nhân: Vị đắng, ngọt, tính b́nh, quy các kinh tâm, can và đại tràng. Phá huyết trục ứ, nhuận tràng trị táo bón.
Hồng hoa: Vị cay, tính ấm, quy các kinh tâm và Can. Hoạt huyết thông kinh mạch, khứ ứ giảm đau.
Diên hồ sách: Vi cay, đắng, tính ấm, quy các kinh can, tỳ, tâm. Hoạt huyết hành khí và giảm đau.
Ích mẫu thảo: Vị cay, hơi đắng, hơi lạnh, quy các kinh tâm bào, can, thận. Thúc đẩy lưu thông máu và điều ḥa kinh nguyệt, khứ ứ huyết và giảm đau, lợi tiểu và tiêu phù thũng.
Ngưu tất: Vị đắng, chua, tính b́nh, quy kinh can, thận. Thúc đẩy lưu thông máu và loại bỏ ứ huyết, mạnh gân xương ,thuận lợi khớp, dẫn huyết đi xuống, lợi tiểu và trị chứng sỏi niệu.
Cam thảo: Vị ngọt, tính b́nh, quy các kinh tâm, phế, tỳ, vị hoặc quy mười hai kinh. Có fasc dụng bổ trung ích khí, thanh nhiệt và giải độc, khứ đàm trị ho, giảm co thắt và giảm đau (hoăn cấp chỉ thống), và điều ḥa các loại thuốc.
Thục địa hoàng: Vị ngọt, hơi ấm, quy các kinh tâm, can, thận. Bổ huyết tư âm, bổ tinh ích tủy.
Đương quy: Vị ngọt, cay, tính ấm, quy các kinh can, tâm, tỳ. Bổ huyết và điều ḥa kinh nguyệt, hoạt huyết và giảm đau, Nhuận tràng thông đại tiện.
Bạch thược: Vị đắng, chua, hơi lạnh, quy kinh can. Tốt cho gan, giảm đau, bổ máu và điều ḥa kinh nguyệt, nuôi dưỡng gan và cải thiện thị lực, nhuận phế và giảm ho.
Kỷ tử: Vị ngọt, tính b́nh, tác dụng vào kinh can, thận, phế. Bổ gan thận, bổ gan và cải thiện thị lực, nhuận phế và giảm ho.
Lộc giác: Vị mặn, tính ấm, quy các kinh can, thận, bổ can thận, mạnh gân xương, an thai.
Đỗ trọng: Vị ngọt, tính ấm, quy các kinh can thận. Bổ gan thận, mạnh gân xương, an thai.
Sơn dược: Vị ngọt, tính b́nh, quy các kinh tỳ, phế, thận. Bổ tỳ trị tiết tả và làm giảm tiêu chảy, dưỡng phế ích âm, ích thận liễm tinh.
Táo tàu: Vị ngọt, hơi ấm, quy các kinh can, phế, thận. Bổ máu và cầm máu, dưỡng âm và giữ ẩm.
Thạch hộc: Vị ngọt, nhạt, hơi lạnh, quy các kinh vị và thận. Dưỡng vị sinh tân dịch, bổ âm trừ nhiệt.
Quy bản: Vị mặn, ngọt, tính b́nh, quy các kinh can thận và tim. Bổ thận, bổ xương, củng cố kinh nguyệt và giảm đau.
Toàn yết: Vị cay, tính b́nh, có độc, quy kinh can. Trị phong, trấn tĩnh, thông kinh lạc và giảm đau, giải độc tán kết trệ. Toàn yết tân tán có độc, khi sử dụng không nên sử dụng liều lượng quá lớn. Thận trọng khi sử dụng ở người bị huyết hư sinh phong (thiếu máu).
Thiên ma: Vị ngọt, tính b́nh, quy kinh can. Trị phong và giảm co thắt, khứ phong và giảm đau.
Câu đằng: Vị ngọt, hơi lạnh, quy kinh can và tâm bào lạc. Trị phong, giảm co thắt, thanh phế b́nh can.
Ngô công: Vị cay, tính ấm, quy kinh can. Trị phong gió và giảm co thắt, giải độc và tán kết trệ, thông kinh mạch và giảm đau. Sản phẩm này độc hại, có tác dụng an thần, chống co giật và có thể dùng để điều trị ung thư.
Địa long: Vị mặn, tính lạnh, quy các kinh can, tỳ, phế. Có tác dụng thanh nhiệt và giảm co thắt, thanh phế trị hen suyễn suyễn, khứ phong thông lạc mạch.
Bạch truật: Vị đắng, ngọt, tính ấm, quy các kinh tỳ vị. Bổ tỳ bổ khí, táo và lợi tiểu, cố biểu và cầm mồ hôi, an thai.

Nguyên lư của liệu pháp xoa bóp là ǵ và những kỹ thuật điều trị đau đầu phổ biến như thế nào?
Thôi nă, thời xa xưa gọi là “Án ma” (按摩)xoa bóp, massege, là một môn y học cổ truyền, trong đó các thày thuốc sử dụng các phương pháp thao tác để điều trị bệnh tùy theo t́nh trạng bệnh. Việc điều trị bằng xoa bóp không dùng thuốc hay thiết bị làm phương tiện chính, đơn giản, tiện lợi, hiệu quả, không có tác dụng phụ, được bệnh nhân hoan nghênh, được giới Y học cổ truyền và Tây y công nhận và được xă hội đánh giá cao. Sự khác biệt giữa nó và phương pháp điều trị bằng châm cứu là phương pháp trước đạt được hiệu quả điều trị tương tự bằng cách châm cứu trên các du huyệt và kinh lạc, trong khi phương pháp sau sử dụng phương pháp kích thích thủ công các kinh lạc và du huyệt.
Nguyên lư cơ bản của trị bệnh của xoa bóp là điều chỉnh các bất thường về vị trí giải phẫu, thay đổi các chức năng hệ thống liên quan, điều chỉnh và kết hợp việc điều chỉnh vị trí giải phẫu với việc điều chỉnh thông kinh lạc. Trong số đó, nguyên lư trị liệu của xoa bóp cho gân bị thương cụ thể đặc biệt là thư giăn gân và thông kinh lạc, điều chỉnh và khôi phục gân, hoạt huyết khứ ứ. Xoa bóp có tác dụng điều chỉnh công năng của vinh vệ khí huyết và nội tạng.
Các phương pháp điều trị đau đầu thường được áp dụng là ǵ?
Nhất chỉ thiền thôi pháp (一指禅推法) là đẩy bằng 1 ngón tay: Nắm một bàn tay trống không, duỗi ngón tay cái một cách tự nhiên để che lỗ nắm tay, dùng bề mặt có gân hoặc đỉnh đầu ngón tay cái để tập trung vào một bộ phận nhất định hoặc huyệt vị kinh lạc, hạ thấp vai và khuỷu tay, treo cổ tay và sử dụng cổ tay Sự xoay của khớp ngón tay cái điều khiển các hoạt động gấp và duỗi của khớp ngón tay cái, để lực sinh ra tác động lên các huyệt kinh lạc luân phiên và liên tục.
Nă pháp (拿法) là phép cầm: Dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa úp vào nhau, nhéo vào một bộ phận hoặc huyệt đạo nhất định, dùng lực từ từ để khép và thực hiện các động tác nhào liên tục, từ nhẹ đến nặng rồi từ nặng đến nhẹ.
Án pháp (按法): Dùng ngón tay hoặc ḷng bàn tay ấn lên một bộ phận hoặc huyệt đạo nhất định trên bề mặt cơ thể rồi ấn dần xuống. Hướng ấn phải thẳng đứng, lực từ nhẹ đến nặng, đều đặn và liên tục th́ sự kích thích mới có thể thấm sâu hoàn toàn vào các mô trong cơ thể.
Thôi pháp (推法): Dùng ngón tay hoặc ḷng bàn tay tác dụng lực lên một bộ phận hoặc huyệt đạo nhất định trên cơ thể người và thực hiện chuyển động tuyến tính (hoặc h́nh ṿng cung) theo một hướng.
Ma pháp (摩法): Dùng bề mặt của ngón trỏ, ngón giữa, ngón đeo nhẫn hoặc bề mặt ḷng bàn tay để xoa, sát vào một phần nhất định trên bề mặt cơ thể rồi xoa theo ṿng tṛn và nhịp nhàng. Đây là phương pháp nhẹ nhàng nhất, khớp khuỷu tay hơi cong, cổ tay thả lỏng, các ngón tay, ḷng bàn tay duỗi thẳng tự nhiên và nhẹ nhàng đặt lên một bộ phận nào đó trên bề mặt cơ thể, sau đó liên kết cẳng tay để thực hiện động tác xoa thành ṿng tṛn nhẹ nhàng và phối hợp.
Nhu pháp (揉法nhào, day): Dùng phần nổi phía dưới ngón tay cái (Đại ngư tế), gốc bàn tay hoặc mặt gân của các ngón tay tập trung vào một bộ phận hoặc một huyệt vị nào đó, thực hiện các động tác xoay tṛn nhẹ nhàng để tác động vào mô dưới da ở nơi đó.
Cách làm: Giữ một bàn tay trống, dùng phần nhô ra của khớp liên đốt thứ nhất của ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út và ngón út để vào một bộ phận nào đó trên bề mặt cơ thể, thả lỏng cổ tay và lắc qua lắc lại đều đặn, làm cho nắm tay cuộn lại. qua lại. Trọng điểm là phải luôn tiếp xúcvới bề mặt cơ thể và không thể tách rời hoặc cọ xát. Phạm vi lăn được kiểm soát ở khoảng 90 độ, nghĩa là nắm tay ở phía trước và phía sau khoảng 45 độ khi lăn. Áp lực phải đồng đều và xoay phải linh hoạt, khoảng 160 lần mỗi phút. Ngoài ra, Một kiểu lăn liên quan đến phần mu bàn tay gần phía ngón tay út hoặc phần nhô ra của khớp ngón út, ngón đeo nhẫn hoặc giữa ngón tay Nó được đặt vào một bộ phận nhất định, thông qua chuyển động tới lui liên tục các động tác gấp, duỗi, xoay ngoài của khớp cổ tay, lực sinh ra tác động luân phiên và liên tục lên vùng điều trị c̣n gọi là cổn pháp.
Phương pháp xoa: Đặt ḷng bàn tay sát vào da, ấn nhẹ xuống và xoa lên xuống hoặc trái phải theo một đường thẳng để tạo ra một lượng nhiệt nhất định. Khi thực hiện phương pháp cọ xát, mặt qua lại phải thẳng, không bị lệch, khi cọ xát khoảng cách qua lại phải dài, chuyển động phải liên tục, áp lực phải đồng đều, vừa phải.
Bá pháp: Chụm năm ngón tay lại và dùng ḷng bàn tay trống vỗ thẳng vào một khu vực nhất định, có thể gây sung huyết cục bộ và tăng cường lưu thông máu cục bộ.
Uyên ương lư ngạch pháp: Thày thuốc đứng phía sau bệnh nhân, dùng ngón cái của cả hai tay đặt vào vùng thái dương của bệnh nhân sau đó day vào huyệt Thái dương, lấy đầu ngón tay cái làm trục xoay tṛn vào trong và hướng lên trên, bốn ngón c̣n lại bắt chéo nhau và đồng thời giao thoa theo từng cặp và đặt sát vào chân tóc.
Phương pháp găi như khỉ: Các ngón tay của cả hai tay hơi tách ra và uốn cong tự nhiên, có h́nh dạng như móng vuốt, vùng được điều trị được găi ngược từ dưới lên trên, có h́nh dạng giống như khỉ găi ngứa.
Phương pháp chắp hai bàn tay vào nhau tạo thành kỹ thuật cổ tiao: chắp hai bàn tay vào nhau bằng ngón cái của cả hai bàn tay đan chéo, tác dụng lực lên cổ và xoa bóp cơ cổ gáy.
Phương pháp chuyển vận thái dương kép: Đặt ngón giữa hoặc ngón cái của cả hai tay lên thái dương bên trái và bên phải, xoay nhẹ nhàng và nhẹ nhàng để tạo chuyển động điểm tṛn.
Phương pháp gội đầu khô: Tách nhẹ mười ngón tay của cả hai tay, đặt chúng lên mép trên của ṿng xoắn trái và phải của vành tai, tập trung vào vùng da đầu cần điều trị, xoa và găi như thể đang gội đầu tóc.

Y học cổ truyền cần chú ư điều ǵ khi điều trị đau đầu? dùng những biện pháp cấp cứu nào để giảm đau khi điều trị đau đầu?
Đau đầu là một trong những triệu chứng thường gặp, nguyên nhân gây đau đầu rất nhiều và phức tạp, trong đó phổ biến nhất là: Các bệnh nội sọ như viêm, u bướu, bệnh mạch máu năo...; Các bệnh ngoại sọ như thoái hóa đốt sống cổ, đau thần kinh tam thoa, viêm tai giữa, viêm xoang, bệnh về mắt, v.v.; Các bệnh có tính toàn thân, như bệnh truyền nhiễm toàn thân, tăng huyết áp, trúng nắng, hạ đường huyết, thiếu máu, urê huyết, rối loạn thần kinh, rượu, ngộ độc carbon monoxide, chấn thương năo, v.v.
Khi điều trị đau đầu bằng y học cổ truyền, phải kết hợp Tây y với sự cân nhắc toàn diện, đặc biệt khi người bệnh bị đau đầu dữ dội, buồn nôn, nôn mửa th́ phải dùng thêm Tây y để bệnh không bị kéo dài. Nếu cơn đau đầu của bạn không thuyên giảm mà trở nên trầm trọng hơn sau khi điều trị lâu dài bằng y học cổ truyền th́ bạn cũng phải t́m ra nguyên nhân theo Tây y. Tóm lại, y học cổ truyền có tác dụng tốt hơn đối với chứng đau đầu mạn tính nói chung và đau đầu phi khí chất gây ra, phần c̣n lại thường phải điều trị bằng sự kết hợp giữa Đông y và Tây y, chẩn đoán rơ ràng, xác định nguyên nhân và nâng cao hiệu quả chữa bệnh.
Các biện pháp giảm đau khẩn cấp khi điều trị chứng đau đầu trong y học cổ truyền Trung Quốc bao gồm:
Châm cứu giảm đau: Thông thường, châm cứu bằng kim sẽ dùng kích thích mạnh, việc lựa chọn huyệt chủ yếu dựa vào vị trí của cơn đau, ví dụ như đối với những cơn đau ở phía sau đầu th́ dùng các huyệt như Thiên trụ, Phong phủ, Hậu khê, Thân mạch...
Đau ở thái dương dùng các huyệt: Thái dương, Phong tŕ, Ngoại quan, Trung chử...
Đau trán dùng: Đầu duy, Toán trúc, Hợp cốc, Liệt khuyết...
Đau ở đỉnh đầu dùng Bách hội, Thượng tinh, Hậu khê, Thái xung...
Đau toàn đầu dùng các huyệt Hợp cốc, Thái dương, Bách hội, Phong phủ...; Cũng có thể dùng liệu pháp kim tam lăng châm ra máu, dùng các huyệt Thái dương, Dương bạch, Trung xung...Châm xuất huyết một chút; C̣n có thể dùng liệu pháp hỏa quán (giác hơi), đối với chứng đâu đầu do ngoại cảm phong hàn có hiệu quả rất tốt; C̣n có thể dùng phép dán huyệt vị, dùng lá bạc hà tươi giă nát như bùn rồi dán vào các huyệt (dùng băng keo băng lại), mỗi ngày có thể dán 1~2 lần, tác dụng giảm đau rất tốt.

Để giảm đau bằng thuốc, bạn có thể chọn dịch tiêm bắp Diên hồ sách, viên giảm đau phục phương Diên hồ sách bằng đường uống; bạn cũng có thể uống 15 đến 20 viên Tốc hiệu cứu tâm hoàn và thử uống 8 viên trong thời gian cơn đau gián đoạn, hai lần một ngày, hoặc mỗi lần uống 10 viên có thể dùng làm biện pháp dự pḥng, phương pháp trên có tác dụng chữa đau đầu do mạch máu và thần kinh. Nếu có cơn đau đầu cấp tính do viêm xoang, có thể dùng thuốc nhỏ mũi ephedrine 1% để nhỏ vào mũi, 3 đến 4 lần một ngày.

Y học cổ truyền Trung Quốc chữa đau đầu do phong hàn, phong nhiệt như thế nào?
Khi bị đau đầu do phong hàn, đau lan đến cổ và lưng, đặc biệt nặng hơn khi tiếp xúc với gió, thường thích quấn khăn quanh đầu, sợ gió lạnh, không khát; Rêu lưỡi trắng và mạch phù.
Trị pháp: Khứ phong tán hàn, thông kinh hoạt lạc giảm đau.
Xử phương: Xuyên khung trà điều tán gia giảm. Bạch chỉ 12g, Cam thảo 6g, Khương hoạt 10g, Kinh giới 10g, Xuyên khung 15g, Tế tân 3g, Pḥng phong 12g, Bạc hà 6g.
Châm thích dùng các huyệt Thái dương, Ấn đường, Phong tŕ, Bách hội, Hợp cốc. Dùng phép b́nh bổ b́nh tả, lưu kim 20~30 phút, kèm theo ngẹt mũi chảy nước mũi gia Nghênh hương; Kèm theo sốt gia Khúc tŕ, Đại chuy; Kèm theo ho gia Liệt khuyết, Phế du (cứu).
Thôi nă (xoa bóp) trước tiên bạn có thể xoa bóp huyệt Kiên tỉnh 5 lần, xoa bóp Phong tŕ, Phong phủ, bấm Phế du, sau đó là day huyệt Thái dương, hai bên kinh Bàng quang, mức độ là làm cho nóng cục bộ. Sau cùng xoa huyệt Đại chuy cho nóng lên, sau cùng day hai bên cổ từ huyệt Phong tŕ đến huyệt Đại trữ.
Chứng đau đầu do cảm thụ phong nhiệt đau rất kịch liệt, tựa như đầu muốn vỡ ra, phát sốt, sợ gió, mặt hồng, mắt đỏ, khát nước, táo bón, nước tiểu đỏ; Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch phù sác.
Trị pháp: Khứ phong thanh nhiệt, thông kinh hoạt lạc giảm đau.
Xử phương: Khung chỉ thạch cao thang.
Xuyên khung 15g, Bạch chỉ 10g, Thạch cao 20g, Cúc hoa 15g, Cao bản 10g, Khương hoạt 10g. Nếu táo bón, lở miệng lưỡi, gia Đại hoàng 15g, Hoàng liên 12g; Nếu chất lưỡi hồng ít tân dịch, là nhiệt đă gây tổn thương chân âm, có thể gia Thạch hộc, Hoa phấn mỗi vị 18g.
Châm cứu: Dùng huyệt Thái dương (xuất huyết), Phong tŕ, Suất cốc, Liệt khuyết, châm dùng phép tả, lưu kim từ 20~30 phút.
Thôi nă (xoa bóp) day huyệt Phong tŕ, Phong phủ, Thiên trụ, lại day Khúc tŕ, Hợp cốc, day đến khi có cảm giác tức trướng., dùng tay vỗ huyệt Đại chuy, vỗ đến khi da thịt ửng hồng nhẹ, dùng tay vỗ vào hai bên kinh bàng quang, vỗ đến khi da thịt ửng hồng. Nă (véo, nhéo) mạnh hai bên Kiên tỉnh, day Thiên tông, sau cùng nă ngũ kinh, từ 5 ngón tay theo chân tóc phía trước, day đến huyệt Phong tŕ, để kết thúc bằng cách day huyệt Bách hội. Ngũ kinh (2 kinh đảm, hai kinh bàng quang và ở giữa là mạch đốc)

Các phương pháp điều trị bệnh đau đầu do phong thấp của y học cổ truyền là ǵ?
Đau đầu do phong thấp khi đầu có cảm giác như bị bó trong quần áo, đầu óc tối tăm, tức trướng và nặng, cơ thể cảm thấy nặng nề và mệt mỏi, lồng ngực phiền muộn, chán ăn, phân lỏng; Rêu lưỡi trắng nhờn, mạch nhu.
Trị pháp: Khứ phong thắng thấp, tán hàn thông lạc giảm đau.
Xử phương: Thang Khương hoạt thắng thấp.
Khương hoạt 15g, Độc hoạt 12g, Bạch truật 10g, Cúc hoa 10g, Chỉ xác 10g, Xuyên khung 18g, Bạch chỉ 10g, Pḥng phong 10g, Tiền hồ 10g, Cát cánh 10g, Bạc hà 6g, Kinh giới 10g, Sài hồ 10g, Cam thảo 6g. Chán ăn, lồng ngực phiền muộn gia Hậu phác 10g, Trần b́ 6g; Lợm giọng buồn nôn gia khương Bán hạ 10g.

Châm cứu: Các huyệt Phong tŕ, Đầu duy, Thông thiên, Hợp cốc, Tam dương, khi châm dùng phép tả. Như đau đầu phần trước trán gia huyệt Thượng tinh, Dương bạch; Đau vùng đỉnh đầu gia Bách hội, Tiền đính; Đau phía sau đầu gia Thiên trụ, Hậu đính; Đau hai bên cạnh đầu gia Suất cốc, Thái dương.

Thôi nă (Xoa bóp): Cho bệnh nhân ngồi, thày thuốc dùng cả hai tay nắm Kiên tỉnh và ấn vào Đại chuy, Phong phủ. Ở tư thế nằm ngửa, dùng phương pháp uyên ương xoa vùng trán, bấm huyệt Đầu duy, nă (véo, nhéo) Túc tam âm lên, cuối cùng điểm vào Âm lăng tuyền, Tam âm giao và Phong long.

Các phương pháp điều trị chứng đau đầu thử thấp và thử nhiệt của y học cổ truyền là ǵ? (Thử là nắng)
Hội chứng nhức đầu mùa hè ẩm ướt có đặc điểm là cơ thể nóng, ớn lạnh, đổ mồ hôi kém, khát nước, tức ngực, buồn nôn và chán ăn, ăn không ngon, lưỡi đỏ rêu vàng nhờn, mạch sũng nước.
Trị pháp: Thanh thử hóa thấp.
Xử phương: Hoàng liên Hương nhu ẩm gia giảm
Hoàng liên 15g, Hương nhu 12g, Hậu phác 10g, Hoắc hương 15g, Bội lan 12g, Trúc nhự 15g, Hà diệp 30g, Hoạt thạch 20g, Xuyên khung 15g, Bạch chỉ 9g, Cúc hoa 15g.
Đau đầu do nắng nóng mùa hè có các biểu hiện chủ yếu như nóng đầu, trướng đầu, đau nhức, nếu ở gần lửa nóng sẽ khiến triệu chứng đau đầu tăng nặng hơn, miệng khô khát, ra mồ hôi nhiều như mưa; Chất lưỡi đỏ nhạt, mạch phù sác. Bệnh thường gặp vào mùa hạ.
Trị pháp: Thanh thử khứ nhiệt.
Bài thuốc: Thuốc sắc thạch cao lá tre.
Đạm trúc diệp 10g, Thạch cao 24g, Mộc thông 6g, Khổ Cát cánh 6g, Cam thảo 5g, Bạc hà 3g.

Chẩn đoán và điều trị chứng đau đầu do hỏa nhiệt như thê nào?
Chứng đau đầu do hỏa nhiệt có các biểu hiện như đau đầu dữ dội như thể đầu sắp vỡ ra, các triệu chứng sẽ trầm trọng hơn khi tiếp xúc với nhiệt, kèm theo các chứng trạng như đắng miệng , khô họng, mắt đỏ, mặt đỏ bừng, phân khô, nước tiểu ít và có màu đỏ, màu như nước trà, hoặc phiền muộn, hôi miệng; Chất lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng, mạch hồng đại.
Trị pháp: Thanh nhiệt tả hỏa.
Xử phương: Lương cách tán.
Đại hoàng 10g, Phác tiêu 10g, Sơn chi 10g, Liên kiều 10g, Bạc hà 5g, Hoàng cầm 10g, Cam thảo 5g, Đạm trúc diệp 12g.

Làm thế nào để biện chứng đau đầu do các kinh Dương Minh, Thiếu Dương, Thái Dương, Quyết Âm?
Đau đầu do kinh Dương Minh là đau ở vùng trán nối xương lông mày, đau đầu như búa bổ, mắt đỏ, nóng bừng, đổ mồ hôi (tự hăn), rêu lưỡi vàng khô, mạch đại hữu lực. Thường gặp ở hội chứng hỏa nhiệt bốc lên,
Trị pháp: Thanh nhiệt kinh dương minh.
Xử phương: Thang Bạch hổ gia giảm.
Cát căn 15g, Thăng ma 5g, Bạch chỉ 9g, Thạch cao sống 30g, Tri mẫu 10g, Cánh mễ sao 15g, Cam thảo 5g.
Đau đầu do kinh Thiếu Dương với các vị trí đau ở hai bên đầu nối liền với gốc tai và chân tóc, hoặc đau nửa đầu, kèm theo lúc lạnh lúc nóng, lạnh nóng luân phiên (hàn nhiệt văng lai), đau tức ở ngực và hai bên sườn, miệng đắng, chóng mặt, mạch huyền tế; Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng. Trên lâm sàng thường hay gặp bệnh nhân bị hỏa nhiệt của gan mật bốc lên hoặc hội chứng phong nhiệt.
Trị pháp: Ḥa giải biểu lư.
Xử phương: Thang Tiểu sài hồ gia giảm.
Sài hồ 10g, Hoàng cầm 6g, Đảng sâm 10g, khương Bán hạ 10g, Cam thảo nướng 5g, Mạn kinh tử 10g, Cao bản 10g.
Đau đầu do bệnh ở kinh Thái dương thường đau vùng sau đầu lan xuống cổ và lưng, kèm theo sốt, sợ gió lạnh, mạch phù. Thường gặp trong các hội chứng ngoại cảm phong hàn và phong nhiệt.
Trị pháp: Sơ phong giải biểu.
Xử phương: Thang Khương hoạt pḥng phong.
Khương hoạt 6g, Pḥng phong 6g, Mạn kinh tử 10g, Cao bản 10g, Xuyên khung 5g, Cam thảo 3g.
Đau đầu do bệnh ở kinh Quyết Âm vị trí đau chủ yếu ở đỉnh đầu, kéo sang 2 góc đầu, cảm thấy có luồng khí dâng lên hoặc muốn nôn nhưng không thể, hoặc nôn ra bọt dăi.
Trị pháp: Ôn tán hàn lănh ở quyết âm.
Xử phương: Thang Ngô thù du gia giảm.
Ngô thù du 6g, Sinh khương 10g, khương Bán hạ 10g, Cao bản 10g, Đảng sâm 15g, Cam thảo nướng 3g.

Đau đầu do động kinh là ǵ và cách điều trị như thế nào?
Đau đầu quyết nghịch có triệu chứng kèm theo như đau răng, nhức đầu lạnh, ớn lạnh, sắc mặt nhợt nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, chất lưỡi nhạt, mạch huyền.
Trị pháp: Ôn tán hàn tà.
Xử phương: Thang Khương hoạt Phụ tử.
Khương hoạt 10g, Thục phụ tử 10g, Phục linh 9g, Nhân sâm 3g, Bạch truật 10g, Thược dược 9g, Nhục quế 9g, Cam thảo nướng 6g.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu do can dương, can uất, can hỏa, can phong, can hàn như thế nào?
Chứng đau đầu do can dương thường kèm theo chóng mặt, khó chịu hay cáu giận, mất ngủ, hoặc đau cạnh sườn, mặt đỏ, miệng đắng, đặc trưng là đau đầu, đầu trướng, lúc nặng lúc nhẹ, hoặc đau nửa đầu; Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi màu vàng mỏng, mạch huyền có lực.
Trị pháp: Thanh nhiệt b́nh can, Tiềm dương trị đau, thông kinh hoạt lạc.
Xử phương: Thiên ma câu đằng ẩm gia giảm.
Thiên ma 10g, Câu đằng 12g, Thạch quyết minh 12g, Cúc hoa 12g, Hoàng cầm 10g, Chi tử 10g, Ngưu tất 10g. Đau đầu nhiều , gia Long đảm thảo 10g, Hạ khô thảo 10g. Đau đầu kèm chóng mặt ẩu thổ, gia Đại giả thạch 20g, Long cốt sống 20g, Mẫu lệ sống 20g; Nếu can thận âm hư, khứ Sơn chi, gia Địa hoàng, Kỷ tử, Bạch thược mỗi vị 10g; Eo lưng ê ẩm đùi mỏi yếu, gia Đỗ trọng 10g, Tang kư sinh 10g.

Châm cứu: Chọn các huyệt Huyền lô, Hạp yêm (hàm yên), Thái xung, Thái khê, dùng tả pháp và lưu kim trong ṿng 20 đến 30 phút. Những người có mắt đỏ gia thêm huyệt Thái dương (xuất huyết) , những bn chóng mặt sẽ gia thêm huyệt Suất cốc.
Massage: Đầu tiên xoa Phong tŕ và Kiên tỉnh, đẩy Kiều cung, đẩy từ trên xuống dưới, mỗi bên hơn trăm lần, luân phiên hai bên. Sau đó dùng phương pháp quét để tác động lên kinh đảm ở một bên đầu từ trước ra sau, từ trên xuống dưới, xen kẽ hai bên, mỗi bên hàng chục lần, phối hợp xoa bóp huyệt Giác tôn, xoa bóp các huyệt Thái Xung và Hành gian cả hai bên, phải day cho đến khi huyệt vị có cảm giác đau và sưng lên mới đạt. Lại day huyệt Dũng tuyền hai bên, day đến khi vị trí huyệt nóng lên mới ngừng.C uối cùng, xoa bóp các huyệt Tam âm giao ở cả hai bên, đồng thời xoa bóp các huyệt Can du, Đảm du và Tâm du ở hai bên.
Chứng can uất gây đau đầu, thường kèm theo trướng đầy ở hai bên sườn, hay thở dài, biểu hiện im lặng, buồn nôn chán ăn; Rêu lưỡi trắng, mạch huyền.
Trị pháp: Sơ can giải uất.
Xử phương: Tiêu dao tán gia giảm.
Sài hồ 15g, Đương quy 10g, Bạch thược 10g, Bạch truật 10g, Phục linh 15g, Cam thảo 6g, Bạc hà 6g, Đan b́ 10g, Chi tử 10g.
Đau đầu do hỏa ở gan (can hỏa) thường kèm theo chóng mặt, trướng đầu, đau hai bên hoặc đỉnh đầu, mặt và mắt đỏ, cáu gắt khó chịu, miệng khô đắng, táo bón, nước tiểu đỏ; Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch huyền sác.
Trị pháp: Thanh can tả hỏa.
Xử phương: Thang Long đảm tả can.
Long đảm thảo 6g, Sin tườngh địa 15g, Đương quy 10g, Hoàng cầm 10g, Tiêu sơn chi 10g, Mộc thông 6g, Sài hồ 6g, Xa tiền tử 10g, Cam thảo 6g.
Chứng đau đầu do can phong gây chóng mặt kịch liệt, cơn đau thường có cảm giác như co kéo, khó mở mắt, đau không có vị trí cố định; Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền hoạt hoặc sác.
Trị pháp: B́nh can tức phong.
Xử phương: Thang Linh giác câu đằng gia giảm.
Sinh địa 15g, Bạch thược sống 15g, Đông tang diệp 10g, Hàng Cúc hoa 10g, Câu đằng 6g, bột Linh dương giác 0.5g. Phương trên thích hợp với can phong nội động.
Nếu là do thận âm hư th́ dùng trị pháp Tư âm tức phong, Phương dược: Đại định phong châu gia giảm: Bạch thược 15g, Sinh địa hoàng 15g, Mẫu lệ sống 24g, Quy bản 10g, Miết giáp 15g, Hỏa ma nhân 15g, Mạch đông 12g, Ngũ vị 3g, Cam thảo nướng 5g, uống riêng 2 cái ḷng đỏ trứng gà.
Đau đầu do gan bị lạnh thường đau ở đỉnh đầu, khi đau có cảm giác lạnh ở đầu, chân tay lạnh, nôn mửa và chảy nước dăi, rêu lưỡi trắng trơn, mạch trầm khẩn.
Trị pháp: Ôn can giáng nghịch.
Xử phương: Thang Ngô thù du gia giảm.
Ngô thù du 15g, Nhân sâm 3g, Sinh khương 6g, Đại táo 6 quả, Đương quy 10g, Nhục quế 6g.

Đông y điều trị chứng đau đầu do đàm trọc và đàm hỏa như thế nào?
Triệu chứng đau đầu do đờm trọc bao gồm các chứng trạng như thỉnh thoảng đau đầu, đầu óc nặng nề hôn ám, tức ngực và vị quản, nôn ra đờm và nước bọt, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch hoạt.
Trị pháp: Kiện tỳ hóa đàm, khứ phong b́nh can, thông lạc giảm đau.
Xử phương: Thang Bán hạ bạch truật thiên ma gia giảm.
Bán hạ 15g, Trần b́ 18g, Thiên ma 9g, Bạch truật 20g, Phục linh 30g, Hậu phác 12g, Tô tử 12g, Sa nhân 12g, Sinh khương 15g, Mạn kinh tử 12g. Nếu đàm uất hóa nhiệt như miệng đắng, táo bón, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác th́ dùng phương trên khứ Bạch truật và Sinh khương, gia thêm Trúc nhự 15g, Chỉ thực 10g, Hoàng cầm 15g, Đại hoàng 12g.
Châm cứu: Dùng các huyệt: Bách Hội, Ấn đường, Đầu duy, Phong long, Hợp cốc, Châm dùng phép tả, ẩu thổ gia Nội quan, Trung quản; Phân lỏng nát gia Thiên xu, lưu kim 20~30 phút, mỗi ngày 1 lần.

Thôi nă (Massage): Đầu tiên dùng một ngón tay massage (Nhất chỉ thiền)lên các huyệt Trung quản, Thiên xu ở bụng trong 10 phút, sau đó xoa bóp Tỳ du, Vị du, Đại tràng du, tiếp tục xoa theo chiều ngang ở phía bên trái của lưng cho đến khi cảm nhận được hơi nóng th́ ngưng lại. Xoa bóp hai bên các huyệt Túc tam lư, Phong long, Nội quan, xoa huyệt Dũng tuyền (hai bên), và cuối cùng xoa bụng theo chiều kim đồng hồ trong 10 phút, và và bấm huyệt Kiên tỉnh hơn 10 lần.
Đau đầu do đàm hỏa thường kèm theo ù tai, khạc nhổ nhiều, mặt và mắt đỏ bừng, khát nước và táo bón, bực bội dễ cáu giận, tức ngực, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch hồng hoạt sác.
Trị pháp: Hóa đàm thanh hỏa.
Xử phương: Mông thạch cổn đàm hoàn gia giảm.
Thanh mông thạch 30g, Trầm hương 10g, Đại hoàng 6g, Hoàng cầm 15g, Phác tiêu 10g, Bán hạ 15g, Trần b́ 10g, Sinh khương 6g, Cam thảo 6g.

Chứng đau đầu do thực phẩm bị đ́nh trệ là ǵ, y học cổ truyền điều trị như thế nào?
Đau đầu do ứ trệ thực phẩm thường kèm theo ngực và cơ hoành bĩ tắc, ợ hơi ợ chua, đau nhiều hơn khi no bụng, hoặc táo bón đau bụng, rêu lưỡi nhờn, mạch hoạt.
Trị pháp: Tiêu thực trừ trệ.
Xử phương: Bảo ḥa hoàn gia giảm.
Trần b́ 15g, Bán hạ 12g, Lai bặc tử 18g, Sơn tra 15g, Phục linh 18g, Binh lang 10g, Chỉ thực 12g, Sa nhân 15g, Mạn kinh tử 10g.

Làm thế nào để chẩn đoán và điều trị đau đầu do nóng dạ dày (Vị nhiệt đầu thống)?
Đau đầu do dạ dày nóng, đặc điểm là đau đầu kịch liệt, nhất là vùng trán, đầu nóng mặt đỏ bừng, khát nước, nóng toàn thân và đổ mồ hôi, hoặc táo bón, đầy bụng và đau, rêu lưỡi vàng khô, mạch hồng đại hoặc trầm thực có lực.
Trị pháp: Thanh tiết vị nhiệt.
Công thức: Thang Bạch Hổ gia giảm.
Thạch cao 30g, Tri mẫu 10g, Cam thảo 5g, Cánh mễ 30g, Trạch tả 10g, Sinh địa 10g, Mạch đông 10g.
Nếu dạ dày và ruột khô táo, có thể dùng thang Đại thừa khí, gồm Mang tiêu 20g, Chỉ thực 10g, Đại hoàng 6g, Hậu phác 10g, gia thêm Bạch chỉ 10g.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu do thấp nhiệt như thế nào?
Chứng đau đầu do thấp nhiệt khi phát tác có cảm giác như đầu ḿnh bị bao lại, có khi mắt bị vàng, xương khớp tay chân đau ê ẩm, nước tiểu màu đỏ lượng ít; Rêu lưỡi vàng nhớt, mạch huyền và nhịp đập hơi nhanh.
Trị pháp: Phương hương hóa trọc, thanh lợi thấp nhiệt.
Xử phương: Tam nhân thang.
Quang Hạnh nhân 12g, phi Hoạt thạch 20g, Bạch thông thảo 6g, Đạm trúc diệp 6g, Xuyên hậu phác 6g, Rĩ nhân sống 24g, pháp Bán hạ 10g, Bạch khấu nhân 5g.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu do ứ huyết như thế nào?
Người bị đau đầu do ứ huyết thường có tiền sử chấn thương đầu, đau đầu dai dẳng, điểm đau cố định; Chất lưỡi tím, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế hoặc tế sáp.
Trị pháp: Hoạt huyết hóa ứ.
Xử phương: Thang Thông khiếu hoạt huyết gia giảm. Đào nhân 12g, Hồng hoa 15g, Xuyên khung 18g, Bạch chỉ 10g, Địa long 15g, Nguyên hồ 12g, Uất kim 12g, Thạch xương bồ 10g, Hương phụ 15g. Nếu đau đầu nghiêm trọng, gia Toàn trùng 10g, Ngô công 3 con, Xạ hương 0.1g (ḥa nước nguội uống riêng); Nếu đau đầu đă giảm, nhưng c̣n vựng đầu chóng mặt, hay quên, mất ngủ hay mơ, gia Thủ ô 20g, Nữ trinh tử 15g, Kỷ tử 18g, Táo nhân sao 20g.

Châm cứu: Dùng huyệt A thị, Thái dương, Hợp cốc, Liệt khuyết, Huyết hải, Tam âm giao. Đau lông mày th́ thêm Toán trúcvà Ấn đường; Đau nửa đầu th́ thêm Đầu duy và huyệt Suất cốc; Đau phía sau đầu th́ thêm Phong tŕ và Hậu khê. Sử dụng phương pháp châm tả, lưu kim trong 20 đến 30 phút, mỗi ngày một lần.
Xoa bóp: Khi bệnh nhân ngồi, dùng phương pháp nhất chỉ thiền (day bằng một ngón tay) để di chuyển lên xuống dọc theo kinh bàng quang ở hai bên cổ trong 3 đến 4 phút, sau đó ấn vào các huyệt Phong tŕ, Phong phủ, Thiên trụ. Kế tiếp day Phong tŕ hai bên và xoa dọc theo kinh bàng quang ở hai bên cổ 4 đến 5 lần từ trên xuống dưới. Sau đó, sử dụng phương pháp nhất chỉ thiền (bằng một ngón tay) để bắt đầu từ Ấn đường, đi lên dọc theo trán và chân tóc đến huyệt Đầu duy, Thái Dương, qua lại 3 đến 4 lần và phối hợp ấn vào các huyệt Ấn đường, Thái dương, Bách hội. Sau đó dùng phương pháp nhào nặn tác động lên trán, tập trung vào Ấn đường và huyệt Thái dương hai bên. Sau đó dùng phương pháp xoa từ Ấn đường hướng lên dọc theo chân tóc đến huyệt Thái dương, xoa lên xuống 3 đến 4 lần. Cuối cùng dùng cách 5 ngón giữ từ cổ đến Phong Tŕ, chuyển sang cách 3 ngón, men theo kinh bàng quang ra 2 bên Đại chuy, lặp lại 4 đến 5 lần. Nhào, ấn rồi xoa lên huyệt Thái dương, Toán trúc và trán, hai bên đầu là nơi tuần hành của kinh đảm, kinh đảm lưu thông trên trán và hai bên đầu, xoa trán, hai bên đầu và thái dương, xoa đến khi nóng lên là đạt.

Chứng đau đầu do khí hư, huyết hư và khí huyết lưỡng hư là ǵ và chúng được chẩn đoán và điều trị theo y học cổ truyền như thế nào?
Người bệnh đau đầu do khí hư có những cơn đau đầu liên tục lặp đi lặp lại, gắng sức quá mức sẽ khiến cơn đau đầu trở nên trầm trọng hơn, mệt mỏi yếu sức, tinh thần uể oải khó thở, kém ăn; Chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch tế vô lực.
Trị pháp: Ích khí thăng dương.
Xử phương: Thang Hoàng kỳ ích khí gia giảm.
Hoàng kỳ 15g, Bạch truật 10g, Nhân sâm 3g, Bán hạ 10g, Trần b́ 6g, Đương quy 10g, Xuyên khung 10g, Cao bản 10g, Cam thảo 6g, Thăng ma 6g.
Đau đầu do thiếu máu, có đặc điểm như đau âm ỉ, lúc đau lúc không, chóng mặt, hoảng hốt, mệt mỏi yếu sức, mặt trắng bệch, môi nhạt; Chất lưỡi nhạt, ít rêu, mạch tế nhược.
Trị pháp: Dưỡng huyết sung doanh, kiện năo vinh lạc.
Xử phương: Thang Tứ vật gia vị: Địa hoàng 20g, Đương quy, Bạch thược, Xuyên khung, Thủ ô mỗi vị 10g, Kỷ tử 12g. Huyết hư nghiêm trọng gia A giao 30g; Kiêm khí hư gia Hoàng kỳ, Đảng sâm mỗi vị 15g; Kèm theo can thận âm hư, gia Quy bản 20g, Thục địa 12g

Châm cứu: Chọn các huyệt Bách hợp, Đầu duy, Túc tam lư, Tam âm giao, gia cứu Túc tam lư, Tam âm giao, Khí hải, dùng phép bổ, lưu kim 20 phút, cách ngày 1 lần. Nếu kèm theo mất ngủ gia Thần môn, Nội quan. Sau khi chứng đau đầu hoăn giải, cân nhắc cứu các huyệt Can du, Tỳ du, Thận du, Khí hải...

Xoa bóp: Bệnh nhân ngồi, thày thuốc dùng ngón cái của cả hai tay ấn vào tâm du, Cách du và Tỳ du, sau đó dùng phương pháp găi tôn hầu, day huyệt Khí hải.
Bệnh nhân bị đau đầu do khí huyết lưỡng hư có thể bị đau đầu âm ỉ, chóng mặt, mặt không tươi, môi và móng tay nhợt nhạt, hồi hộp và mất ngủ, tự xuất mồ hôi, mệt mỏi uể oải, trướng bụng; Chất lưỡi nhợt nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, và mạch tế nhược.
Trị pháp: Song bổ khí huyết, hoạt lạc giảm đau.
Xử phương: Thang Bát trân gia giảm.
Đảng sâm, Sinh Thục địa, Cát căn mỗi vị 16g, Phục linh, Bạch truật, Đương quy, Bạch thược mỗi vị 10g, Chích cam thảo 5g, Xuyên khung 5g, gừng tươi 3 lát, táo 5 quả. Nếu uống thuốc bị đầy bụng có thể gia Sa nhân 4g.
Châm cứu: Chọn các huyệt Bách hội, Tâm du, Cách du, Tỳ du, Liệt khuyết, Hợp cốc, Trung quản, Thiên xu, Khí hải, Túc tam lư, Tam âm giao. Sử dụng cả châm và cứu, dùng phép bổ, cách ngày 1 lần.
Xoa bóp: Người bệnh ngồi, đầu tiên dùng phương nă pháp (cầm), phương pháp ấn Thiền bằng một ngón tay (Nhất chỉ thiền) và phương pháp nhào nặn trong 2 phút cho mỗi huyệt Phong Tŕ, Thiên Trụ; Sau đó dọc theo các kinh Túc Thái Dương và Túc Thiếu Dương từ trên xuống dưới. đến cả hai bên của huyệt Đại chuy. Lặp lại thao tác 3 đến 5 lần. Sau đó dùng nhất chỉ thiền xoa bóp các huyệt Bách hội, Hợp cốc, Đầu lâm khấp, Đầu duy, Thái dương mỗi huyệt 2 phút, xoa từ huyệt Toán trúc dọc theo lông mày đến huyệt Thái dương 5 đến 6 lần, đồng thời xoa bóp Cách du, Tỳ du, Thận du, Trung quản, Khí hải, Túc tam lư mỗi huyệt từ 1 đến 2 phút, cuối cùng day huyệt Hợp cốc trong 2 phút.

Làm thế nào để điều trị chứng đau đầu do thận âm, thận dương hư?
Người thận âm hư đau đầu thường có cảm giác nhức đầu và cảm giác đầu óc trống rỗng, choáng váng ù tai, thắt lưng và đầu gối đau nhức, ngũ tâm phiền nóng (ngũ tâm gồm ḷng bàn tay bàn chân và ngực), di tinh đái hạ; Chất lưỡi đỏ ít rêu lưỡi, mạch huyền tế vô lực.
Trị pháp: Bồi bổ thận âm, thông lạc giảm đau.
Xử phương: Đại bổ nguyên tiễn gia giảm.
Thục địa 18g, Sơn dược 25g, Sơn thù 15g, Kỷ tử 18g, Đỗ trọng 25g, Xuyên đoạn 25g, Ngưu tất 20g, Nữ trinh 15g, Thủ ô 18g.
Châm cứu: Bách hội, Phong tŕ, Tam âm giao, Thái khê, Hiệp khê, Hành gian. Dùng phép bổ, cách ngày 1 lần, lưu kim 30 phút.
Thôi nă (Massage): Đầu tiên, massage bụng tập trung vào huyệt Khí hải và huyệt Quan nguyên từ 6 đến 8 phút. Massage Thận du, Đại tràng du, Chí thất ở hai bên bằng ngón tay. Chà gốc bàn tay vào mạch Đốc ở lưng, đặc biệt là phần dưới, sau đó xoa thắt lưng và thận du, mệnh môn đến eo và xương cùng, xoa đến khi nóng các điểm vừa nêu mới ngừng, dùng tay day lắc huyệt Quan nguyên, Bách hội, sau cùng day Kiên tỉnh, xoa huyệt Phong tŕ, Thái dương, xoa sát Dũng tuyền, xoa Tam âm giao.
Đau đầu do thận dương hư, đau đầu có cảm giác lạnh, đau nhẹ, khi chườm nóng th́ giảm đau, khi gắng sức th́ đau tăng lên, sắc mặt nhợt nhạt, eo và đầu gối đau mỏi, tay chân lạnh, phân lỏng; Chất lưỡi nhạt, mạch tế nhược.
Trị pháp: Ôn bổ thận dương.
Đơn thuốc: Hữu quy hoàn gia giảm.
Thục địa 18g, Sơn dược 20g, Sơn thù 18g, Kỷ tử 15g, Đỗ trọng 25g, Thố ti tử 18g, Tục đoạn 20g, Cẩu tích 20g, Ngưu tất 18g, Dâm dương hoắc 10g, Nhục quế 6g. Nếu thận hư đă lâu, tỳ khí cũng hư, kèm theo thở ngắn âm thanh thấp nhỏ, ăn ít, phân lỏng nát, gia Hoàng kỳ 30g, Đảng sâm 25g, Bạch truật 20g.
Châm cứu: Bách Hội, Thái Dương, Hợp Cốc, Mệnh Môn, Chí Thất, Thái khê. Sử dụng đồng thời châm và cứu, dùng phép bổ, mỗi ngày một lần và lưu kim trong 30 phút.
Xoa bóp (Thôi nă): Người bệnh nằm ngửa hoặc tư thế ngồi, thày thuốc ở tư thế thích hợp, luân phiên dùng hai ngón tay cái đẩy Ấn đương qua tiền đ́nh và Ấn đường về Bách Hội. Từ Ấn đường về Ngư yêu và từ Thái dương đến phía trước tai, dùng ngón tay cái đẩy 3 lần. Tự Ấn đường đến Đầu duy, từ trước tai đến sau tai phân ra đẩy 3 lần, sau đó bấm các huyệt Ấn đường, Thái dương, Đầu duy, Bách hội mỗi huyệt 1 phút.Sau đó dùng ngón tay cái hoặc nhiều ngón tay xoa, nhéo sau gáy và vai nhiều lần, bấm Phong tŕ, Kiên tỉnh, Hợp cốc mỗi huyệt 1 phút, lại xoa bụng từ 6~8 phút và trọng điểm là hai huyệt Khí hải và Quan nguyên, xoa trực tiếp lên mạch đốc ở lưng, xoa ngang sang thận du ở eo bệnh nhân, xoa huyệt mệnh môn đến xương cùng, xoa đến khi cục bộ huyệt ấm lên là đạt yêu cầu.

Đau đầu do phong, đau đầu do rượu là ǵ và cách điều trị bằng y học cổ truyền như thế nào?
Đau đầu do phong gọi là thương phong đầu thống, thường có cơn đau đầu kịch phát, sợ gió và không ra mồ hôi, nghẹt mũi nhiều, mí mắt giật giật, rêu lưỡi mỏng màu vàng, mạch phù khẩn.
Trị pháp: Khứ phong giải trừ biểu chứng.
Xử phương: Khung chỉ hương tô tán.
Xuyên khung 10g, Bạch chỉ 10g, Tô diệp 20g, Trần b́ 20g, Cam thảo 10g.
Người bị đau đầu do rượu (Thương tửu đầu thống) có biểu hiện nhức đầu, chóng mặt, hai mắt thất thần, kèm theo các triệu chứng say rượu, buồn nôn và nôn, tức ngực và cơ hoành bĩ đầy, khát nước và đầu óc ngu muội, tay chân run rẩy, tiểu khó, phân lỏng nát, bồn chồn hoặc ngủ mê; Rêu lưỡi vàng, mạch sác.
Trị pháp: Ḥa vị tỉnh tửu, giải độc.
Xử phương: Thang giải tửu.
Cát hoa 10g, Đậu khấu 15g, Sa nhân 15g, Bạch truật 10g, Thanh b́ 9g, Trạch tả 6g, Thần khúc 6g, Can khương 6g, Đảng sâm 5g, Trư linh 5g, Phục linh 5g, Trần b́ 5g, Mộc hương 3g.

Chứng đau nửa đầu là ǵ và y học cổ truyền chẩn đoán và điều trị như thế nào?
Chứng đau nửa đầu hay c̣n gọi là chứng thiên đầu thống, có đặc điểm phát bệnh rất nhanh (bạo phát), đau rất kịch liệt, đau một bên đầu (bên phải hoặc bên trái), thậm chí liên quan đến mắt hoặc răng, khi cơn đau ngừng lại th́ như người b́nh thường và phần lớn có liên quan với phong hỏa của kinh can.
Trị pháp: B́nh can tức phong thanh nhiệt.
Xử phương: Cúc hoa 6g, Thiên ma 15g, Sơn dược 10g, Bạch chỉ 10g, Thạch cao sống 20g, Cao bản 10g, Mạn kinh tử 10g, Câu đằng 10g, Toàn yết 2g, Địa long 3g. Nếu hỏa của gan nhiều, có thể gia Long đảm thảo 15g, Chi tử 10g, Hoàng cầm 10g, Đan b́ 10g; Nếu nhiều đàm có thể gia Trần b́ 10g, Bán hạ 9g, Đảm nam tinh 10g; Nếu đau đă lâu bệnh đă xâm nhập lạc mạch, có thể dùng thêm các vị thuốc hóa ứ thông lạc, như Đào nhân 20g, Hồng hoa 6g, Xích thược 10g.

Lôi đầu phong là ǵ và y học cổ truyền chẩn đoán và điều trị như thế nào?
Lôi đầu phong là người bệnh cảm thấy đau đầu và như có sấm sét trong đầu, đầu và mặt nổi hạch, đỏ sưng tấy, khó mở mắt, phần lớn là do đàm ẩm và hỏa bốc lên gây ra.
Trị pháp: Trừ thấp hóa đàm.
Xử phương: Thanh chấn thang gia vị.
Thăng ma 10g, Thương truật 10g, Hà diệp 10g, Trần b́ 6g, Bán hạ 9g, Đảm nam tinh 10g, Phục linh 10g, Xuyên khung 10g.

Chân đầu thống (đau đầu thực sự) là ǵ? Chẩn đoán và điều trị bằng y học cổ truyền như thế nào?
Đau đầu thực sự (chân đầu thống) là cơn đau đầu liên quan đến năo và tủy sống, đau đến mức không thể chịu nổi, tay chân sợ lạnh, tay lạnh qúa khuỷu tay, chân lạnh quá đầu gối, trường hợp nặng bệnh nhân không thể nhấc đầu lên được; Chất lưỡi nhợt nhạt, mạch vi dục tuyệt (nhỏ như muốn hết mạch).
Trị pháp: Bổ thận, nạp dương.
Xử phương: Hắc tích đan gia giảm.
Trầm hương, Phụ tử sao, Hồ lô ba, Dương khởi thạch, Hồi hương, Bổ cốt chỉ, Nhục đậu khấu, Xuyên luyện tử, Mộc hương, Nhục quế mỗi vị 30g, một ít Hắc tích đan, một ít Lưu hoàng, hoàn bằng hồ và rượu, người lớn mỗi lần uống 5g.

V́ sao nên dùng “Dẫn kinh dược” (引经药) thuốc dẫn kinh khi điều trị đau đầu?
Trong điều trị lâm sàng chứng đau đầu, việc lựa chọn các loại thuốc dẫn kinh khác nhau sẽ hữu ích để phát huy tác dụng hỗ trợ đơn thuốc ban đầu. Theo vị trí đau đầu, hăy tham khảo đường đi của kinh mạch, ví dụ như đau đầu ở Thái Dương, nếu đau ở phía sau đầu và cổ, hăy chọn Khương hoạt, Màn kinh tử và Xuyên khung; đối với đau đầu Dương Minh, nếu đau ở trán, chọn Cát căn, Bạch chỉ, Tri mẫu; Đối với đau đầu Thiếu Dương, đau ở cổ, bạn có thể sử dụng Sài hồ, Hoàng cầm, Xuyên khung; Nếu đau đầu do Quyết âm và đau trên đỉnh đầu, bạn có thể sử dụng Ngô thù du, Cao bản v.v.

Làm thế nào để điều trị đau đầu do thần kinh huyết quản bằng y học cổ truyền?
Đau đầu do bệnh thần kinh mạch máu là cơn đau đầu tái phát do rối loạn điều ḥa thần kinh mạch máu ở đầu. Đặc điểm lâm sàng là đau đầu dữ dội kịch phát một bên, kèm theo mờ mắt, buồn nôn và nôn. Chẩn đoán và điều trị được chia thành hai loại: Đau nửa đầu và không đau nửa đầu.
Chứng đau nửa đầu điển h́nh phổ biến hơn ở phụ nữ và khoảng 60% đến 80% bệnh nhân có tiền sử di truyền, khởi phát thường xuyên hơn ở tuổi thiếu niên.
Theo cách phân biệt hội chứng của y học cổ truyền, đau đầu do tà khí xâm nhập vào năo là cơn đau dữ dội ở một bên đầu, bên trái hoặc bên phải, có biểu hiện đau giật hoặc đau nhói, kinh niên không khỏi và thường xuyên bùng phát, do gió, bị lạnh hoặc tâm trạng không tốt mà dụ phát bệnh; Rêu lưỡi trắng mỏng, mạch huyền hoặc khẩn.
Trị pháp: Sơ phong hoạt huyết giảm đau.
Xử phương: Xuyên khung trà điều tán. Xuyên khung 30g, Tế tân 3g, Bạch chỉ 12g, Pḥng phong 12g, Kinh giới 12g, Khương hoạt 10g, Bạc hà 5g, Toàn yết 6g, Cương tàm 6g.
Loại h́nh lạc mạch trong năo bị nghẹt tắc đau phần nhiều ở một bên, lúc đau lúc không, có điểm đau hoặc đau như kim châm hoặc đau kịch liệt như bị rách, hoặc lộ gân xanh, loại h́nh này hay gặp ở phụ nữ khỏe mạnh, kinh nguyệt lượng ít và sáp trệ, kèm theo kinh nguyệt có huyết khối, hoặc khi hành kinh chứng đau đầu tăng nặng; Chất lưỡi tím tối, hoặc có ứ ban, ứ điểm, mạch huyền hoặc tế sáp.
Trị pháp: Hoạt huyết hóa ứ
Xử phương: Huyết phủ trục ứ thang gia giảm.
Xuyên khung 30g, Đào nhân 15g, Hồng hoa 15g, Xích thược 15g, Sài hồ 10g, Ngưu tất 15g, Sinh địa 15g, Cát cánh 3g, Đương quy 20g, Chỉ xác 6g, Cam thảo 3g.

Đau đầu loại h́nh can kinh phong hỏa thường đau trướng một bên, đặc biệt là vùng trán, các cơ và cân mạch ở thái dương nổi lớn và đau giật theo mạch đập, nhức nhối, thậm chí có cảm giác toàn bộ đầu đau trướng tức như muốn vỡ ra, hoặc do hỏa tả bốc lên th́ cơn đau đầu thường do nguyên nhân tinh thần căng thẳng mà dụ phát, bệnh nhân mặt hồng mắt đỏ, chói mắt nh́n không rơ, bực bội khó chịu, lơm giọng ẩu thổ, miệng khô đắng; Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác.
Trị pháp: Thanh can tức phong.
Xử phương: Đảm Cúc ẩm. Long đảm thảo 15g, Cúc hoa 12g, Thiên ma 12g, Xuyên khung 20g, Bạch chỉ 12g, Hạ khô thảo 30g, Câu đằng 30g, Địa long 12g, Toàn yết 10g, Chi tử 12g, Đan b́ 12g, Trân châu mẫu 30g.
Loại h́nh đau đầu do can dương thượng kháng (bốc lên), đau trướng nửa đầu và chóng mặt, hoặc cả đầu đau âm ỉ, khi cáu giận th́ đau đầu tăng nặng, người bệnh bực bội vội vă, mất ngủ hay mơ, mặt nóng bừng, ù tai điếc tai; Chất lưỡi hồng, ít rêu lưỡi, mạch huyền tế mà sác.
Trị pháp: B́nh can tiềm dương.
Xử phương: Thiên ma câu đằng ẩm gia giảm. Thiên ma 12g, Câu đằng 30g, Thạch quyết minh 30g, Sinh, Thục địa mỗi vị 15g, Phục thần 12g, Dạ giao đằng 20g.
Loại h́nh đau đầu do đàm trọc (che lấp) là đau nửa đầu, đầu óc tối tăm, buồn nôn và nôn, ngực và dạ dày đầy trướng phiền muộn, chán ăn, ăn ít; Rêu lưỡi trắng nhớt, mạch huyền hoạt.
Trị pháp: Hóa đàm giáng nghịch.
Xử phương: Bán hạ Bạch truật Thiên ma thang hợp Khiên chính tán gia giảm. Bán hạ 20g, Bạch truật 12g, Phục linh 30g, Trần b́ 12g, Thiên ma 12g, Bạch phụ tử 12g, Bạch cương tàm 10g, Toàn yết 5g, Địa long 10g, Nha tạo (nướng) 5g, Mạn kinh tử 10g.
Đau đầu do tinh huyết hư yếu, đầu đau có cảm giác trống rỗng, đau liên tục, khi gắng sức th́ đau tăng nặng, kèm theo chóng mặt, ù tai, hồi hộp, dễ sợ hăi, eo và đầu gối đau mỏi, tinh thần uể oải yếu sức; Chất lưỡi nhợt nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, và mạch trầm tế vô lực.
Trị pháp: Bổ ích tinh tủy, bổ khí ích huyết.
Xử phương: Đại bổ nguyên tiễn hợp Tứ vật thang hóa tài. Thục địa 30g, Sơn thù 15g, Sơn dược 15g, Kỷ tử 15g, Đỗ trọng 12g, Đương quy 15g, Bạch thược 20g, Xuyên khung 15g, Hồng sâm 5g, Hoàng kỳ 30g.

Châm cứu: Dùng các huyệt gồm Thái Dương, Đầu duy, Hợp Cốc và A Thị. Can dương bốc lên gia Thái Xung, đàm thấp gia Phong Long. Thủ pháp bao gồm nâng, chèn và vê kim, kích thích mạnh và lưu kim tại chỗ từ 30 đến 50 phút, mỗi ngày một lần. Đối với cơn đau dữ dội, có thể thực hiện kích thích từ trung b́nh đến mạnh tại các huyệt như Thái dương, Thái xung và huyệt Hợp cốc ở bên không đau, cũng như các huyệt Phong tŕ và Suất cốc ở bên bị đau. Ngoài ra, cũng có thể áp dụng liệu pháp châm cứu ngoại biên, tức là cách chu vi vùng đau khoảng 0,5 cm, dùng kim 0,5 đến 1 inch đâm kim chéo về phía tâm vùng đau, châm sâu khoảng 0,2 đến 0,5 cm, sau đó đâm kim cứ 0,5 cm cho đến khi tạo thành h́nh tṛn. Những cơn đau đầu khó chữa cũng có thể được điều trị bằng liệu pháp chôn kim, tức là lấy hai chiếc kim dạng sợi dài 1,5 đến 2 inch và chèn thẳng chúng vào các đường phía trước và phía sau thái dương, dán cán kim bằng băng dính lưu kim trong 24 đến 28 giờ hoặc lâu hơn. Chỉ có thể bắt đầu châm sau khi hết đau.
Thôi nă (Xoa bóp): Cho bệnh nhân ngồi, trước tiên dùng phương pháp cầm (véo), phương pháp nhất chỉ thiền (đẩy) và phương pháp xoa day để áp dụng vào các huyệt Thiên Tŕ, Thiên Trụ và các huyệt khác, mỗi huyệt 2 phút, sau đó thực hiện 3 thao tác qua lại dọc theo kinh Túc Thái Dương và kinh túc Thiếu Dương từ trên xuống dưới ở hai bên Đại Chùy từ 3~5 lần. Sau đó dùng các phương pháp nhất chỉ thiền và nhào nặn, xoa bóp mỗi huyệt trong 2 phút trên các huyệt Bách hội, Suất cốc, Đầu lâm khấp, Đầu duy, Thái dương. Đồng thời xoa từ huyệt Toán trúc dọc theo lông mày lên đến huyệt Thái dương 5 đến 6 lần, cuối cùng thực hiện nă (nhéo) huyệt Hợp cốc 2 phút. (nă là dùng ngón cái và một vài ngón c̣n lại nắm lấy vị trí đă chọn)

Điều trị chứng đau đầu do bệnh răng miệng và nha chu bằng y học cổ truyền như thế nào?
Cơn đau do bệnh răng và nha chu cũng có thể gây ra đau đầu ở nhiều mức độ khác nhau. Kèm theo hôi miệng, nướu đỏ sưng đau, tiết mủ và chảy máu, táo bón, nước tiểu màu vàng đỏ; Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày, mạch hồng đại hoặc hoạt sác, hội chứng này thuộc loại h́nh thực hỏa ở đường kinh vị.
Trị pháp: Thanh nhiệt tả hỏa, chiết xung giảm đau.
Xử phương: Thanh vị tán gia vị. Hoàng liên 6g, Sinh địa 15g, Đương quy 10g, Đan b́ 10g, Thăng ma 6g, Lục nguyệt tuyết 15g, Bồ công anh 24g, Tử hoa địa đinh 15g.
Loại âm hư hỏa vượng là đau đầu chóng mặt, khô miệng triều nhiệt (nóng sau giờ trưa), răng lung lay, nhai yếu, lợi sưng đỏ có mủ; Chất lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng mạch tế sác.
Trị pháp: Thanh vị ích thận, tráng thủy giảm đau.
Xử phương: Sinh địa 20g, Tri mẫu 10g, Mạch đông 12g, Ngưu tất 12g, Thạch cao sống 30g, Thố ti 15g, Kỷ tử 12g, Phục linh 15g, Tường vi hoa 10g, Cam thảo 6g.
Châm cứu: Dùng các huyệt Hạ quan, Giáp xa Thính cung, Hợp cốc, kích thích trung độ (vừa phải) lưu kim trong 20 phút.

Y học cổ truyền điều trị đau đầu do huyết áp thấp như thế nào?
Huyết áp thấp hay gặp ở phụ nữ trẻ, huyết áp tâm thu thường dưới 80 đến 90mmHg, thường kèm theo nhức đầu âm ỉ, chóng mặt, ù tai, đau lưng, suy nhược toàn thân, phù nề nhẹ, hồi hộp và khó thở; Chất lưỡi trắng nhạt, lưỡi to có dấu răng ở cạnh lưỡi, mạch trầm tế vô lực.
Biện chứng theo y học cổ truyền phần lớn thuộc hội chứng suy nhược.
Trị pháp: Kiện tỳ bổ khí, tráng thận dưỡng huyết phương pháp điều trị nên là cường tỳ bổ khí, cường thận dưỡng huyết.
Xử phương: Chỉ xác 15g, Hoàng kỳ nướng 30g, Phụ phiến 10g, Đương quy 10g, Hồng sâm 3g, Hồng táo 30g, Bạch truật 12g, Quế chi 6g, Sa sâm 24g, Kỷ tử 12g.
Châm cứu: Chọn các huyệt gồm Nội quan, Quan nguyên, Túc tam lư, Đại chuy, Mệnh môn, trong đó trực tiếp cứu bằng điếu ngải 2 huyệt Quan nguyên và Túc tam lư, mỗi huyệt 3 tráng, 2 đến 3 ngày cứu một lần, châm dùng phép bổ.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu do đau dây thần kinh đại chẩm như thế nào?
Đau đầu do đau dây thần kinh chẩm lớn thường đau kịch liệt từng đợt ở vùng chẩm và cổ, tức là phát tác xen giữa các cơn đau âm ỉ, phần lớn bệnh nhân có tiền sử bệnh cột sống cổ, nhiều bệnh nhân c̣n kèm theo các chứng trạng như âm thanh ở cổ, chóng mặt, buồn nôn, ù tai, giảm thính lực, tê tay hoặc suy giảm cảm giác, teo cơ.
Biện chứng luận trị của y học cổ truyền là thông kinh, giảm đau, gồm các vị thuốc: Tam thất 3g, Hồng hoa 10g, Đào nhân 10g, Xuyên đoạn 12g, Đan sâm 20g, Xuyên khung 10g, Cát căn 30g, Cúc hoa 10g, Huyền hồ 10g.
Châm cứu: Dùng các huyệt Phong tŕ, Đại trữ, Thiên trụ, Ngoại quan, Hợp cốc, Phong long, Côn luân, kích thích mạnh sau đó lưu kim 30’, mỗi ngày 1 lần.
Thôi nă (Xoa bóp): Bệnh nhân ngồi hơi nghiêng về phía trước để lộ toàn bộ cổ, đầu tiên thày thuốc dùng ngón tay cái day xoa liên tục nhiều lần dọc theo mạch Đốc từ huyệt Phong phủ, Á môn, đến huyệt Đại chuy, lại day xoa dọc theo hai bên xương sống các điểm đau phân bố của các huyệt Thiên trụ, Đại trữ đến Kiên trung du, Kiên ngoại du, sau đó áp dụng phương pháp day xoa vào cạnh dưới và cạnh trên của mặt lưng cánh tay bị ảnh hưởng và xoa bóp huyệt Thủ tam lư.

Dùng thuốc và châm cứu để điều trị chứng đau đầu do viêm màng năo, viêm năo như thế nào?
Các bệnh truyền nhiễm hệ thần kinh trung ương, thường gặp bao gồm viêm màng năo, viêm năo, áp xe năo, viêm màng năo năo, v.v. Những bệnh này đều có những cơn đau đầu cực kỳ phổ biến khi khởi phát bệnh.
Trong số đó, đau đầu do viêm màng năo có tính lưu hành (dịch), viêm màng năo lao, viêm màng năo do virus là những cơn đau đầu kịch liệt, kèm theo buồn nôn, nôn mửa, phản ứng vùng cổ, bệnh nhân có thể sốt cao, co giật, hôn mê, dễ xảy ra ở trẻ em. Khi cơn đau đầu cấp tính xảy ra, phương pháp điều trị bằng Đông y có tác dụng thanh nhiệt, giải độc.Dùng: Kim ngân 20g, Liên kiều 20g, Đại thanh diệp 20g, nam Sa sâm 20 gam, Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, Sài hồ 6g, Sinh địa 15g, Lô căn tươi 24g, Ngư tinh thảo 30g, Hoàng cầm 10g, Hồng táo 5 quả.
Châm cứu: Chọn các huyệt Bách hội, Thái Dương, Phong Tŕ, phối hợp với Hợp cốc, Nội quan, kích thích mức độ trung b́nh, lưu kim trong 30 phút.
Nếu bị đau đầu di chứng của viêm năo kèm theo co giật nhẹ, tê liệt tay chân th́ có thể dùng phương pháp dưỡng âm giải độc, dùng Sinh địa 15g, Trúc diệp 10g, Thạch cao sống 20g, Hoàng cầm 10g, Mạch môn 12g, Xuyên khung 10g, Bạch tật lê 12g, Câu đằng 12g, Xích thược 10g, Cam thảo 6g.

Điều trị đau đầu do áp xe năo, u năo bằng y học cổ truyền như thế nào?
Áp xe năo thường lây lan trực tiếp từ các bệnh nhiễm trùng ở tai giữa, xương chũm, xoang cạnh mũi… gây đau đầu dữ dội, buồn nôn và nôn mửa, thậm chí có triệu chứng suy giảm ư thức và nhiễm trùng toàn thân.
Khi lựa chọn phương pháp điều trị bằng kháng sinh, đồng thời bạn có thể sử dụng thuốc đông y để thanh nhiệt, giải độc, công thức cơ bản là Hoàng liên 6g, Hoàng bá 10g, Đại hoàng sống 4.5g, Dă cúc hoa 20g, , Cao bản 20g, Sinh địa 20g, Kim ngân hoa 10g, Quán chúng 20g, Cam thảo 6g. Váng đầu hoa mắt, gia Hoàng kỳ sống 15g, Mẫu lệ sống 30g, Ngũ vị tử 6g.
Đau đầu đôi khi có thể do khối u trong năo gây ra, đặc biệt khi xuất hiện trạng thái tinh thần uể oải, biểu hiện thờ ơ, suy giảm khả năng tư duy và tổng hợp, xuất hiện những thay đổi về thính giác, thị giác và khứu giác th́ cần phải kiểm để xác định chẩn đoán.
U năo có thể sử dụng thuốc y học cổ truyền trước và sau phẫu thuật, điều trị trước phẫu thuật nên bắt đầu bằng việc điều ḥa khí âm và vận hành huyết mạch, sử dụng các loại thuốc như Sa sâm 24g, Đảng sâm 15g, Bán chi liên 30g, Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, Xuyên khung 10g, Uy linh tiên 30g, Đào nhân 15g, Vương bất lưu hành 10g, Cam thảo 6g. Sau khi phẫu thuật dùng phương pháp hoạt huyết hóa ứ, khứ phong ích thận. Gồm Đương quy, Xích thược, Xuyên khung, Pḥng phong, Xuyên đoạn, Sài hồ, Kỷ tử mỗi vị 9g, Câu đằng 12g, Kê huyết đằng 15g, Ngũ vị tử 3g, Cam thảo 3g.
Điều trị đau đầu sau khi chọc ḍ tủy sống bằng y học cổ truyền và châm cứu như thế nào?
Chọc ḍ tủy sống là phương pháp thường được sử dụng để chẩn đoán lâm sàng và thực hiện gây mê phẫu thuật, nhưng đôi khi một số bệnh nhân bị đau trướng đầu dai dẳng, đau âm ỉ và đau theo mạch đập vài giờ sau khi chọc, điều này có liên quan đến vị trí cơ thể.
Biện chứng y học cổ truyền cho thấy hội chứng phong phần lớn thường liên quan đến hư chứng, trị pháp thường dùng là: Khứ phong bổ hư thanh khiếu. Phương cơ bản gồm: Xuyên khung 12g, Pḥng phong 6g, Cửu tiết xương bồ 10g, Bạc hà 6g, Bạch thược 15g, Hoàng liên 3g, Câu đằng 10g, Uất kim 10g, Hoàng kỳ chích 15g. Đầu óc tối tăm gia Thiên ma 6g, Trân châu phấn 6g.
Châm cứu: Dùng các huyệt: Ấn đường, Thái dương, Hợp cốc, Đàu duy, Phong tŕ, Đại chuy, kích thích mạnh, lưu kim 30’.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu do hội chứng măn kinh như thế nào?
Măn kinh thường đề cập đến một nhóm các triệu chứng xảy ra khi phụ nữ khoảng 45 tuổi và nam giới khoảng 55 tuổi, một số bệnh nhân bị đau đầu âm ỉ, liên tục và giảm dần, trầm trọng hơn sau khi gặp phải một số kích thích nhất định, thường kèm theo các triệu chứng khác như chóng mặt, mất ngủ, đánh trống ngực, khó thở, cảm xúc không ổn định, đau lưng, mệt mỏi.
Y học cổ truyền biện chứng cho thấy phần lớn phụ nữ đều thuộc loại h́nh âm hư dương kháng (âm hư dương thịnh), điều trị chủ yếu là dưỡng âm liễm can, tráng thủy, an thần.Gồm: Đương quy 10g, Bạch thược 10g, Kỷ tử 15g, Miết giáp sống 15g, A giao 12g, Bá tử nhân 10g, Sa sâm 20g, Mạch đông 12g, Trạch tả 15g, Hoàng liên 3g, Đan sâm 10g. Người nam thường thuộc loại h́nh thận dương hư yếu, Phương dùng Kim quỹ thận khí hoàn gia giảm: Phụ tử phiến 6g, Tiên linh tỳ 12g, Hoài sơn 15g, Bổ cốt chỉ 12g, Đan b́ 12g, Đương quy 10g, Sinh Thục địa mỗi vị 15g, Ba kích 10g, Ngũ vị 6g, Xuyên khung 10g.
Châm cứu: Bệnh nhân nữ dùng Tam âm giao, Túc tam lư, Huyết hải; Bệnh nhân nam dùng Thận du, Ủy trung, Dương lăng tuyền, kích thích nhẹ, mỗi ngày một lần, lưu kim trong 20 phút, hoặc dùng phương pháp cứu ngải 15 phút.

Y học cổ truyền điều trị chứng đau đầu dobệnh động kinh như thế nào?
Động kinh có thể được chia thành động kinh nguyên phát và thứ phát, có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến hơn ở thanh thiếu niên, một số bệnh nhân bị đau đầu là cơn chính, kèm theo sắc mặt tái nhợt, đổ mồ hôi, chóng mặt, nôn mửa, v.v. và kéo dài. có thể Nó có thể dao động từ vài phút đến hàng chục phút, và một số thậm chí có thể kéo dài hơn một ngày.
Y học cổ truyền cho rằng các cơn động kinh dạng đau đầu thường liên quan đến âm hư, dương kháng, chuyển hóa nhiệt và sinh phong, phương pháp điều trị nên là tức phong, trấn tĩnh động kinh, tiêu đàm, giảm đau. Thuốc gồm Câu đằng 12g, Thiên ma 6g, Bối mẫu 12g, Đảm nam tinh 10g, Bán hạ sống 10g, Trần b́ 6g, Phục linh 10g, Đan sâm 5g, Mạch môn 12g, Toàn trùng 10g, Xuyên khung 10g, Hổ phách 5g, Cam thảo 10g, sau khi qua cơn phát tác của bệnh, mà bệnh nhân vẫn đau đầu không ngừng, có thể dùng pp Sơ can giải uất, kiện tỳ dưỡng huyết, với Tiêu dao tán gia giảm là thích hợp, trong phương có Sài hồ, Chỉ xác, Đương quy, Xuyên khung, Pḥng phong, Bạch thược sao, Uất kim, Huyền hồ mỗi vị 10g, Hoàng kỳ chích 20g, Cam thảo 6g, Thiên ma 6g, Viễn chí 4.5g
Châm cứu: Dùng các huyệt như Thần Môn, Nội Quan, Can du, Phong Long, Phong Tŕ, Tâm du, Tỳ du, Tam Âm Giao, v.v., thủ pháp b́nh bổ b́nh tả, mỗi ngày một lần, một liệu tŕnh 10 lần.

Chứng đau đầu khi hành kinh là ǵ và cách điều trị bằng y học cổ truyền?
Đau đầu khi hành kinh dùng để chỉ những người bị đau đầu là triệu chứng chính trước và sau kỳ hành kinh và trong thời kỳ kinh nguyệt, gọi là đau đầu kinh nguyệt (kinh hành đầu thống). Biện chứng y học cổ truyền phân loại thuộc loại h́nh đau đầu do thiếu máu, tức là chóng mặt và nhức đầu trong hoặc sau kỳ kinh, đánh trống ngực, ngủ ít, tinh thần mệt mỏi; Chất lưỡi nhợt nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch hư tế, điều trị cần dưỡng huyết bổ khí, dùng thang Bát trân thang gia vị: Đương quy 15g, Xuyên khung 10g, Bạch thược 10g, Thục địa 15g, Nhân sâm 3g, Bạch truật 10g, Phục linh 10g, Chích thảo 6g, Kỷ tử 10g, Thủ ô 10g.nếu uống thuốc bị đầy bụng phân lỏng th́ gia Sinh khương, Sa nhân).
Đau đầu khi hành kinh thuộc loại h́nh can hỏa có các đặc điểm như đau kịch liệt, đau ở vùng đỉnh đầu, vựng đầu hoa mắt, vội vă dễ cáu giận, miệng họng khô đắng; Chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch tế huyền sác.
Trị pháp:Dưỡng âm thanh nhiệt, nhu can tức phong.
Xử phương: Kỷ cúc địa hoàng hoàn gia vị : Thục địa 15g, Sơn dược, Trạch tả, Đan b́, Phục linh, Kỷ tử, Khổ đinh trà, Hạ khô thảo, Bạch tật lê mỗi vị 10g, Cúc hoa 6g.
Đau đầu khi hành kinh thuộc loại h́nh ứ huyết có các đặc điểm như đau đầu kịch liệt trước và đang khi hành kinh, kinh nguyệt màu tím sẫm và vón cục, đau bụng dưới không chịu ấn nắn; Chất lưỡi sẫm màu hoặc có chấm xuất huyết ở đầu lưỡi và cạnh lưỡi, mạch tế sáp hoặc huyền sáp.
Trị pháp: Điều khí hoạt huyết, hóa ứ thông lạc.
Xử phương: Thông khiếu hoạt huyết thang. Xích thược 15g, Xuyên khung 10g, Đào nhân 20g, Hồng hoa 5g, Lăo 5g, Xạ hương thông căn (củ hành già), Xạ hương 0.1g (bọc lụa), gừng tươi 6g, Táo 6 quả


“Trấn Năo Ninh” (镇脑宁) là thuốc ǵ, v́ sao điều trị được chứng đau đầu?

Hướng dẫn sử dụng của “Trấn năo ninh” (viên nang) có nội dung: Thuốc này có tác dụng nhanh chóng đối với chứng đau đầu do mạch máu và thần kinh, có tác dụng chữa bệnh tốt (tổng tỷ lệ hiệu quả là 96,8%) và không có phản ứng phụ. Thuốc bao gồm chín công thức thuốc tự nhiên, bao gồm Xuyên khung, Tế tân, Bạch chỉ, Cao bản...tổng cộng 9 loại vị thuốc thiên nhiên phối hợp tạo thành., có tác dụng tức phong thông lạc, dùng cho các chứng đau đầu có tính thần kinh huyết quản như cao huyết áp, sơ vữa động mạch, kèm lợm giọng, ẩu thổ, nh́n vật không rơ, tê tay chân, vựng đầu ù tai.
Người viết cho rằng xét từ tác dụng tức phong thông lạc th́ thuốc có tác dụng tốt hơn đối với chứng đau đầu do can khí uất kết, can phong nội động có nguyên nhân tạo thành chứng đau đầu từ sự tức giận (Nộ khí thương can)

Loại h́nh đau đầu nào được điều trị tốt hơn bởi “Chính Thiên hoàn” (正天丸)và “Thái cực thông thiên dịch” (太极通天液) cũng có thể điều trị đau đầu?
“Chính Thiên hoàn”cũng là một loại thuốc độc quyền của YHCT được sử dụng phổ biến trong thực hành lâm sàng, sau khi một số bệnh nhân uống thuốc sắc đă giảm đau đầu, họ cần tiếp tục dùng thuốc độc quyền của YHCT trong một thời gian để củng cố tác dụng. “Chính Thiên hoàn” là một trong những thuốc đáng được giới thiệu.
Thuốc này có thành phần là Đương quy, Xuyên khung, Tế tân, Hồng hoa, Pḥng phong, Độc hoạt, Phụ tử, có tác dụng hoạt huyết hóa ứ, khứ phong trừ thấp. Theo hướng dẫn cho biết thuốc được thiết kế đặc biệt để điều trị các chứng đau đầu mạn tính khác nhau (đau đầu do bệnh thần kinh, đau đầu do mạch máu, đau nửa đầu, đau đầu do căng thẳng, đau đầu do thoái hóa đốt sống cổ và đau dây thần kinh tam thoa). Kinh nghiệm lâm sàng của tác giả và kết hợp với tác dụng kích hoạt tuần hoàn máu và loại bỏ ứ máu, tin rằng nó có tác dụng tốt đối với bệnh xơ vữa mạch máu và đau đầu do chấn thương.
“Thái cực thông thiên dịch” (太极通天液), được bệnh nhân rất ưa chuộng trong những năm gần đây, không chỉ được dùng để ngăn ngừa xuất huyết năo, huyết khối năo và cải thiện di chứng của bệnh mạch máu năo mà c̣n có thể dùng để điều trị chứng đau đầu, có thể điều trị chứng đau nửa đầu, đau đầu do thần kinh, đau đầu do căng thẳng, đau đầu do mạch máu, đau đầu do cảm lạnh và đau đầu do thoái hóa đốt sống cổ.
Thành phần của nó là: Xuyên khung, Tế tân, Bạch chỉ, Khương hoạt, v.v. Các chức năng và chỉ định của nó hoạt huyết hóa ứ và hoạt lạc, thông mạch, giáng áp, sơ phong giảm đau. Một số người cho rằng nó hiệu quả hơn trong việc điều trị chứng đau đầu do mạch máu (huyết quản tính đầu thống).

Tại sao có người cho rằng vị Thiên ma có tác dụng điều trị tốt chứng đau đầu?
Đúng là có một số người thích dùng Thiên ma để chữa đau đầu, hoặc dùng gà hầm Thiên ma làm thuốc chữa đau đầu th́ hiệu quả quả thực là tốt nhưng nếu bạn chưa hiểu rơ về dược tính của Thiên ma th́ hiệu quả sẽ không tốt. Suy cho cùng, Thiên ma không phải là “thần dược” duy nhất để điều trị chứng đau đầu”.
Thiên ma là củ của thực vật thiên ma, một loại cây thân thảo sống kư sinh lâu năm thuộc họ Lan, được sản xuất chủ yếu ở Tứ Xuyên, Vân Nam và Quư Châu, phân bố rộng răi ở phía bắc và phía nam Trung hoa. “Xuân ma” tác dụng hơi kém, trong khi chất lượng “Đông ma” lại tốt hơn. Vị ngọt, tính b́nh, quy can kinh, tác dụng tức phong, giảm co thắt, b́nh can tiềm dương. Nó chủ yếu được sử dụng cho các hội chứng như can phong npooij động, co giật động kinh, cũng có thể được sử dụng cho các hội chứng chóng mặt và đau đầu do gan dương hoạt động quá mức (can dương thượng kháng). Nếu dùng cùng với Câu đằng, Hoàng cầm, Ngưu tất, có thể điều trị chóng mặt và đau đầu do gan dương hoạt động quá mức; nếu dùng cùng với Xuyên khung, nó cũng có thể điều trị chứng đau nửa đầu, chẳng hạn như Thiên ma hoàn.
Như trên có thể thấy, Thiên ma có tác dụng tốt trong việc làm dịu gan, tiềm dương đối với chứng đau nửa đầu do can dương quá nhiều nên Thiên ma là sự lựa chọn hàng đầu cho những cơn đau đầu hàng ngày do cao huyết áp, tức giận,… . Đối với những cơn đau đầu do nguyên nhân khác gây ra th́ cần xác định rơ nguyên nhân và điều trị riêng biệt, ví dụ như người bệnh sau khi phẫu thuật hoặc khí huyết yếu th́ không có tác dụng như gà hầm Hoàng kỳ khi bị chóng mặt, đau đầu.

Các đơn thuốc phổ biến để điều trị chứng đau đầu là ǵ?
Mạn kinh tử 6g, sắc lấy nước uống thường xuyên, hoặc thêm Thạch nam diệp 10g sắc sắc uống thay trà.
Hổ trượng 2g và Từ Trường Khanh 3g, mỗi ngày 1 liều, sắc 2 lần.
Xuyên khung 3g, Mạn kinh tử 3g, tán thành bột, mỗi ngày 1 thang phân 3 lần uống.
Đương quy, Xuyên khung, Toàn yết, Thiên ma, Đảm thảo, Bạch chỉ, Bá tử nhân, làm thành 2 bao xung tễ, sáng và tối mỗi lần 1 bao, nhức ầu phát liên tục th́ gia thêm 1 bao.
Công thức dùng điều trị chứng đau nửa đầu: Trân châu mẫu 30g (sắc trước), Long đảm 3g, Cúc hoa 12g, Pḥng phong 5g, Đương quy 9g, Bạch thược 9g, Sinh địa 18g, Xuyên khung 5g, Toàn trùng 2 con, Địa long 9g, Ngưu tất 9g, Thổ miết trùng 9g, sắc hai lần, ḥa chung phân hai lần uống trong ngày, uống lúc thuốc c̣n ấm, ngay uống 1 thang ;
Đảng sâm, Hoàng kỳ, Xích thược, Phục linh, Ngô du, cầm, chế Xuyên quân, chích Cam thảo, Sinh địa, Thục địam Đương quy, Xuyên khung, Uylinh tiên, Thiên ma, Khương hoạt, Pḥng phong, Sài hồ, Bán hạ, Toan táo nhân, Ngũ vị, Phụ tử, Màn kinh tử, Hoàng tinh, Kỷ tử, Trạch tả, Nga truật, Huyền hồ, Toàn yết, Hoàng bá, Ngô công mỗi vị 500g, Thạch cao sống 1000g, chế Mă tiền tử 340g, sao khô, tán thành bột để dùng, mỗi ngày 20g, phân thành 2~3 lần ḥa nước uống, uống liên tiếp 10 ngày là một liệu tŕnh, sau khi uống có hiệu quả, có thể uống liên tiếp 2~3 liệu tŕnh.
Toàn phương có tính thiên về lạnh, mát, thích hợp với chứng đau nửa đầu do nhiệt; Đảng sâm, Đương quy, Bạch vi mỗi vị 10g, Thạch quyết minh sống 25g, mỗi ngày 1 thang, sắc rồi chia 2 lần uống; Bản lam căn 30g, Thạch cao sống 15g, Đậu thị 15g, Xuyên khung 10g, sắc chia 2 lần uống, mỗi ngày 1 thang; Bạch chỉ 3g, Thiên ma 6g, Kinh giới, Pḥng phong mỗi vị 9g, tán hai vị trước thành bột, sắc hai vị sau lấy nước uống với thuốc bột, thuốc nêu trên là lượng thuốc uống 1 lần, mỗi ngày uống 1 lần, nếu đau nhiều th́ có thể uống 2 lần; Cẩu kỷ căn 30g, sắc uống, bệnh nhẹ uống ngày 2 lần, bệnh nặng uống ngày 3 lần; Thạch xương bồ 15g, Vạn niên thanh 15g, sắc uống; Sơn dương giác 30g, Bạch cúc hoa 12g, Xuyên khung 6g, mỗi ngày 1 thang, sắc chia hai lần uống.
Bài thuốc điều trị chứng đau đầu do thần kinh huyết quản gồm có: Hoa sinh diệp tươi 100g, sắc uống trước khi đi ngủ hoặc chia làm 2 lần vào buổi sáng và buổi tối; Câu đằng 10g, Thái tử sâm 10g, cứu Toàn yết 15g, Đại xuyên khung 15g, Tử đan sâm 10g, Quảng địa long 15g, tán tất cả thành bột, mỗi lần uống 3g, chiêu bằng nước, khi bệnh phát tác mỗi ngày uống 3 lần, khi bệnh không phát tác th́ mỗi ngày uống 1 lần, tránh uống lâu dài.
Một bài thuốc chữa đau đầu do chấn thương bao gồm: Địa phu tử 30g, Xích thược, Hồng hoa, Kinh giới tuệ mỗi vị 10g, Cương tàm 6g, Đường nâu 30g, Trà lá 0,5g. tất cả các vị thuốc nấu trước 20’, cho lá trà vào nấu lại trong 10 phút, sau đó loại bỏ cặn, thêm đường nâu vào đun tan, uống 1/2 liều vào buổi sáng và buổi tối.
Đơn thuốc chữa viêm mũi, viêm xoang là: Thương nhĩ tử 15g, sao vàng, sắc uống thay trà; Tân di, Thăng ma, Chi tử, Mạn kinh tử mỗi vị 9g, sắc uống, mỗi ngày 1 thang, chia hai lần uống; Cát cánh, Thương nhĩ mỗi vị 30g, Ư rĩ, Liên kiều mỗi vị 15g, Cát căn, Tân di, Bạch chỉ, Cúc hoa, Tây thảo mỗi vị 10g, Bạc hà 5g, mỗi ngày 1 thang, uống sau ăn.
Bài thuốc chữa đau dây thần kinh tam thoa bao gồm: Huyền sâm, Thăng ma, Tê giác, Xích thược, Hoàng cầm, Cát cánh, Quán chúng, Cam thảo, các vị lượng bằng nhau, mỗi lần uống 12g, sắc uống; Xuyên khung, Thạch cao sống, Cúc hoa, Bạch thược, Đương quy, Bạch phụ tử, Cương tàm, Toàn yết các vị lượng bằng nhau tán thành bột, dùng đường uống dưới dạng bột; Bạch thược sao 30g, chích Cam thảo 15g, sắc uống, mỗi ngày 1 thang; Bạch thược 50g, chích Cam thảo 30g, Toan táo nhân 20g, Mộc qua 10g, sắc uống mỗi ngày 1 thang; Đào nhân 10g, Hồng hoa 5g, Xuyên khung, Xích thược, Cương tàm mỗi vị 12g, Đan sâm 30g, Ngô công 2 con, Toàn yết 4g (nghiền bột), mỗi ngày 1 thang sắc uống.


Đơn thuốc thôi nă cơ bản chữa đau đầu bằng xoa bóp (massage) là ǵ?
Để bệnh nhân nằm ngửa, lương y dùng hai ngón tay cái lần lượt đẩy kinh Ấn đường qua tiền đ́nh đến Bách hội; từ kinh Ấn đường đến Ngư yêu, Thái Dương ra trước tai, ấn ngón cái 3 lần; Tự Ấn đường qua Đầu duy, từ trên tai đến tai, ấn 3 lần, mỗi lần 1 phút cho Ấn đường, Thái dương, Đầu duy, Bách hội. Bệnh nhân chuyển sang tư thế ngồi, lương y dùng ngón tay cái hoặc nhiều ngón xoa bóp sau gáy và vai, lặp lại nhiều lần, cuối cùng bấm vào Phong tŕ, Kiên tỉnh và Hợp cốc mỗi huyệt 1 phút. Nếu là đau đầu do can dương, hăy áp dụng các kỹ thuật bóp, xoa, nhất chỉ thiền thiền vào Thái xung, Hành gian, Dũng tuyền và các huyệt khác, mỗi huyệt trong 2 phút, đồng thời dọc theo kinh Túc quyết âm dùng phép xoa từ phía dưới đầu gối cho nóng lên là mức độ yêu cầu; Đau đầu do huyết hư và thận hư, dùng phép xoa ở lưng và bụngthêm vào lưng bụng, dùng ḷng bàn tay xoa vào vùng thắt lưng xương cùng, xoa bóp tỳ du, Vị du, Thận du, Yêu dương quan, Trung quản, Thiên xu, Tam âm giao.

Các đơn thuốc khác để điều trị chứng đau đầu là:
Xuyên khung, Bạch chỉ và Thạch cao ba vị trọng lượng bằng nhau tán thành bột, mỗi lần uống 12g uống với nước trà để trị nhức đầu do phong nhiệt; hoặc Kinh giới tuệ và Thạch cao lượng bằng nhau, tán thành bột, mỗi lần uống 6g với nước trà; Hoặc dùng Cúc hoa, Thạch cao, Xuyên khung mỗi vị 10g tán bột, mỗi lần uống 5g với nước trà.
Đại ô đầu 2 miếng, gọt vỏ hấp chín, Xuyên khung, Sinh khương mỗi vị 30g, sao khô nghiền thành bột, uống với nước trà mỗi lần 3g, trị chứng đau đầu do phong hàn.
Bạch phụ tử, Thiên nam tinh, Bán hạ bạ vị lượng bằng nhau, tán thành bột, trộn với nước gừng, chưng thành bánh làm viên to bằng hạt đậu xanh, mỗi lần uống 40 viên, trị chứng đau đầu do đàm trọc; Hoặc dùng Ngưu bàng (sao), Toàn phú hoa lượng bằng nhau tán bột, mỗi sáng uống 3g; Đau đầu do phong đàm có thể dùng Thiên nam tinh, Kinh giới mỗi vị 30g tán bột, làm viên bằng khương trấp (nước gừng) và hồ, viên to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 20 viên; Đau đầu do đàm nhiệt có thể dùng Qua lâu 1 quả, Xích vương qua tử 7 cái sao khô, Ngưu bàng 120g sao khô, tán thành bột uống với trà. (không ghi số lượng uống mỗi lần, ngày uống mấy lần.).
Ô dược, Xuyên khung lượng bằng nhau, mỗi lần uống 10g, uống với trà giấm, trị chứng đau đầu do can khí thượng nghịch.
Thạch quyết minh sống (sắc trước) 30g, Câu đằng 12g (hậu hạ), Toàn yết 10g, Bắc Tế tân 4.5g, sắc uống, trị chứng đau đầu do can dượng bốc lên; Hoặc dùng Dă cúc hoa (toàn quả) 30g, sắc uống



Các phương pháp vật lư trị liệu cho chứng đau đầu là ǵ?
Đau dây thần kinh tam thoa có thể được điều trị bằng điện di ion bằng thuốc ḍng điện trực tiếp: sử dụng 5% procain và 0,3% nước tiểu, đặt ở bên mặt bị ảnh hưởng, đặt cực không hoạt động giữa hai bả vai, lượng ḍng điện có thể là 5 đến 10 mA, 15 đến 20 lần mỗi lần phút, mỗi ngày một lần hoặc cách ngày, 20 lần cho một đợt điều trị; cũng có thể sử dụng phương pháp điều trị bằng laser, sử dụng laser bán dẫn năng lượng cao, bước sóng 810nm, công suất đầu ra 0 ~ 300 mw, Đường kính chùm tia 5 mm, có tác dụng giảm đau mạnh, mỗi điểm điều trị Thời gian là 3 phút. T́m điểm kích hoạt theo điểm đau khi cơn đau dây thần kinh sinh ba tấn công. Việc điều trị được chia thành 3 đến 6 điểm, tổng cộng là 18 điểm phút, mỗi ngày một lần hoặc cách ngày, 20 lần là một liệu tŕnh.
Đối với chứng đau đầu thông thường, cũng có thể sử dụng liệu pháp điện tia lửa cộng hưởng, sử dụng phương pháp điều trị cục bộ trên đầu, phương pháp chuyển động tiếp xúc, lượng vừa phải, mỗi ngày một lần, mỗi lần 5 đến 7 phút; cũng có thể sử dụng liệu pháp từ tính, đặt đầu từ tính trên thái dương, huyệt Dương Bạch hoặc huyệt đau. Để điều trị, hăy điều trị từng huyệt một, mỗi lần 15 phút, mỗi ngày một lần và 10 lần là một liệu tŕnh.

Giác hơi và tam lăng châm, lấy máu điều trị chứng đau đầu như thế nào?
Giác hơi cũng có thể điều trị chứng đau đầu. Phương pháp giác hơi là phương pháp dùng cốc làm công cụ để loại bỏ không khí với sự hỗ trợ của nhiệt, gây ra áp suất âm khiến nó hấp phụ vào các huyệt hoặc bề mặt cơ thể của các bộ phận cần rút ra, gây kích ứng và gây sung huyết, ứ huyết cục bộ để đạt được mục đích pḥng ngừa và điều trị bệnh tật. Nó có tác dụng thông kinh hoạt lạc, hành khí hoạt huyết, tiêu thũng giảm đau, khứ phong tán hàn, phạm vi thích ứng của phương pháp này khá rộng.
Chọn các huyệt Ấn đường, Thái dương, Khúc tŕ. Những bệnh nhân thuộc thực chứng nên điều trị bằng phương pháp giác hơi, những người bị ứ máu nên điều trị bằng phương pháp giác hơi sau khi châm vào các lạc mạch.
Giác hơi ở trán và thái dương chủ yếu thích hợp với chứng đau đầu do ngoại cảm phong hàn.
Kim tam lăng là một dụng cụ lấy máu thông dụng, dùng để châm vào một số bộ phận trên cơ thể con người và tiết ra một lượng máu nhỏ để đạt được mục đích trị bệnh. Kim tam lăng châm và chảy máu có các tác dụng như thông kinh hoạt lạc, khai khiếu tiết nhiệt (hỗ trợ hạ nhiệt), điều ḥa khí huyết, tiêu sưng giảm đau, v.v. Có thể áp dụng cho các hội chứng khác nhau như thực chứng, nhiết chứng, ứ huyết và chứng đau.
Đối với những người bị đau đầu kịch liệt do cao hyết áp, có thể chọn các huyệt Thái dương, Dương bạch, Trung xung, dùng kim tam lăng nhỏ châm vào cho chảy ra một chút máu.
Đối với chứng đau đầu do tăng huyết áp, bạn có thể chọn hai bên Thái bạch và Ấn đường. Phối huyệt như sau: Đau trướng kịch liệt ở trán th́ thêm song Toán trúc; Nếu đau nhiều ở đỉnh đầu th́ gia huyệt Bách hội; Đau kịch liệt th́ thêm Tứ thần thông; Nếu kèm theo cứng cổ gáy th́ thêm Song Phong tŕ; Chóng mặt muốn ngă, hoa mắt, ù tai là những chứng trạng nổi bật th́ gia song huyệt Đầu duy. Để bệnh nhân ngồi, sau khi tiêu độc các vị trí huyệt, dùng kim tam lăng châm vào mỗi huyệt sâu khoảng 0.2 mm, mỗi huyệt chừng 5~6 giọt máu, mỗi ngày hoặc cách ngày 1 lần, một liệu tŕnh là 10 lần.
Đau đầu do thần kinh cũng có thể được điều trị bằng cách dùng kim tam lăng châm vào các huyệt Thái dương (đôi), Ngư yêu (đôi) và huyệt Ấn đường, lấy ra một lượng máu thích hợp, sau đó dùng bông g̣n ấn vào các lỗ kim.

Sử dụng phương pháp khêu thích để điều trị chứng đau đầu như thế nào?
Phương pháp khêu thích hay c̣n gọi là phương pháp khêu trị là phương pháp sử dụng những chiếc kim đặc biệt để lấy đi các mô sợi màu trắng dưới da tại một số huyệt hoặc bộ phận nhất định để điều trị một số bệnh.
T́m kiếm các điểm phản ứng tích cực ở hai bên cột sống cổ, chẳng hạn như nổi mụn trên da, hoặc các điểm Bách hội và Phong tŕ, sau khi tiêu độc thường quy bằng iốt và rượu, trước tiên hăy khêu lớp biểu b́, sau đó sử dụng phương pháp nửa móc nửa khêu để t́m vật thể dạng sợi, khi thấy th́ kéo nhẹ lên, dùng lực đủ để khai thông kinh mạch rồi cắt đứt, lặp lại như vậy hơn mười lần. Kỹ thuật điều trị nên từ nhẹ đến nặng, từng bước một, sau khi điều trị nên kiêng rượu, ăn cay, tránh kích động tinh thần, không nên điều trị khi đói quá, no quá, hoặc làm việc quá sức. Phương pháp này hiệu quả khá tốt đối với chứng đau đầu do thần kinh.
Chứng đau nửa đầu cũng có thể được điều trị bằng liệu pháp khêu thích. Nên cắt bỏ các nhánh trán và đỉnh của động mạch thái dương nông ở bên bị ảnh hưởng. Phương pháp tương tự như trên.

Sử dụng liệu pháp Gua Sha để điều trị chứng đau đầu như thế nào?
Liệu pháp quát sa (cạo gió) là một phương pháp được nhân dân sử dụng phổ biến và hiệu quả. Khi sử dụng chỉ cần dùng một chiếc đĩa đồng hoặc th́a sứ nhúng vào dầu trà nóng rồi cạo từ trên xuống dưới vùng trán, chỗ lơm giữa sau gáy và hai bên cột sống cho đến khi da có màu tím, dùng phương pháp này trị phong hàn, hoặc nhức đầu do nhiệt, hiệu quả rất khả quan.
Tuy nhiên, khi cạo bạn nên chú ư cạo theo một hướng và không cạo qua lại. Động tác phải nhẹ nhàng, lực đều, nhanh quá, nặng quá, ngắn quá đều không phù hợp. Đồng thời, việc cạo nên thực hiện trong nhà hoặc ở nơi tránh gió để tránh bị cảm lạnh do gió.

Bệnh nhân đau đầu thực hiện massage tự chăm sóc như thế nào?
Cách 1: Dùng ḷng bàn tay đỡ phía sau đầu, dùng ngón cái và ngón giữa của tay kia lần lượt ấn vào tóc mai và thái dương từ bên trái và bên phải, sau đó ngửa đầu ra sau để điều chỉnh lượng máu cung cấp và áp lực của năo và giảm đau đầu. Cuối cùng, nắm tay bằng cả hai tay và dùng ngón tay gơ nhẹ vào da đầu để thư giăn da đầu.
Cách 2: Dùng ngón tay cái ấn vào huyệt Ấn đường, đẩy lên về phía Bách hội, ấn trong 1 phút, lặp lại vài lần; sau đó dùng cả hai ngón cái chỉ vào thái dương, móc huyệt Phong Tŕ bằng cả hai ngón giữa, đồng thời ấn tiến lùi bằng hai ngón tay 3 đến 5 lần, sau đó điểm vào các huyệt Phong môn, Đại chuy, Hợp cốc, Thái xung nhiều lần, cuối cùng, dùng mười ngón tay chải đầu và mổ đầu 30 đến 50 lần để kết thúc massage.
Phương pháp tự xoa bóp chữa đau dây thần kinh sinh ba như sau: tự xoa bóp đầu và mặt, dùng ngón tay cái hoặc ngón trỏ và ngón giữa xoa bóp Dương bạch, Ngư yêu, Thái dương, Tứ bạch, Thượng quan, Hạ quan, Thừa tương mỗi huyệt 1~ 2 phút, hai tay thay đổi xoa bóp các huyệt Khúc tŕ, Hợp cốc, Nội đ́nh, dùng ngón cái bấm Thái xung, Thái khê.

Dùng massage các huyệt ở chân để điều trị đau đầu như thế nào?
Liệu pháp xoa bóp các huyệt chân có đặc điểm chẩn đoán và điều trị của y học cổ truyền, nó sử dụng “Toàn tức phôi học thuyết ḥa huyệt vị toàn tức luật” (全息胚学说和穴位全息律) để giải thích các nguyên tắc cơ bản của xoa bóp huyệt bàn chân. Các kỹ thuật cơ bản bao gồm 8 Phương pháp: Ấn, nhào, cọ xát, gơ, véo , giữ, móc và xoay.
Khi điều trị đau đầu, các kỹ thuật xoa bóp như ấn, nhào và xoa được sử dụng trước tiên để kích thích các vùng phản xạ cơ bản của bàn chân bệnh nhân (tuyến yên, thận, tuyến thượng thận, Phúc xoang thần kinh ṭng (đám rối celiac), niệu quản và bàng quang), sau đó xoa bóp triệu chứng các vùng phản xạ (đầu, cổ và cơ h́nh thang), sau đó xoa bóp các vùng phản xạ liên quan (tuyến giáp, tuyến cận giáp, tinh hoàn hoặc buồng trứng). Xoa bóp bàn chân của bệnh nhân theo các động tác nhịp nhàng 50, 30 và 20, mỗi động tác 15 phút, với cường độ từ đau đến không đau.
Người bệnh đau đầu cũng có thể tự xoa bóp bàn chân, phương pháp là ngồi co chân, dùng một nắm tay bằng một ngón trỏ hoặc ngón cái ấn vào huyệt chũm, xoang trán, xoang hàm trên và cả hai cổ, sau đó xoa và vặn bằng ngón cái và ngón trỏ.Ngón chân út. Sau đó dùng một ngón trỏ nắm thành nắm đấm hoặc dùng ngón cái ấn vào đám rối thân tạng, tuyến thượng thận, bàng quang,… Thao tác nên lặp lại đối với những vùng có phản ứng bất thường của bàn chân được phát hiện trong quá tŕnh khám và điều trị. Cuối cùng, sử dụng đại ngư tế hoặc xoa huyể Dũng tuyền trên bàn chân.

Chữa đau đầu bằng thuốc đông y và xông hơi ngoài da như thế nào?
Phương pháp đắp thuốc chữa đau đầu cấp tính như sau: Nghiền lá bạc hà tươi thành bùn rồi đắp lên các huyệt : Thái Dương, Dương Bạch, Ấn đường, ngày 1 đến 2 lần.
Đối với chứng đau đầu do thần kinh huyết quản, có thể nghiền sinh Nam Tinh, sinh Xuyên ô thô và Bạch chỉ mỗi loại 30 gam thành bột mịn, có thể trộn nước hành tươi và đắp lên thái dương, thích hợp cho những người bị hội chứng thiên về lạnh.
Chữa đau dây thần kinh tam thoa, có thể dùng Ngô công 1 con, Địa long 10g. Lâu cô (con dế mèn) 1 con, Ngũ bội tử 10g, Nam tinh sống 15g, Bán hạ sống 10g, Bạch phụ tử 10g, Mộc hương 10g, tất cả tán bột, mỗi lần dùng lượng vừa đủ, trộn với giấm thành từng bánh, đắp lên huyệt Thái dương bên đàu bị đau, lấy vải phủ lên, lấy vải mỏng cố định, mỗi ngày thay thuốc 1 lần, thích hợp với các loại h́nh đau đầu.
Đại hoàng, Phác tiêu mỗi vị 30g, tán thành bột, cho nước vào và làm thành từng bánh, hoặc ḥa thành dạng hồ, dán lên hai bên huyệt Thái dương.
Liệu pháp xông hơi là phương pháp điều trị sử dụng thuốc sắc và nhiệt để xông, rửa và ngâm vùng da hoặc vùng bị ảnh hưởng. Công thức sử dụng Đại toán 1 củ, Xuyên khun, Cao bả, Thiên lư quan, Toàn Đương quy, Xích thược, Pḥng phong mỗi vị 10g. Nhúng 7 đến 8 lớp gạc vào trong canh thuốc, đắp lên vùng bị ảnh hưởng khi c̣n nóng, dùng một miếng gạc khác nhúng liên tục vào trong canh thuốc, giữ cho gạc trải đều trên vùng bị ảnh hưởng ở một độ ẩm và nhiệt nhất định.
Dùng Xuyên khung 15g, Văn tàm sa 30g, Cương tàm 20~30 con (20 tuổi trở lên cứ thêm 1 tuổi là thêm 1 con), Bach chỉ 15g, cho tất cả vào nồi, đổ 5 chén nước, đun nhỏ lữa cạn c̣n 3 chén, dùng miếng giấy dày buộc lại, nếu đau hết cả đầu
dùng giấy dày buộc lại, nếu nhức đầu th́ hướng đầu vào miệng nồi (nhắm chặt mắt hoặc dùng khăn quấn lại) che đầu bằng một miếng vuông lớn dùng khăn nóng xông hơi, mỗi ngày một liều, mỗi liều xông 2 lần, mỗi lần xông từ 10 đến 15 phút.

Sử dụng liệu pháp nhỏ thuốc vào mũi để điều trị chứng đau đầu như thế nào?
Trị liệu bằng thuốc nhỏ mũi là một phương pháp điều trị bên ngoài giúp làm giảm hoặc thậm chí loại bỏ cơn đau đầu thông qua việc nhét thuốc và nhỏ mũi.
“Đầu thống tắc tỵ tán” (头痛塞鼻散) được làm từ Xuyên khung, Bạch chỉ và cứu Viễn chí mỗi vị 30g, Tế tân7,5g, Băng phiến 10g nghiền thành bột mịn, đóng chai và bảo quản trong b́nh kín không để hả hơi. Cách dùng: Lấy một lượng nhỏ bột thuốc bọc trong mảnh vải lụa hoặc vải mịn nhỏ rồi nhét vào lỗ mũi, nếu nhức đầu bên phải th́ nhét vào mũi trái, nếu nhức đầu bên trái, nhét vào mũi phải, thông thường cơn đau đầu sẽ dần biến mất sau 3 đến 5 phút.
Đối với chứng đau nửa đầu, có thể dùng bột Hùng hoàng và bột Tế tân mỗi loại 5g, đun sôi Hùng hoàng với dấm và lá củ cải trong 2 giờ, phơi khô và xay mịn, trộn với bột Tế tân rồi nhỏ vào mũi. co giật (một liều có thể sử dụng 70 đến 80 lần), 2 đến 3 lần một ngày. Địa long và Nhũ hương thành những phần bằng nhau, nghiền thành bột mịn, đặt lên giấy để xoắn giấy rồi đốt gần mũi để ngửi khói. Bạch chỉ 6g và Băng phiến 3g tán thành bột mịn, mỗi lần thổi một lượng thích hợp vào mũi.
Trị đau dây thần kinh sinh ba bằng mũi có thể dùng cây Tế tân, Hồ tiêu hoặc Xuyên tiêu mỗi loại 10 gam,Can khương 6g, Bạch tửu15 đến 30 ml, thêm nước đun sôi, dùng giấy h́nh kèn để hít hơi nước vào xoang mũi. mỗi lần 10 phút, một ngày 2 lần.
Dùng nước ép tỏi, Hạn liên thảo tươi giă lấy nước, Bạc hà tươi giă lấy nước, nước hoa dâm bụt tươi nhỏ vào mũi có tác dụng nhất định đối với các triệu chứng đau đầu do ngoại cảm và nội thương.

Liệu pháp thuốc gối đầu cũng có thể điều trị chứng đau đầu?
Điều trị bệnh đau đầu bằng thuốc gối đầu là một phương pháp trị liệu bên ngoài đơn giản và hiệu quả, là liệu pháp truyền thống của y học cổ truyền, do mỗi ngày con người dành gần 1/3 thời gian để ngủ nên chất thuốc đặc biệt trong lơi gối tỏa ra mùi hương của thuốc đi vào cơ thể theo hơi thở. và tạo ra tác dụng chữa bệnh. Nó tốt nhất cho những cơn đau đầu do huyết áp cao và cũng có hiệu quả đối với những cơn đau đầu khác kèm theo triệu chứng mất ngủ. Hai công thức cốt lơi được giới thiệu dưới đây:
Cúc hoa 1000g, Xuyên khung 400g, Đan b́ 200g, Bạch chỉ 200g, Trúc diệp 500g cho vào lơi gối vải sạch, mỗi túi có thể dùng được hơn nửa năm.
Dùng phương trên gia Tế tân 200g, có thể điều trị chứng đau đầu kịch liệt gặp lạnh là phát bệnh; Gia Địa long 300g, có thể điều trị chứng đau đầu do ứ huyết đ́nh trệ.

Liệu pháp thể dục có thể điều trị chứng đau đầu?
Thể liệu c̣n là phương pháp pḥng ngừa và điều trị đau đầu hiệu quả, có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, giúp bạn vui vẻ, sảng khoái, đặc biệt hiệu quả đối với một số chứng đau đầu mạn tính và đau đầu do căng thẳng. Dưới đây là một số phương pháp:
Thái cực quyền di chuyển chậm răi, nhẹ nhàng, thư giăn cơ bắp, tập trung ư thức, phương pháp đơn giản và hữu ích trong việc điều trị các chứng đau đầu khác nhau.
Ngũ cầm hí là một môn thể thao được sáng tạo bởi Hoa Đà, một danh y nổi tiếng thời Tam Quốc, dựa trên chuyển động cơ thể của năm loài động vật: hổ, gấu, hươu, khỉ và chim, và được h́nh thành bằng cách phối hợp với hô hấp (hơi thở). Nó có ưu điểm là đơn giản dễ học dễ thực hành.
Đi bộ và chạy bộ rất được bệnh nhân ưa chuộng v́ chúng đơn giản, dễ thực hiện và số lượng bài tập dễ kiểm soát. Trong số đó, nó có tác dụng chữa bệnh tốt hơn, đặc biệt đối với những bệnh nhân đau đầu do hư chứng. Đi bộ và chạy bộ thường được thực hiện tốt nhất vào buổi sáng hoặc có thể xen kẽ với các hoạt động khác. Tuy nhiên, chỉ cần nhịp tim không vượt quá 120 nhịp mỗi phút sau khi hoạt động và bạn không cảm thấy tức ngực hoặc đánh trống ngực là đủ.

Điều trị đau đầu bằng chế độ thực phẩm với thuốc như thế nào và để pḥng ngừa đau đầu cần chú ư những điều ǵ?
Liệu pháp thực phẩm hoặc chế độ ăn uống thực phẩm với thuốc là một phần trong phương pháp điều trị đau đầu toàn diện trong y học cổ truyền. Bằng cách chế biến thực phẩm hợp lư, nó không chỉ cung cấp dinh dưỡng phong phú mà c̣n cải thiện sự mất cân bằng của cơ thể với các đặc tính, mùi vị và chức năng vốn có của nó, từ đó phát huy những vai tṛ nhất định mà thuốc không thể đạt được. Sử dụng các phương pháp nấu ăn khác nhau để chế biến các món ăn dễ dàng cho bệnh nhân chấp nhận.
Nguyên tắc ăn kiêng điều trị đau đầu là không thể bỏ qua việc điều trị bằng thuốc, bạn phải tin tưởng vào thày thuốc và không bao giờ phá vỡ các quy tắc điều trị để thỏa măn sở thích cá nhân, công thức ăn kiêng phải đa dạng để tăng sự hứng thú của người bệnh. Các biện pháp ăn kiêng đau đầu phổ biến bao gồm:
Đối với người bệnh thiếu máu, nhức đầu, thêm 1 con gà xương đen, Hoàng kỳ 30g, Đương quy 20g thêm hành và gừng, nấu chung rồi uống nước canh. Hoặc nấu cháo với Đại táo 10 quả, Quế viên10 quả (nhăn) và một lượng hạt sen vừa đủ, nấu cháo ăn.
Những người khí trệ đau đầu có thể dùng củ cải vỏ đỏ với lượng thích hợp và 250 gam cá, nấu thành món canh như sữa rồi uống.
Người bệnh can dương thượng kháng, đau đầu dùng một lượng vừa đủ hoa cúc khô, Kỷ tử 10g, Sơn tra 10g, Trần b́ 15g và một ít đường phèn;
Dùng 2 quả trứng, Bạch cúc 30g, Bạch chỉ 30g, Xuyên khung 30g, Pḥng phong 15g gam. Dùng kim chọc hàng chục lỗ nhỏ trên quả trứng rồi đặt sang một bên. Sắc thuốc với nước, sau khi sôi th́ cho trứng đă đục lỗ vào tiếp tục nấu, sau khi trứng chín th́ ăn trứng và uống nước canh, có thể dùng chữa các chứng đau đầu do ngoại cảm phong hàn, phong nhiệt.
Cho 1 bộ óc lợn và Thiên ma 10g vào nồi thêm lượng nước thích hợp, đun trên lửa nhỏ trong 1 giờ thành nước súp đặc, loại bỏ cặn thuốc. Uống súp nhiều lần trong ngày và dùng thường xuyên có thể điều trị chứng đau đầu do thần kinh.
Các biện pháp pḥng bệnh bao gồm tăng cường tập thể dục, tăng cường thể lực, điều ḥa chức năng của các cơ quan và tránh các cảm giác bên ngoài, chấn thương bên trong và té ngă; tích cực điều trị tất cả các cơn đau đầu mạn tính có thể gây ra các cơn đau đầu cấp tính và những bệnh nhân mắc các bệnh này và những người có tiền sử tái phát. Chứng đau đầu nên tránh các nhân tố thúc đẩy phát bệnh; Tích cực điều trị bệnh nguyên phát và cố gắng hết sức để bệnh không chuyển thành chứng co giật, đột quỵ và hôn mê.
Kiên tŕ uống thuốc để pḥng cảm mạo, tránh ăn những thực phẩm dễ động phong, bốc hỏa như gà trống, đầu heo, tôm, tránh hút thuốc, uống rượu.

Tập khí công thế nào để không đau đầu?
Là một liệu pháp độc đáo trong Y học cổ truyền, khí công đóng một vai tṛ quan trọng trong việc rèn luyện sức khỏe và pḥng chống bệnh tật. Có rất nhiều kỹ thuật khí công, dưới đây là liệu pháp thở thai nhi dễ thực hiện và hiệu quả.
Liệu pháp nín thở bao gồm hai loại: nín thở và kiểm soát hơi thở, loại thứ nhất dựa vào các bài tập nín thở đặc biệt để dần dần kéo dài khả năng chịu đựng việc ngừng thở, loại thứ hai điều ḥa hơi thở bằng cách giữ cho tâm trí b́nh tĩnh để đạt được "sự b́nh tĩnh của tâm trí và giảm hơi thở". , gây cảm giác dọc theo kinh tuyến, thường được gọi là thuật giả kim bên trong. Cả hai đều mô phỏng trạng thái thở của thai nhi, kích hoạt và tích lũy Khí trong cơ thể, từ đó đạt được mục đích bồi bổ cơ thể, chữa bệnh, kéo dài tuổi thọ. Phương pháp tập thở của thai nhi như sau:
(1) Phương pháp thở kín:
① Người tập có thể chọn thời gian tập từ nửa đêm (23h đến 1h) đến trưa (11h đến 13h) hàng ngày, có thể ngồi hoặc nằm, nhắm mắt và tập trung. Theo lối sống của con người hiện đại, cũng có thể thay đổi thành một lần vào buổi sáng và một lần trước khi đi ngủ.
②Sau khi “tâm tĩnh”, “hơi thở tĩnh” và “tâm tĩnh” th́ có thể thực hành phương pháp nín thở. Người mới bắt đầu có thể hít vào từ từ bằng mũi, sau khi hít vào đầy đủ th́ có thể nín thở và đọc thầm các số từ một đến hàng trăm hoặc nhiều hơn, khi nín thở đến khi không thể khép được nữa th́ có thể từ từ thở ra không khí đục. Dù hít vào hay thở ra, bạn nên cố gắng làm cho nó dài, dài, mỏng và vi tế, không có tiếng thở hổn hển. Sau một thời gian luyện tập, những hơi thở nặng và ngắn dần được thay thế bằng những hơi thở dài và nhẹ, cho đến khi đạt được tiêu chuẩn “Hồng mao trứ tỵ thượng nhi bất động” (鸿毛着鼻上而不动) chiếc lông hồng trên mũi mà không lay động.
(2) Phương pháp điều chỉnh hơi thở:
Thời gian tập cũng tương tự như trên, bạn nên ngồi xếp bằng hoặc ngồi xếp bằng, hai ḷng bàn tay chồng lên nhau, ḷng bàn tay hướng lên trên, các ngón cái đan vào nhau, đặt ḷng bàn tay lên vùng bụng dưới hoặc ấn ḷng bàn tay lên cơ thể. đầu gối. Hăy ngừng suy nghĩ và đặt lưỡi của bạn lên ṿm miệng. Đầu tiên hăy hít thở tự nhiên và đếm hơi thở của bạn một cách thầm lặng, từ một đến mười, lặp đi lặp lại. Sau khi bước vào trạng thái tĩnh lặng nông, hăy tập trung vào phần dưới đan điền (ở giữa rốn hoặc dưới rốn 1,3 inch) và chuyển sang thở bụng, dần dần làm cho hơi thở của bạn đều, mỏng, nhẹ và dài. Thông qua nhiều tuần hoặc nhiều tháng thực hành, thông thường có thể tạo ra được trạng thái tĩnh lặng sâu sắc. Hơi thở cực kỳ chậm và hiện tượng dẫn truyền cảm giác đặc biệt dọc theo kênh Rendu có thể xảy ra một cách tự nhiên. Tuy nhiên, loại hiện tượng này không thể được theo đuổi hay hướng dẫn bởi suy nghĩ mà nó phải diễn ra một cách tự nhiên. Sau mỗi lần tập, không nên đứng dậy và đi lại một cách đột ngột mà trước tiên nên xoa mặt, tai hoặc khớp, sau đó từ từ mở mắt và đứng dậy để có sự luân phiên chậm răi giữa trạng thái tĩnh lặng và thức dậy.
Phương pháp này có thể có tác dụng pḥng ngừa và điều trị tích cực đối với các bệnh mạn tính lâm sàng và bệnh tâm lư khác nhau. Nó có tác dụng rất rơ rệt đối với bệnh viêm phế quản mạn tính, hen suyễn, khí thũng, đau đầu do nhiều nguyên nhân khác nhau, căng thẳng, đau bụng, mất ngủ, v.v. 
Trường Xuân dịch
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-02-15 15:28:54
CHỨNG ĐAU ĐẦU DO CĂNG THẲNG


Tư liệu:
Các loại đau đầu căng thẳng là ǵ?
Đau đầu do căng thẳng có thể được chia thành các loại sau:
(1) Đau đầu căng thẳng từng đợt: ① Đau đầu căng thẳng từng đợt liên quan đến bệnh cơ quanh sọ; ② Đau đầu căng thẳng từng đợt không liên quan đến bệnh cơ quanh sọ.
(2) Đau đầu căng thẳng mạn tính: ① Đau đầu căng thẳng mạn tính liên quan đến bệnh cơ quanh sọ; ② Đau đầu căng thẳng mạn tính không liên quan đến bệnh cơ quanh sọ.
(3) Đau đầu căng thẳng không đáp ứng các tiêu chí trên.

Điều trị đau đầu căng thẳng
Người ta thường tin rằng amitriptyline là thuốc được lựa chọn để điều trị chứng đau đầu do căng thẳng. Liều lượng là 25 mg, uống trước khi đi ngủ và có thể tăng thêm 12,5 đến 25 mg sau mỗi 3 đến 4 đêm, tối đa 100 mg/ngày. Tác dụng phụ thường gặp là buồn ngủ, trong trường hợp nặng có thể sử dụng imipramine hoặc doxepin.
Về mặt lư thuyết, propranolol không có hiệu quả trong điều trị chứng đau đầu do căng thẳng, nhưng trên thực tế propranolol được sử dụng hiệu quả để điều trị một số bệnh nhân, nâng cao hiệu quả của amitriptyline và loại bỏ các triệu chứng lo âu của bệnh nhân. Liều dùng propranolol 20 mg, 3 đến 4 lần một ngày, có thể tăng dần lên 80 mg, 3 lần một ngày.
Hiệu quả của các thuốc an thần khác như diazepam và chlordiazepoxide là không chắc chắn.

Làm thế nào để ngăn ngừa và điều trị chứng đau đầu do căng cơ?
Đau đầu do trương lực cơ là một trong những loại đau đầu mạn tính thường gặp nhất, đau đầu thường liên quan đến yếu tố nghề nghiệp và tinh thần như cúi đầu làm việc lâu dài tại bàn làm việc, tư thế đặc biệt của người bệnh khi làm việc gây ra sự co thắt lâu dài của hộp sọ. và cơ cổ, suy nghĩ lo lắng, lo lắng, Khó chịu và mất ngủ thường làm cơn đau đầu trở nên trầm trọng hơn. Nguyên tắc pḥng ngừa và điều trị là loại bỏ nguyên nhân và loại bỏ các triệu chứng.
(1) Điều trị tâm lư: Người bệnh thường bị đau đầu kéo dài nhưng không nhận được sự thông cảm và điều trị hiệu quả, hơn nữa, sự lo lắng, lo lắng về chứng đau đầu khiến t́nh trạng đau đầu ngày càng trầm trọng và kéo dài diễn biến của bệnh. Các thày thuốc nên kiên nhẫn lắng nghe những lời phàn nàn của bệnh nhân với thái độ thông cảm và quan tâm, đồng thời thông qua việc khám sức khỏe cẩn thận và một số xét nghiệm phụ trợ cần thiết, loại bỏ nỗi lo lắng của bệnh nhân rằng ḿnh mắc bệnh nan y. Giúp bệnh nhân điều trị và xử lư đúng đắn các xung đột khác nhau gặp phải trong công việc và cuộc sống, đồng thời loại bỏ các nguyên nhân gây lo âu, trầm cảm, căng thẳng lâu dài là những yếu tố quan trọng để điều trị thành công.
(2) Ngăn ngừa và điều chỉnh các tư thế xấu: Những người làm việc trí óc lâu ngày tại bàn làm việc như giáo viên, bác sĩ, trí thức, nhân viên khoa học kỹ thuật; những người làm công việc may vá, lái xe, v.v. nên chọn bàn cao và ghế thấp để tránh cúi đầu vào bàn làm việc quá lâu và các tư thế bất thường khác. Sự co thắt liên tục của cơ đầu, cổ và vai dẫn đến rối loạn tuần hoàn máu và thiếu máu cục bộ ở cơ, nguyên nhân thứ phát gây ra sự tích tụ cục bộ các chất gây đau như kali, axit lactic, 5-hydroxytryptamine và bradykinin, dẫn đến đau đầu do trương lực cơ. .
(4) Vật lư trị liệu: Mục đích là nhằm thúc đẩy sự thư giăn của các cơ đang căng thẳng, cải thiện lưu thông máu ở cơ đầu và cổ, đồng thời giảm sự tích tụ cục bộ của các chất gây đau. Ví dụ, xoa bóp và vật lư trị liệu được thực hiện trên các cơ ở đầu và cổ; điều trị bằng châm cứu được thực hiện với kỹ thuật kích thích vừa phải.
(5) Các phương pháp khác. Tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao phù hợp. Khuyên bệnh nhân ngừng uống rượu và hút thuốc, và sống một cuộc sống b́nh thường. Thực hiện các bài tập đầu và cổ. Nếu cần thiết, hăy thực hiện liệu pháp phong bế huyệt và phong bế thần kinh.

Nguyên nhân gây đau đầu căng thẳng là ǵ và nó phát triển như thế nào?
Đau đầu do căng thẳng, c̣n được gọi là đau đầu do co cơ, là t́nh trạng tương đối phổ biến. Nguyên nhân là do các cơ vùng đầu cổ như cơ trán, cơ thái dương, cơ chẩm co thắt liên tục, có nhiều nguyên nhân dẫn đến t́nh trạng cơ đầu cổ co thắt liên tục nhưng rất dễ xảy ra khi bạn đang cảm thấy lo lắng, lo lắng hoặc thiếu kiên nhẫn nên gọi là đau đầu do căng thẳng. Nhức đầu là sưng tấy, đau hoặc căng cứng. Cơn đau chủ yếu nằm ở vùng trán hoặc thái dương, đôi khi chỉ giới hạn ở một bên. Nếu khó chịu ở cổ thường bị phàn nàn ở vùng chẩm, khi khám có thể phát hiện vùng cổ bị co thắt, và các lần khám khác không t́m thấy bất thường.
Như đă đề cập ở trên, bất kỳ nguyên nhân nào gây ra co thắt và co thắt kéo dài ở vùng trán, cơ thái dương, cơ chẩm và các cơ đầu và cổ khác đều có thể dẫn đến đau đầu do căng thẳng. V́ vậy, một số tư thế nghề nghiệp đặc biệt, chẳng hạn như cúi đầu xuống bàn làm việc trong thời gian dài và bất kỳ sự kích thích có hại nào ở các mô và cơ quan lân cận khoang sọ đều có thể gây co thắt cơ ở các mô cục bộ hoặc lân cận, dẫn đến đau đầu co thắt cơ đầu và cổ, và tất nhiên là cảm xúc bất ổn, lo lắng và căng thẳng, v.v. T́nh trạng này dễ gây ra các cơn đau đầu hơn.
Dây thần kinh chẩm đi qua các cơ và màng vùng cổ nên khi cổ bị duỗi quá mức, bị xoắn hoặc co thắt cơ, các dây thần kinh này bị kích thích, gây hưng phấn, đau đầu phản xạ, sau đó là đau vùng trán và thái dương. Cơ chế bệnh sinh được thể hiện ở Dưới: Co cơ và co mạch liên tục do biến đổi khí hậu, thay đổi tinh thần, căng cổ,… khiến tuần hoàn kém và sản sinh ra các chất gây đau.

Đau đầu do căng thẳng có giống như chứng đau nửa đầu và đau đầu do suy nhược thần kinh không? Nên phân biệt với loại đau đầu nào?
Đau đầu do căng thẳng khác với chứng đau nửa đầu. Đau đầu do căng thẳng là cơn đau sâu không theo mạch đập, phổ biến hơn ở vùng chẩm, thái dương, trán và các bộ phận khác của cơ thể, có thể lan đến cổ, vai và lưng. Nó có đặc điểm là căng cứng, tê và bị đè nặng. Cảm giác, đau âm ỉ, đau ê ẩm, đau nhói hoặc đau như bị kéo co thắt, có thể trầm trọng hơn khi quay đầu, đặc biệt là các cơ ở vai và lưng. Bệnh nhân thường cảm thấy cứng ở đầu và cổ , hoạt động khó khăn, mệt mỏi, thậm chí đau nặng hơn khi cử động nhẹ. Nếu bạn xoa bóp hoặc gơ nhẹ vào vùng đó bằng nắm tay, bạn sẽ cảm thấy rất thư giăn hoặc cơn đau được thuyên giảm. Một số trường hợp là vùng da trên da đầu hoặc vai và lưng sẽ có cảm giác tŕ độn không nhạy bén, một số vùng da sẽ lại có cảm giác quá mẫn cảm, nếu chạm hoặc kéo tóc sẽ cảm thấy da đầu rất đau, kéo dài vài tháng hoặc lâu hơn. Mặt khác, chứng đau nửa đầu biểu hiện đau ở một hoặc cả hai bên, chủ yếu là đau nhói vùng trán, kèm theo các triệu chứng của hệ thần kinh tự chủ như buồn nôn, nôn và da nhợt nhạt, và được điều trị hiệu quả bằng ergotamine.
Một số bệnh nhân đau đầu thường kèm theo mất ngủ, cáu kỉnh, cáu kỉnh, trầm cảm, giảm trí nhớ,… Đôi khi rất khó phân biệt với đau đầu do suy nhược thần kinh, trong trường hợp này cần phải khám thực thể chi tiết. Trong chứng đau đầu do suy nhược thần kinh, thường không t́m thấy những thay đổi hữu cơ, trong khi với chứng đau đầu do căng thẳng, khám thực thể thường có thể phát hiện t́nh trạng căng cơ ở cổ, vai và lưng và có cảm giác đau nhức rơ ràng khi chạm vào các bộ phận. Nếu đau đầu căng thẳng thứ phát do tổn thương cột sống cổ, chấn thương, kích thích các mô và cơ quan gần đầu cổ như mắt, tai, mũi, họng, răng, tổn thương da đầu, hộp sọ th́ có thể xuất hiện các triệu chứng cục bộ trên đầu và mặt.
Đối với những cơn đau đầu mạn tính kéo dài mà không có dấu hiệu đặc biệt trong các cuộc kiểm tra khác nhau, nên xem xét đau đầu do căng thẳng. Ngoài việc phân biệt với chứng đau nửa đầu, cơn đau đầu này cũng cần được phân biệt với đau đầu do tổn thương thực thể ở chẩm atlanto, cột sống cổ, cạnh đốt sống là các bệnh có tính khí chất gây ra chứng đau ở phía sau đầu. Chứng đau đầu do suy nhược thần kinh, ư bệnh (Hysteria) và các bệnh nội tạng khác, trên cơ sở thời gian đau đầu kéo dài xuất hiện chứng đau đầu có tính căng thẳng, cũng nên chú ư phân biệt. Thông qua việc t́m hiểu , tính chất, bộ vị, thời gian đau đầu, các chứng trạng kèm theo và các nhân tố tăng nặng hoặc giảm nhẹ của chứng đau đầu, có thể phân biệt, đồng thời c̣n phải phân biệt giám định với chứng đau đầu song tập (丛集性头痛) (Cluster headache) là đau đầu chùm và các chứng đau đầu do bệnh ở năo gây ra để tạo thuận lợi trong điều trị bệnh.

Điều trị tâm lư đau đầu do căng thẳng có hiệu quả không, pḥng ngừa và điều trị như thế nào?
V́ nhiều cơn đau đầu do căng thẳng có liên quan đến căng thẳng cảm xúc, lo lắng, thiếu kiên nhẫn, v.v. nên việc điều trị tâm lư sẽ có hiệu quả. Đối với loại đau đầu này, có thể tư vấn tâm lư để giúp bệnh nhân điều trị và xử lư chính xác các vấn đề gặp phải trong công việc và học tập, khắc phục những điểm yếu về tính cách, giữ b́nh tĩnh và tự chủ. Điều trị tâm lư thường hiệu quả hơn dùng thuốc.Tuy nhiên, đối với nhiều cơn đau đầu thứ phát do tổn thương ở các mô và cơ quan lân cận của đầu, điều trị tâm lư đơn thuần sẽ kém hiệu quả, thậm chí không hiệu quả.Do đó, có thể sử dụng một số thuốc giảm đau, giăn mạch và các phương pháp điều trị khác. . Điều trị bằng procain, xoa bóp tại chỗ và vật lư trị liệu đều có hiệu quả.
Đau đầu do căng thẳng là loại phổ biến nhất ở những bệnh nhân đau đầu, v́ vậy việc ngăn ngừa đau đầu do căng thẳng là đặc biệt quan trọng. V́ căn bệnh này liên quan đến t́nh trạng lo lắng, căng thẳng, mệt mỏi kéo dài nên trước tiên bạn phải tránh kích thích tinh thần, sinh hoạt điều độ và cấm hút thuốc, uống rượu. Chứng đau đầu này cũng có thể xảy ra nếu bạn làm việc ở tư thế không tốt trong thời gian dài và các cơ ở đầu, cổ, vai tiếp tục co lại, v́ vậy việc h́nh thành thói quen sinh hoạt tốt và thực hiện các bài tập thể chất phù hợp là rất cần thiết. Đồng thời, đối với những bệnh nhân đau đầu mạn tính kéo dài, ngoài điều trị tâm lư c̣n có thể điều trị bằng thuốc an thần, giảm đau như diazepam, ibuprofen và các thuốc khác.

Chăm sóc đau đầu căng thẳng
Đau đầu căng thẳng phần lớn là do cơn đau do co thắt cơ mặt, cổ, vai dai dẳng và co mạch do trầm cảm hoặc lo âu, liên quan và lan lên đầu. Do diễn biến bệnh kéo dài và áp lực tinh thần của người bệnh nên dạng này h́nh thành một ṿng luẩn quẩn làm t́nh trạng đau đầu của bệnh nhân trở nên trầm trọng hơn, v́ vậy việc chăm sóc đúng cách là đặc biệt quan trọng. Điểm mấu chốt của điều dưỡng là: (1) Nói chuyện với bệnh nhân nhiều hơn, t́m ra các yếu tố gây căng thẳng tinh thần cho bệnh nhân, tích cực giúp loại bỏ và giải quyết chúng, nếu vấn đề không thể giải quyết được, có thể thay đổi tâm t́nh của bệnh nhân bằng cách thay đổi thái độ. môi trường hoặc các hoạt động khác như đi du lịch, tụ tập bạn bè, v.v. Đồng thời giải thích một cách nghiêm túc cho người bệnh về tác hại trực tiếp của cảm xúc xấu đối với bệnh này và nên đối xử với cuộc sống bằng thái độ lạc quan. (2) Bạn phải cân bằng giữa công việc và nghỉ ngơi, tránh mệt mỏi quá mức, ăn uống điều độ, tránh những đồ ăn quá kích thích và cay nóng. Bạn có thể dùng diazepam và thuốc an thần khi khó ngủ. (3) Giám sát bệnh nhân uống thuốc đúng giờ.

Đau đầu do căng thẳng được điều trị bằng y học cổ truyền như thế nào?
Đau đầu do căng thẳng hay c̣n gọi là đau đầu co thắt là do sự co thắt liên tục của các cơ vùng đầu và cổ như cơ trán, cơ thái dương và cơ chẩm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự co thắt và co thắt của các cơ vùng cổ nhưng chúng thường có liên quan với nhau. đến cảm xúc căng thẳng, lo lắng, Liên quan đến sự thiếu kiên nhẫn. Nhức đầu phổ biến hơn ở vùng cổ, chẩm, thái dương và trán và có thể lan ra phía sau. Bệnh nguyên phát phổ biến hơn ở người trẻ tuổi, trong khi bệnh thứ phát phổ biến hơn ở người lớn tuổi bị tổn thương cột sống cổ hoặc do chấn thương. Bản chất của cơn đau đầu là đau âm ỉ, đau ê ẩm hoặc đau nhói, kèm theo cảm giác căng cứng, tê và cảm giác bị đè nặng. Khi vị trí tổn thương thay đổi, cơn đau sẽ trầm trọng hơn, nhiều bệnh nhân có hiện tượng bị cứng cổ và cử động khó khăn. Các cơn đau đầu có thể kéo dài hàng tuần và hàng tháng. Đau đầu có liên quan đến kích thích tinh thần và mệt mỏi, khi lên cơn thường buồn nôn và nôn, thậm chí có thể xuất hiện các triệu chứng như mất ngủ, khó chịu, giảm trí nhớ.

Phân loại hội chứng theo YHCT:
I/ Loại h́nh can uất huyết ứ. Có các chứng trạng như: Đau đầu có điểm đau rơ rệt, đau ở cả hai bên đầu, kèm theo tức ngực, tâm trạng thất thường, hay thở dài, thỉnh thoảng nôn khan, mạch huyền tế, rêu lưỡi màu vàng và mỏng, trên lưỡi có những điểm màu tím.
Trị pháp : Sơ can giải uất, hoạt huyết hóa ứ.
Xử phương: Thang Tiểu sài hồ hợp Xuyên khung trà điều tán gia giảm. Sài hồ, Chỉ xác, Khương Bán hạ, Đạm tử cầm, Đảng sâm, Kinh giới tuệ, Pḥng phong, Xuyên khung, Đương quy mỗi vị 10g, Bạch chỉ 12g, sinh Cam thảo 6g.
II/ Loại Tâm hỏa kháng thịnh (quá mạnh). Các chứng trạng như: Đau đầu như muốn vỡ ra, miệng đắng phiền muộn, sau buổi trưa người nóng bừng, có lúc hồi hộp, mất ngủ hay mơ, nước tiểu lượng ít, có màu đỏ, rêu lưỡi mỏng, đầu lưỡi hồng, mạch tế sác.
Trị pháp: Thanh tâm giáng hỏa, ninh thần lư khiếu
Xử phương: Thang Tả tâm gia giảm. Hoàng liên sao gừng 3g, Bạch thược, pháp Bán hạ, tiêu Sơn chi, Đạu xị, Xuyên khung, Táo nhân mỗi vị 10g, Huyền hồ, Cát căn, Sinh địa mỗi vị 15g, sinh Cam thảo 6g, Huyền sâm 12g.

Châm cứu: Dùng các huyệt: Phong tŕ, Thái dương, Ế phong, Hợp cốc. Vê kim nhiều lần, lưu kim từ 20~30 phút, mỗi ngày 1 lần.
Ly Trường Xuân dịch
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-02-15 15:34:53
ĐAU ĐẦU DO MẠCH MÁU
Tham khảo tư liệu:
Đau đầu do bệnh mạch máu năo được chia thành mấy loại, đặc điểm của đau đầu do xuất huyết năo là ǵ, cơ sở chẩn đoán là ǵ?
Nhức đầu do bệnh mạch máu năo được chia thành hai loại.
(1) Bệnh mạch máu năo xuất huyết (xuất huyết năo, xuất huyết dưới nhện). (2) Bệnh mạch máu năo thiếu máu cục bộ (cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua, nhồi máu năo).
Đặc điểm của nhức đầu do xuất huyết năo là có thể gây đau đầu dữ dội ở giai đoạn đầu chảy máu, lúc này vị trí và tính chất của cơn đau đôi khi có thể tùy thuộc vào vị trí và lượng máu chảy ra, có cảm giác đau trướng theo nhịp đập ở phần chẩm và thái dương cùng bên kèm theo lợm giọng, ẩu thổ. Nếu máu đi vào khoang dưới nhện hoặc năo thất, cơn đau đầu sẽ trầm trọng hơn, biểu hiện là đau dữ dội lan tỏa khắp đầu, thường kèm theo sốt và co giật. Đau đầu thường gặp nhất ở bệnh nhân xuất huyết tiểu năo. Xuất huyết bao trong và xuất huyết cầu năo xảy ra nhanh chóng nên đau đầu hiếm khi là triệu chứng lâm sàng đầu tiên.
Cơ sở chẩn đoán chính là: ① Người trên 50 tuổi bị tăng huyết áp và xơ cứng động mạch. ②Bệnh khởi phát đột ngột khi hoạt động thể chất hoặc khi hưng phấn. ③ Bệnh tiến triển nhanh chóng, ở giai đoạn đầu xuất hiện các triệu chứng tăng áp lực nội sọ như nhức đầu, nôn mửa, rối loạn ư thức xảy ra rất nhanh. ④Có dấu hiệu khu trú của hệ thần kinh. ⑤ Dịch năo tủy có máu và áp lực nội sọ tăng cao. ⑥ Được xác nhận bằng chụp CT và MRI.
Đông y chữa đau đầu do cao huyết áp và xơ cứng động mạch năo như thế nào?
Những cơn đau đầu do cao huyết áp và xơ cứng động mạch năo thường nằm ở phía sau đầu hoặc huyệt thái dương hai bên, chứng đau đầu này thường nặng, âm ỉ hoặc đau trướng, đau theo mạch đập, đặc biệt là vùng sau gáy có cảm giác mạch đập rất rơ rệt. Nhiều bệnh nhân thường bị đau đầu rơ nhất vào buổi sáng thức dậy, đỡ hơn sau khi rửa mặt hoặc ăn sáng và nặng hơn sau khi hoạt động gắng sức hoặc khi tinh thần mệt mỏi, thường kèm theo các chứng trạng như chóng mặt, nặng đầu, có tiếng ông ổng trong năo, ù tai, mất ngủ, vội vă, không tập trung, dễ mệt mỏi và giảm trí nhớ.

Loại h́nh can dương thượng kháng (hưng phấn) : Có biểu hiện như nhức đầu, trướng đầu, mặt hồng mắt đỏ, nóng nảy bực bội, miệng khô muốn uống, đại tiện khô, nước tiểu ngắn màu vàng, mạch huyền hoạt, rêu lưỡi vàng nhờn, Chất lưỡi đỏ sậm.
Trị pháp: Thanh nhiệt tả hỏa giảm đau
Xử phương: Thiên ma câu đằng ẩm gia giảm. Thiên ma, Câu đằng, Đạm tử cầm, Cúc hoa mỗi vị 10g, Thạch quyết minh 15g, Cương tàm 12g, Đỗ trọng 12g, Tang kư sinh 15g, Long đảm thảo 6g, Cam thảo 6g;

Loại h́nh âm hư hỏa vượng: Ngoài chứng trạng đau đầu, c̣n có các chứng trạng như chóng mặt, trống ngực, mất ngủ, hay quên; Rêu lưỡi vàng mỏng, chất lưỡi thiên về màu hồng, mạch huyền tế.
Trị pháp: Tư âm giáng hỏa thanh khiếu.
Xử phương: Sinh địa, Thạch hộc, Sa sâm mỗi vị 15g, Nữ trinh, Đan b́, Trạch tả, Huyền sâm mỗi vị 12g, Mẫu lệ 30g, Bá tử nhân 10g, Xuyên khung 10g, Cát căn 24g.

Loại h́nh âm dương lưỡng hư: Có các biểu hiện gồm đau đầu chóng mặt, mặt hồng trống ngực, mất ngủ hay mơ, tiểu đêm nhiều lần, khi hoạt động thở gấp, tứ chi lạnh và yếu, mạch huyền tế, rêu lưỡi trắng nhờn, chất lưỡi nhạt.
Trị pháp: Dưỡng âm bổ thận lợi năo.
Xử phương: Thang Nhị tiên gia giảm, Tiên linh tỳ, Ba kích thiên, Sinh địa, sinh Bạch thược mỗi vị 15g, Hoàng bá, Tri mẫu, Đương quy, Xuyên khung, Diên hồ sách mỗi vị 10g, sinh Cam thảo 6g.

Châm cứu: Bách hội, Phong tŕ, Túc tam lư, Thái xung, Khúc tŕ, Tam âm giao, Nội quan, Nhân nghênh, Hà gian, Dương lăng tuyền, cân nhắc chọn từ 3~5 huyệt, kích thích mạnh, lưu kim 20 phút, mỗi ngày châm 1 lần. Nếu thuộc âm hư dương kháng, có thể dùng Tâm du,. Cách du, Dũng tuyền, Thái khê, Trung phong, b́nh bổ b́nh tả, cách ngày 1 lần.

Chữa đau đầu do tai biến mạch máu năo bằng y học cổ truyền như thế nào?
Tai biến mạch máu năo, như chúng thường được gọi, bao gồm xuất huyết năo, xuất huyết dưới nhện (thù vơng mạc hạ xoang), huyết khối năo, tắc mạch năo, v.v. Những bệnh này đều gây đau đầu ở các mức độ khác nhau khi bệnh khởi phát.
Trị pháp: Ninh huyết giảm đau, tiềm dương ích thận
Xử phương: Tiên hạc thảo 30g, Câu đằng 30g, Thạch quyết minh, Diên hồ sách, sinh Bạch thược, Sinh địa, Kỷ tử mỗi vị 15g, Cam thảo, Pḥng phong, Xuyên khung mỗi vị 10g, Bạch chỉ 9g, Tam thất 3g.

Đau đầu do thiếu máu cục bộ là chứng đau đầu do huyết khối năo và tắc mạch năo.
Trị pháp: Hoạt huyết hóa đàm, thanh khiếu thông lạc là chính , phụ là bổ thận.
Xử phương: Xuyên khung 12g, Đan sâm 30g, Cát căn 30g, Hồng hoa 10g, Quế chi 6g, Đương quy 10g, Hoàng kỳ sống 15g, Thục địa 15g, Uất kim 10g, Thạch xương bồ 6g, Ngô công 1 con, Hồng táo 15g.

Đối với những người bị đau đầu kèm theo di chứng như liệt nửa người, thông thường có thể dùng Thang Bổ dương hoàn ngũ gia giảm: Hoàng kỳ sống 30g, Xích thược 15g, Đương quy 15g, Đào nhân 10g, Hồng hoa 6g, Địa long 10g, Xuyên khung 6g, Tam thất 3g, Tây thảo 10g, Vương bất lưu hành 10g, Cam thảo 10g. Nói năng khó khăn gia Thạch xương bồ 6g, Viễn chí 10g để trừ đàm lợi khiếu.

Châm cứu: Cần phối hợp với tây dược, trong trường hợp cấp cứu, nếu cơn đau đầu tăng dần, sau đó đột ngột ngất xỉu, lú lẫn, bất tỉnh, ngáy, nghiến răng, nắm chặt tay, đỏ mặt, đại tiện phân cục, cổ họng có đờm, rêu lưỡi dày và nhờn, mạch huyền, chẩn đoán hội chứng YHCT là hội chứng bế (đóng), có thể sử dụng phương pháp kích thích mạnh, châm ra máu tại các tỉnh huyệt, chọn huyệt Nhân trung và Nội quan, vê kim liên tục, sau đó lấy Mười hai huyệt tỉnh , Phong phủ,Khúc tŕ, Bách hội, Thái xung , Phong long, Dũng tuyền, Lao cung, Đại lăng; Nếu bệnh nhân nhắm mắt, há miệng, ngáy, dang rộng hai tay, sắc mặt tái nhợt, đổ mồ hôi và có đờm, chân tay lạnh, mạch tế dục tuyệt, hội chứng YHCT được xếp vào loại thoát chứng, có thể châm huyệt Nhân trung, Bách hội, Dũng tuyền, Thừa tướng, kích thích mức độ vừa, không lưu kim, tiếp tục cứu huyệt Quan nguyên, Túc tam lư, Khí hải, Thần khuyết, dùng phép cứu cách diêm, không hạn đị, các huyệt khác dùng phép kích thích nhẹ và lưu kim.
Sau khi cấp cứu bệnh nhân tỉnh lại, nếu cơn đau đầu vẫn tiếp tục, có thể châm lại vào các huyệt Thái Dương, Phong Tŕ, Đầu duy, Hợp cốc, Liệt khuyết, lưu kim từ 20~30 phút.

Các phương pháp điều trị y học cổ truyền Trung Quốc cho chứng đau đầu do huyết khối xoang nội sọ là ǵ?
Huyết khối xoang nội sọ thường đi kèm với đau đầu dữ dội và sự xuất hiện của nó thường liên quan đến nhiễm trùng. Nó có thể được chia thành đau đầu do huyết khối xoang sigmoid, huyết khối xoang hang và huyết khối xoang dọc trên.
Y học cổ truyền biện chứng trị liệu, dùng phương pháp thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết, tiêu huyết khối, bài thuốc cơ bản là: Kim ngân hoa 30 gam, Liên kiều 20 gam, Huyền sâm 30 gam, Tử hoa địa đinh 30 gam, Đan sâm 20 gam, Bồ công anh 15g, Thất diệp nhất chi hoa 10g, Tử bối thiên quư 10 gam, Cam thảo sống 10g, Xuyên khung 10g, Cát căn 20g.
Châm cứu: Chọn các huyệt Thái Dương, Phong Tŕ, Ế Phong, Đầu duy, Hợp cốc, Tam âm giao, dùng thủ pháp kích thích vừa phải, lưu kim 20 phút.
Ly Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-02-15 15:41:11
ĐAU ĐẦU DO BỆNH Ở MẮT


Nhức đầu nhăn khoa chủ yếu được chia thành:
(1) Bệnh tăng nhăn áp. (2) Viêm màng bồ đào. (3) Viêm màng bồ đào đại năo. (4) Tật khúc xạ. (5) Viêm vơng mạc.

Tham khảo tư liệu:
Những cơn đau đầu do bệnh tăng nhăn áp thường bắt đầu từ từ và thường nằm ở vùng trán, thái dương bên bên mắt bị ảnh hưởng, là những cơn đau kéo dài, dai dẳng hoặc đau âm ỉ. Nhức đầu và đau mắt thường cùng tồn tại, mức độ nhẹ. Một số người cảm thấy buồn nôn, nôn mửa và thời gian cúi đầu kéo dài. Nhức đầu có thể trầm trọng hơn khi bạn nằm sấp trong thời gian dài và do ấn vào nhăn cầu. Khi áp lực nội nhăn tăng mạnh, bạn sẽ bị đau đầu dữ dội, sưng tấy hoặc đau rát, kèm theo những thay đổi rơ rệt ở mắt, sốt, ớn lạnh, tiêu chảy, táo bón và các triệu chứng khác.
Chẩn đoán bệnh tăng nhăn áp dựa trên:
(1) Tăng áp lực nội nhăn một cách bệnh lư, suy nhược nhú thị giác, teo dây thần kinh thị giác, khiếm khuyết thị trường và mất thị lực. (2) Tắc nghẽn hỗn hợp cục bộ, phù giác mạc và giăn đồng tử h́nh bầu dục với biểu hiện màu xanh lục trong mắt. (3) Tiền pḥng rất nông, góc tiền pḥng bị chặn, nhăn cầu cứng như đá. (4) kèm theo đau đầu, đau mắt, buồn nôn và nôn.
Dùng thuốc Đông y chữa đau đầu do bệnh về mắt như thế nào?
Khi các mô và cơ quan lân cận khoang sọ bị bệnh, dù là cấp tính, măn tính, nặng hay nhẹ, đều có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra chứng đau đầu. Đối với các bệnh về mắt cũng vậy, đau đầu thường gặp là do bất thường về khúc xạ và điều tiết, chẳng hạn như viễn thị và cận thị, đau đầu do rối loạn cân bằng cơ mắt, chẳng hạn như bệnh nhân bị lác tiềm ẩn, thường bị yếu do yếu một hoặc một số cơ vận nhăn. Rối loạn cân bằng cơ mắt, đau đầu do glôcôm cấp tính và măn tính.inh, Thục địa
Đối với chứng đau đầu do viễn thị, theo YHCT biện chứng là suy nhược cơ thể và suy thận, phương pháp điều trị nên là bổ thận, cải thiện thị lực. Hoàng kỳ sống 30g, Sinh, Thục địa mỗi vị 15g, Cúc hoa 10g, Trạch tả 15g, Bạch giới tử 10g, Bạch giới tử 10g, Sung úy tử 12g, Mật mông hoa 12g. Châm cứu dùng các huyệt: Thừa khấp, Cầu hậu, Dương bạch phối Thái dương, Toán trúc, dùng thủ pháp kích thích nhẹ nhiều lần sau cùng lưu kim 25 phút, mỗi ngày 1 lần.
Cận thị gây đau đầu, dùng phương pháp Bổ khí dưỡng huyết tráng thận, Dùng Hoàng kỳ 30g, Đan sâm 15g, Huyền sâm 12g, Đảng sâm 15g, Sa sâm 10g, Thăng ma 6g, Đương quy 10g, Bạch thược 10g, Cốc tinh thảo 15g, Thảo quyết minh 15g, Lộ lộ thông 15g. Châm cứu dùng các huyệt như Thừa khấp, Ngư yêu, Ti trúc không, Tinh minh, Toán trúc, Ế phong, Phong tŕ, dùng thủ pháp kích thích vừa, lưu kim 20~30 phút, mỗi ngày 1 lần.

Đối với đau đầu do bệnh tăng nhăn áp cấp tính, phương pháp điều trị bằng y học cổ truyền là nên làm sạch gan và thanh nhiệt để đạt được mục đích hạ nhăn áp, ngăn ngừa tổn thương và điều trị đau đầu. Đơn thuốc cơ bản là: Đại hoàng sống 6g, Long đảm thảo 6g, Huyền sâm 10g, Xa tiền tử 15g, Đương quy 12g, Hoàng cầm 12g, Tri mẫu 12g, Hoài ngưu tất 5g, Huyền minh phấn 10g. Châm cứu có thể dùng các huyệt như Phong tŕ, Thừa khấp, Hợp cốc, kích thích mạnh, không lưu kim, mỗi ngày 1 lần. Ngoài ra c̣n có thể phối Túc tam lư có tác dụng hạ nhăn áp khá tốt.
Chữa bệnh tăng nhăn áp măn tính đơn giản là bổ tỳ, lợi thấp b́nh can. Phương cơ bản: Thạch quyết minh sống 15g, Cúc hoa 9g, Phục linh 12g, Thương Bạch truật mỗi vị 6g, Trư linh 6g, Quế chi 3g. Châm cứu có thể dùng các huyệt như Thái dương, Ấn đường, Hợp cốc, Phong tŕ, Tinh minh, Thừa khấp, Cầu hậu, Kích thích độ vừa, mỗi lần tuyển chọn 2~3 huyệt, châm cách ngày một lần.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-02-15 16:01:40
ĐAU ĐẦU DO BỆNH Ở TAI

Tham khảo tư liệu:
Các đặc điểm của đau đầu do tai là ǵ?
Nhức đầu do bệnh về tai được gọi là đau đầu do tai. Các bệnh về tai gây đau đầu như viêm tai giữa cấp tính, viêm xương chũm cấp tính, sưng ống tai ngoài, khởi phát cấp tính của viêm tai giữa măn tính và ung thư tai giữa thường ít gặp hơn.
Tai có sự phân bố thần kinh rất phong phú, chủ yếu được chi phối bởi nhánh tai thái dương của nhánh hàm dưới của dây thần kinh tam thoa, nhánh cảm giác của dây thần kinh mặt, nhánh nhĩ của dây thần kinh thiệt hầu, nhánh tai của dây thần kinh phế vị và nhánh tai của dây thần kinh phế vị. Ba đôi dây thần kinh cổ phía trên, v́ vậy khi các đầu dây thần kinh trên bị kích thích sẽ xuất hiện cơn đau kịch liệt không thể chịu nổi.
Đặc điểm của nhức đầu do tai là: Có thể gây đau đầu cục bộ ở tai bị ảnh hưởng, đôi khi lan sang thái dương cùng bên, đỉnh, chẩm hoặc thậm chí toàn bộ nửa đầu; Tính chất của cơn đau chủ yếu là theo nhịp đập và dai dẳng, và đôi khi nó cũng có thể bị đau trướng, đau từng cơn, đau dữ dội và đôi khi không thể chịu nổi. Khi cơn đau đầu xảy ra nghiêm trọng, thay đổi tính chất, lan rộng theo vị trí và kèm theo buồn nôn, nôn, sốt hoặc một số tổn thương ở hệ thần kinh, điều đó thường cho thấy sự xuất hiện của các biến chứng nội sọ.

Viêm tai giữa mủ cấp gây đau đầu như thế nào và cách điều trị?
Bệnh gây đau đầu chủ yếu ở giai đoạn tiết dịch, do viêm mủ xảy ra ở niêm mạc khoang tai giữa trong thời kỳ viêm tai giữa mủ cấp tính, trường hợp nặng hoặc bệnh kéo dài có thể viêm ở lớp dưới niêm mạc và màng xương, viêm tiết dịch ở màng nhĩ các dị vật tích tụ và áp suất tăng dần, chèn ép trực tiếp vào màng nhĩ, gây đau sâu trong ống tai, trường hợp nặng có thể đau theo nhịp đập hoặc đau nhói. Sự kích thích các nhánh dây thần kinh tam thoa và các đầu dây thần kinh tai thái dương trên đám rối nhĩ và bề mặt màng nhĩ gây đau lan ra vùng thái dương-đỉnh-chẩm cùng bên, đau chủ yếu dai dẳng và theo mạch đập.
Đau tai là triệu chứng lâm sàng sớm và kịch liệt, khi thủng màng nhĩ hoặc rạch và dẫn lưu màng nhĩ th́ cơn đau sẽ giảm dần. Tiếp theo là điếc, ù tai, chóng mặt, những triệu chứng này thường bị cơn đau tai che lấp ở giai đoạn đầu và dễ bị bỏ qua. Các triệu chứng toàn thân khác nhau tùy thuộc vào sức đề kháng của bệnh nhân và độc lực của vi khuẩn lây nhiễm, và thường bao gồm ớn lạnh, sốt, khó chịu nói chung và chán ăn.
Đặc điểm của đau đầu được biểu hiện ở giai đoạn đầu khởi phát, trước tiên là đau tai dữ dội, sau đó lan xuống vùng thái dương, đỉnh và chẩm trên cùng một bên tai bị ảnh hưởng, gây đau đầu nửa người không thể chịu nổi. Khi màng nhĩ bị thủng, mủ tràn ra, áp suất trong màng nhĩ giảm xuống, cơn đau trong tai lập tức thuyên giảm, cơn đau đầu giảm bớt hoặc biến mất.
Viêm tai giữa mủ cấp được điều trị theo 2 bước: (1) Điều trị toàn thân: Tích cực điều trị nguyên nhân để ngăn ngừa biến chứng. Sử dụng kháng sinh nhạy cảm sớm để kiểm soát nhiễm trùng và ngăn ngừa bệnh chuyển sang viêm tai giữa măn tính. (2) Điều trị tại chỗ: Trước khi thủng màng nhĩ, nhỏ 2% glycerin phenolic vào ống tai để giảm đau tai và thúc đẩy quá tŕnh giải quyết t́nh trạng viêm cục bộ. Sau khi màng nhĩ được đục lỗ, mục đích là để duy tŕ hệ thống thoát nước tốt. Làm sạch tại chỗ và bôi thuốc có thể giúp xác định vị trí và giảm viêm. Nếu điều kiện cho phép, vật lư trị liệu có thể được sử dụng để giúp giảm đau, giảm viêm và rút ngắn quá tŕnh bệnh.

Đông y chữa đau đầu do bệnh tai như thế nào?
Bệnh nhân viêm tai giữa cấp tính mủ, viêm xương chũm cấp tính, viêm tai giữa cấp tính cấp tính đều có thể gây đau đầu, đau đầu do viêm tai giữa cấp tính thường sử dụng trị pháp: Thanh nhiệt, giải độc. Với Kim ngân hoa 20g, Hổ nhĩ thảo 15g, Xuyên khung 19g, Liên kiều 10g, Xuyên tâm liên 10g, Hàng cúc hoa 10g, Thổ phục linh 10g, Cam thảo 6g, dă Bách hợp 10g.
Viêm tai giữa mạn tính gây đau đầu có thể dùng phép Tư âm giáng hỏa, dùng Tri mẫu 12g, Hoàng bá 10g, Đương quy 10g, Xích thược 10g, Thục địa 10g, Miết giáp 10g. Hoàng liên tẩm nước gừng 3g, Cam thảo 6g. Đau đầu kịch liệt gia Mạn kinh tử 10g, Xuyên khung 10g, Hồng hoa 3g.
Châm cứu: Dùng huyệt Ế minh, Hợp cốc, Hạ quan, Khúc tŕ kích thích độ vừa, lưu kim 20 phút, mỗi ngày 1 lần, liệu tŕnh 7 ngày.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-02-18 00:04:50
CHỨNG ĐAU ĐẦU DO CĂNG THẲNG


Tư liệu:
Các loại đau đầu căng thẳng là ǵ?
Đau đầu do căng thẳng có thể được chia thành các loại sau:
(1) Đau đầu căng thẳng từng đợt: ① Đau đầu căng thẳng từng đợt liên quan đến bệnh cơ quanh sọ; ② Đau đầu căng thẳng từng đợt không liên quan đến bệnh cơ quanh sọ.
(2) Đau đầu căng thẳng mạn tính: ① Đau đầu căng thẳng mạn tính liên quan đến bệnh cơ quanh sọ; ② Đau đầu căng thẳng mạn tính không liên quan đến bệnh cơ quanh sọ.
(3) Đau đầu căng thẳng không đáp ứng các tiêu chí trên.
Làm thế nào để ngăn ngừa và điều trị chứng đau đầu do căng cơ?
Đau đầu do trương lực cơ là một trong những loại đau đầu mạn tính thường gặp nhất, đau đầu thường liên quan đến yếu tố nghề nghiệp và tinh thần như cúi đầu làm việc lâu dài tại bàn làm việc, tư thế đặc biệt của người bệnh khi làm việc gây ra sự co thắt lâu dài của hộp sọ. và cơ cổ, suy nghĩ lo lắng, lo lắng, Khó chịu và mất ngủ thường làm cơn đau đầu trở nên trầm trọng hơn. Nguyên tắc pḥng ngừa và điều trị là loại bỏ nguyên nhân và loại bỏ các triệu chứng.
(1) Điều trị tâm lư: Người bệnh thường bị đau đầu kéo dài nhưng không nhận được sự thông cảm và điều trị hiệu quả, hơn nữa, sự lo lắng, lo lắng về chứng đau đầu khiến t́nh trạng đau đầu ngày càng trầm trọng và kéo dài diễn biến của bệnh. Các thày thuốc nên kiên nhẫn lắng nghe những lời phàn nàn của bệnh nhân với thái độ thông cảm và quan tâm, đồng thời thông qua việc khám sức khỏe cẩn thận và một số xét nghiệm phụ trợ cần thiết, loại bỏ nỗi lo lắng của bệnh nhân rằng ḿnh mắc bệnh nan y. Giúp bệnh nhân điều trị và xử lư đúng đắn các xung đột khác nhau gặp phải trong công việc và cuộc sống, đồng thời loại bỏ các nguyên nhân gây lo âu, trầm cảm, căng thẳng lâu dài là những yếu tố quan trọng để điều trị thành công.
(2) Ngăn ngừa và điều chỉnh các tư thế xấu: Những người làm việc trí óc lâu ngày tại bàn làm việc như giáo viên, bác sĩ, trí thức, nhân viên khoa học kỹ thuật; những người làm công việc may vá, lái xe, v.v. nên chọn bàn cao và ghế thấp để tránh cúi đầu vào bàn làm việc quá lâu và các tư thế bất thường khác. Sự co thắt liên tục của cơ đầu, cổ và vai dẫn đến rối loạn tuần hoàn máu và thiếu máu cục bộ ở cơ, nguyên nhân thứ phát gây ra sự tích tụ cục bộ các chất gây đau như kali, axit lactic, 5-hydroxytryptamine và bradykinin, dẫn đến đau đầu do trương lực cơ. .
(4) Vật lư trị liệu: Mục đích là nhằm thúc đẩy sự thư giăn của các cơ đang căng thẳng, cải thiện lưu thông máu ở cơ đầu và cổ, đồng thời giảm sự tích tụ cục bộ của các chất gây đau. Ví dụ, xoa bóp và vật lư trị liệu được thực hiện trên các cơ ở đầu và cổ; điều trị bằng châm cứu được thực hiện với kỹ thuật kích thích vừa phải.
(5) Các phương pháp khác. Tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao phù hợp. Khuyên bệnh nhân ngừng uống rượu và hút thuốc, và sống một cuộc sống b́nh thường. Thực hiện các bài tập đầu và cổ. Nếu cần thiết, hăy thực hiện liệu pháp phong bế huyệt và phong bế thần kinh.

Nguyên nhân gây đau đầu căng thẳng là ǵ và nó phát triển như thế nào?
Đau đầu do căng thẳng, c̣n được gọi là đau đầu do co cơ, là t́nh trạng tương đối phổ biến. Nguyên nhân là do các cơ vùng đầu cổ như cơ trán, cơ thái dương, cơ chẩm co thắt liên tục, có nhiều nguyên nhân dẫn đến t́nh trạng cơ đầu cổ co thắt liên tục nhưng rất dễ xảy ra khi bạn đang cảm thấy lo lắng, lo lắng hoặc thiếu kiên nhẫn nên gọi là đau đầu do căng thẳng. Nhức đầu là sưng tấy, đau hoặc căng cứng. Cơn đau chủ yếu nằm ở vùng trán hoặc thái dương, đôi khi chỉ giới hạn ở một bên. Nếu khó chịu ở cổ thường bị phàn nàn ở vùng chẩm, khi khám có thể phát hiện vùng cổ bị co thắt, và các lần khám khác không t́m thấy bất thường.
Như đă đề cập ở trên, bất kỳ nguyên nhân nào gây ra co thắt và co thắt kéo dài ở vùng trán, cơ thái dương, cơ chẩm và các cơ đầu và cổ khác đều có thể dẫn đến đau đầu do căng thẳng. V́ vậy, một số tư thế nghề nghiệp đặc biệt, chẳng hạn như cúi đầu xuống bàn làm việc trong thời gian dài và bất kỳ sự kích thích có hại nào ở các mô và cơ quan lân cận khoang sọ đều có thể gây co thắt cơ ở các mô cục bộ hoặc lân cận, dẫn đến đau đầu co thắt cơ đầu và cổ, và tất nhiên là cảm xúc bất ổn, lo lắng và căng thẳng, v.v. T́nh trạng này dễ gây ra các cơn đau đầu hơn.
Dây thần kinh chẩm đi qua các cơ và màng vùng cổ nên khi cổ bị duỗi quá mức, bị xoắn hoặc co thắt cơ, các dây thần kinh này bị kích thích, gây hưng phấn, đau đầu phản xạ, sau đó là đau vùng trán và thái dương. Cơ chế bệnh sinh được thể hiện ở Dưới: Co cơ và co mạch liên tục do biến đổi khí hậu, thay đổi tinh thần, căng cổ,… khiến tuần hoàn kém và sản sinh ra các chất gây đau.

Đau đầu do căng thẳng có giống như chứng đau nửa đầu và đau đầu do suy nhược thần kinh không? Nên phân biệt với loại đau đầu nào?
Đau đầu do căng thẳng khác với chứng đau nửa đầu. Đau đầu do căng thẳng là cơn đau sâu không theo mạch đập, phổ biến hơn ở vùng chẩm, thái dương, trán và các bộ phận khác của cơ thể, có thể lan đến cổ, vai và lưng. Nó có đặc điểm là căng cứng, tê và bị đè nặng. Cảm giác, đau âm ỉ, đau ê ẩm, đau nhói hoặc đau như bị kéo co thắt, có thể trầm trọng hơn khi quay đầu, đặc biệt là các cơ ở vai và lưng. Bệnh nhân thường cảm thấy cứng ở đầu và cổ , hoạt động khó khăn, mệt mỏi, thậm chí đau nặng hơn khi cử động nhẹ. Nếu bạn xoa bóp hoặc gơ nhẹ vào vùng đó bằng nắm tay, bạn sẽ cảm thấy rất thư giăn hoặc cơn đau được thuyên giảm. Một số trường hợp là vùng da trên da đầu hoặc vai và lưng sẽ có cảm giác tŕ độn không nhạy bén, một số vùng da sẽ lại có cảm giác quá mẫn cảm, nếu chạm hoặc kéo tóc sẽ cảm thấy da đầu rất đau, kéo dài vài tháng hoặc lâu hơn. Mặt khác, chứng đau nửa đầu biểu hiện đau ở một hoặc cả hai bên, chủ yếu là đau nhói vùng trán, kèm theo các triệu chứng của hệ thần kinh tự chủ như buồn nôn, nôn và da nhợt nhạt, và được điều trị hiệu quả bằng ergotamine.
Một số bệnh nhân đau đầu thường kèm theo mất ngủ, cáu kỉnh, cáu kỉnh, trầm cảm, giảm trí nhớ,… Đôi khi rất khó phân biệt với đau đầu do suy nhược thần kinh, trong trường hợp này cần phải khám thực thể chi tiết. Trong chứng đau đầu do suy nhược thần kinh, thường không t́m thấy những thay đổi hữu cơ, trong khi với chứng đau đầu do căng thẳng, khám thực thể thường có thể phát hiện t́nh trạng căng cơ ở cổ, vai và lưng và có cảm giác đau nhức rơ ràng khi chạm vào các bộ phận. Nếu đau đầu căng thẳng thứ phát do tổn thương cột sống cổ, chấn thương, kích thích các mô và cơ quan gần đầu cổ như mắt, tai, mũi, họng, răng, tổn thương da đầu, hộp sọ th́ có thể xuất hiện các triệu chứng cục bộ trên đầu và mặt.
Đối với những cơn đau đầu mạn tính kéo dài mà không có dấu hiệu đặc biệt trong các cuộc kiểm tra khác nhau, nên xem xét đau đầu do căng thẳng. Ngoài việc phân biệt với chứng đau nửa đầu, cơn đau đầu này cũng cần được phân biệt với đau đầu do tổn thương thực thể ở chẩm atlanto, cột sống cổ, cạnh đốt sống là các bệnh có tính khí chất gây ra chứng đau ở phía sau đầu. Chứng đau đầu do suy nhược thần kinh, ư bệnh (Hysteria) và các bệnh nội tạng khác, trên cơ sở thời gian đau đầu kéo dài xuất hiện chứng đau đầu có tính căng thẳng, cũng nên chú ư phân biệt. Thông qua việc t́m hiểu , tính chất, bộ vị, thời gian đau đầu, các chứng trạng kèm theo và các nhân tố tăng nặng hoặc giảm nhẹ của chứng đau đầu, có thể phân biệt, đồng thời c̣n phải phân biệt giám định với chứng đau đầu song tập (丛集性头痛) (Cluster headache) là đau đầu chùm và các chứng đau đầu do bệnh ở năo gây ra để tạo thuận lợi trong điều trị bệnh.

Điều trị tâm lư đau đầu do căng thẳng có hiệu quả không, pḥng ngừa và điều trị như thế nào?
V́ nhiều cơn đau đầu do căng thẳng có liên quan đến căng thẳng cảm xúc, lo lắng, thiếu kiên nhẫn, v.v. nên việc điều trị tâm lư sẽ có hiệu quả. Đối với loại đau đầu này, có thể tư vấn tâm lư để giúp bệnh nhân điều trị và xử lư chính xác các vấn đề gặp phải trong công việc và học tập, khắc phục những điểm yếu về tính cách, giữ b́nh tĩnh và tự chủ. Điều trị tâm lư thường hiệu quả hơn dùng thuốc.Tuy nhiên, đối với nhiều cơn đau đầu thứ phát do tổn thương ở các mô và cơ quan lân cận của đầu, điều trị tâm lư đơn thuần sẽ kém hiệu quả, thậm chí không hiệu quả.Do đó, có thể sử dụng một số thuốc giảm đau, giăn mạch và các phương pháp điều trị khác.
Đau đầu do căng thẳng là loại phổ biến nhất ở những bệnh nhân đau đầu, v́ vậy việc ngăn ngừa đau đầu do căng thẳng là đặc biệt quan trọng. V́ căn bệnh này liên quan đến t́nh trạng lo lắng, căng thẳng, mệt mỏi kéo dài nên trước tiên bạn phải tránh kích thích tinh thần, sinh hoạt điều độ và cấm hút thuốc, uống rượu. Chứng đau đầu này cũng có thể xảy ra nếu bạn làm việc ở tư thế không tốt trong thời gian dài và các cơ ở đầu, cổ, vai tiếp tục co lại, v́ vậy việc h́nh thành thói quen sinh hoạt tốt và thực hiện các bài tập thể chất phù hợp là rất cần thiết.

Chăm sóc đau đầu căng thẳng
Đau đầu căng thẳng phần lớn là do cơn đau do co thắt cơ mặt, cổ, vai dai dẳng và co mạch do trầm cảm hoặc lo âu, liên quan và lan lên đầu. Do diễn biến bệnh kéo dài và áp lực tinh thần của người bệnh nên dạng này h́nh thành một ṿng luẩn quẩn làm t́nh trạng đau đầu của bệnh nhân trở nên trầm trọng hơn, v́ vậy việc chăm sóc đúng cách là đặc biệt quan trọng. Điểm mấu chốt của điều dưỡng là: (1) Nói chuyện với bệnh nhân nhiều hơn, t́m ra các yếu tố gây căng thẳng tinh thần cho bệnh nhân, tích cực giúp loại bỏ và giải quyết chúng, nếu vấn đề không thể giải quyết được, có thể thay đổi tâm t́nh của bệnh nhân bằng cách thay đổi thái độ. môi trường hoặc các hoạt động khác như đi du lịch, tụ tập bạn bè, v.v. Đồng thời giải thích một cách nghiêm túc cho người bệnh về tác hại trực tiếp của cảm xúc xấu đối với bệnh này và nên đối xử với cuộc sống bằng thái độ lạc quan. (2) Bạn phải cân bằng giữa công việc và nghỉ ngơi, tránh mệt mỏi quá mức, ăn uống điều độ, tránh những đồ ăn quá kích thích và cay nóng.

Đau đầu do căng thẳng được điều trị bằng y học cổ truyền như thế nào?
Đau đầu do căng thẳng hay c̣n gọi là đau đầu co thắt là do sự co thắt liên tục của các cơ vùng đầu và cổ như cơ trán, cơ thái dương và cơ chẩm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự co thắt và co thắt của các cơ vùng cổ nhưng chúng thường có liên quan với nhau. đến cảm xúc căng thẳng, lo lắng, Liên quan đến sự thiếu kiên nhẫn. Nhức đầu phổ biến hơn ở vùng cổ, chẩm, thái dương và trán và có thể lan ra phía sau. Bệnh nguyên phát phổ biến hơn ở người trẻ tuổi, trong khi bệnh thứ phát phổ biến hơn ở người lớn tuổi bị tổn thương cột sống cổ hoặc do chấn thương. Bản chất của cơn đau đầu là đau âm ỉ, đau ê ẩm hoặc đau nhói, kèm theo cảm giác căng cứng, tê và cảm giác bị đè nặng. Khi vị trí tổn thương thay đổi, cơn đau sẽ trầm trọng hơn, nhiều bệnh nhân có hiện tượng bị cứng cổ và cử động khó khăn. Các cơn đau đầu có thể kéo dài hàng tuần và hàng tháng. Đau đầu có liên quan đến kích thích tinh thần và mệt mỏi, khi lên cơn thường buồn nôn và nôn, thậm chí có thể xuất hiện các triệu chứng như mất ngủ, khó chịu, giảm trí nhớ.

Phân loại hội chứng theo YHCT:
I/ Loại h́nh can uất huyết ứ. Có các chứng trạng như: Đau đầu có điểm đau rơ rệt, đau ở cả hai bên đầu, kèm theo tức ngực, tâm trạng thất thường, hay thở dài, thỉnh thoảng nôn khan, mạch huyền tế, rêu lưỡi màu vàng và mỏng, trên lưỡi có những điểm màu tím.
Trị pháp : Sơ can giải uất, hoạt huyết hóa ứ.
Xử phương: Thang Tiểu sài hồ hợp Xuyên khung trà điều tán gia giảm. Sài hồ, Chỉ xác, Khương Bán hạ, Đạm tử cầm, Đảng sâm, Kinh giới tuệ, Pḥng phong, Xuyên khung, Đương quy mỗi vị 10g, Bạch chỉ 12g, sinh Cam thảo 6g.
II/ Loại Tâm hỏa kháng thịnh (quá mạnh). Các chứng trạng như: Đau đầu như muốn vỡ ra, miệng đắng phiền muộn, sau buổi trưa người nóng bừng, có lúc hồi hộp, mất ngủ hay mơ, nước tiểu lượng ít, có màu đỏ, rêu lưỡi mỏng, đầu lưỡi hồng, mạch tế sác.
Trị pháp: Thanh tâm giáng hỏa, ninh thần lư khiếu
Xử phương: Thang Tả tâm gia giảm. Hoàng liên sao gừng 3g, Bạch thược, pháp Bán hạ, tiêu Sơn chi, Đạu xị, Xuyên khung, Táo nhân mỗi vị 10g, Huyền hồ, Cát căn, Sinh địa mỗi vị 15g, sinh Cam thảo 6g, Huyền sâm 12g.

Châm cứu: Dùng các huyệt: Phong tŕ, Thái dương, Ế phong, Hợp cốc. Vê kim nhiều lần, lưu kim từ 20~30 phút, mỗi ngày 1 lần.
Ly Trường Xuân dịch
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-02-18 00:06:47
ĐAU ĐẦU DO MẠCH MÁU
Đau đầu do mạch máu

Đau đầu do mạch máu đề cập đến những cơn đau đầu liên quan đến rối loạn mạch máu.
Bao gồm:
① Bệnh mạch máu năo thiếu máu cục bộ cấp tính: Cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua; Bệnh mạch máu năo do huyết khối.
② Máu tụ nội sọ: Máu tụ dưới màng cứng; Máu tụ ngoài màng cứng.
③ Xuất huyết dưới thù vơng mạc.
④ Mạch máu dị dạng chưa vỡ: Dị dạng động tĩnh mạch; chứng ph́nh động mạch trong nang.
⑤ Viêm động mạch: Viêm động mạch tế bào khổng lồ; Viêm mạch máu hệ thống khác; Viêm động mạch nội sọ nguyên phát.
⑥ Đau động mạch cảnh hoặc động mạch đốt sống: Tắc nghẽn động mạch cảnh hoặc động mạch đốt sống; Đau động mạch cảnh (nguyên phát); đau đầu sau khi cắt bỏ nội mạc động mạch.
⑦ H́nh thành huyết khối tĩnh mạch.
⑧ Tăng huyết áp động mạch: Phản ứng cấp tính với các chất ngoại sinh; U tế bào ưa crôm; Tăng huyết áp ác tính; tiền sản giật và sản giật.
⑨Đau đầu liên quan đến các bệnh lư mạch máu khác.

Tham khảo tư liệu:
Đau đầu do bệnh mạch máu năo được chia thành mấy loại, đặc điểm của đau đầu do xuất huyết năo là ǵ, cơ sở chẩn đoán là ǵ?
Nhức đầu do bệnh mạch máu năo được chia thành hai loại.
(1) Bệnh mạch máu năo xuất huyết (xuất huyết năo, xuất huyết dưới nhện). (2) Bệnh mạch máu năo thiếu máu cục bộ (cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua, nhồi máu năo).
Đặc điểm của nhức đầu do xuất huyết năo là có thể gây đau đầu dữ dội ở giai đoạn đầu chảy máu, lúc này vị trí và tính chất của cơn đau đôi khi có thể tùy thuộc vào vị trí và lượng máu chảy ra, có cảm giác đau trướng theo nhịp đập ở phần chẩm và thái dương cùng bên kèm theo lợm giọng, ẩu thổ. Nếu máu đi vào khoang dưới nhện hoặc năo thất, cơn đau đầu sẽ trầm trọng hơn, biểu hiện là đau dữ dội lan tỏa khắp đầu, thường kèm theo sốt và co giật. Đau đầu thường gặp nhất ở bệnh nhân xuất huyết tiểu năo. Xuất huyết bao trong và xuất huyết cầu năo xảy ra nhanh chóng nên đau đầu hiếm khi là triệu chứng lâm sàng đầu tiên.
Cơ sở chẩn đoán chính là: ① Người trên 50 tuổi bị tăng huyết áp và xơ cứng động mạch. ②Bệnh khởi phát đột ngột khi hoạt động thể chất hoặc khi hưng phấn. ③ Bệnh tiến triển nhanh chóng, ở giai đoạn đầu xuất hiện các triệu chứng tăng áp lực nội sọ như nhức đầu, nôn mửa, rối loạn ư thức xảy ra rất nhanh. ④Có dấu hiệu khu trú của hệ thần kinh. ⑤ Dịch năo tủy có máu và áp lực nội sọ tăng cao. ⑥ Được xác nhận bằng chụp CT và MRI.
Đông y chữa đau đầu do cao huyết áp và xơ cứng động mạch năo như thế nào?
Những cơn đau đầu do cao huyết áp và xơ cứng động mạch năo thường nằm ở phía sau đầu hoặc huyệt thái dương hai bên, chứng đau đầu này thường nặng, âm ỉ hoặc đau trướng, đau theo mạch đập, đặc biệt là vùng sau gáy có cảm giác mạch đập rất rơ rệt. Nhiều bệnh nhân thường bị đau đầu rơ nhất vào buổi sáng thức dậy, đỡ hơn sau khi rửa mặt hoặc ăn sáng và nặng hơn sau khi hoạt động gắng sức hoặc khi tinh thần mệt mỏi, thường kèm theo các chứng trạng như chóng mặt, nặng đầu, có tiếng ông ổng trong năo, ù tai, mất ngủ, vội vă, không tập trung, dễ mệt mỏi và giảm trí nhớ.

Loại h́nh can dương thượng kháng (hưng phấn) : Có biểu hiện như nhức đầu, trướng đầu, mặt hồng mắt đỏ, nóng nảy bực bội, miệng khô muốn uống, đại tiện khô, nước tiểu ngắn màu vàng, mạch huyền hoạt, rêu lưỡi vàng nhờn, Chất lưỡi đỏ sậm.
Trị pháp: Thanh nhiệt tả hỏa giảm đau
Xử phương: Thiên ma câu đằng ẩm gia giảm. Thiên ma, Câu đằng, Đạm tử cầm, Cúc hoa mỗi vị 10g, Thạch quyết minh 15g, Cương tàm 12g, Đỗ trọng 12g, Tang kư sinh 15g, Long đảm thảo 6g, Cam thảo 6g;

Loại h́nh âm hư hỏa vượng: Ngoài chứng trạng đau đầu, c̣n có các chứng trạng như chóng mặt, trống ngực, mất ngủ, hay quên; Rêu lưỡi vàng mỏng, chất lưỡi thiên về màu hồng, mạch huyền tế.
Trị pháp: Tư âm giáng hỏa thanh khiếu.
Xử phương: Sinh địa, Thạch hộc, Sa sâm mỗi vị 15g, Nữ trinh, Đan b́, Trạch tả, Huyền sâm mỗi vị 12g, Mẫu lệ 30g, Bá tử nhân 10g, Xuyên khung 10g, Cát căn 24g.

Loại h́nh âm dương lưỡng hư: Có các biểu hiện gồm đau đầu chóng mặt, mặt hồng trống ngực, mất ngủ hay mơ, tiểu đêm nhiều lần, khi hoạt động thở gấp, tứ chi lạnh và yếu, mạch huyền tế, rêu lưỡi trắng nhờn, chất lưỡi nhạt.
Trị pháp: Dưỡng âm bổ thận lợi năo.
Xử phương: Thang Nhị tiên gia giảm, Tiên linh tỳ, Ba kích thiên, Sinh địa, sinh Bạch thược mỗi vị 15g, Hoàng bá, Tri mẫu, Đương quy, Xuyên khung, Diên hồ sách mỗi vị 10g, sinh Cam thảo 6g.

Châm cứu: Bách hội, Phong tŕ, Túc tam lư, Thái xung, Khúc tŕ, Tam âm giao, Nội quan, Nhân nghênh, Hà gian, Dương lăng tuyền, cân nhắc chọn từ 3~5 huyệt, kích thích mạnh, lưu kim 20 phút, mỗi ngày châm 1 lần. Nếu thuộc âm hư dương kháng, có thể dùng Tâm du,. Cách du, Dũng tuyền, Thái khê, Trung phong, b́nh bổ b́nh tả, cách ngày 1 lần.

Chữa đau đầu do tai biến mạch máu năo bằng y học cổ truyền như thế nào?
Tai biến mạch máu năo, như chúng thường được gọi, bao gồm xuất huyết năo, xuất huyết dưới nhện (thù vơng mạc hạ xoang), huyết khối năo, tắc mạch năo, v.v. Những bệnh này đều gây đau đầu ở các mức độ khác nhau khi bệnh khởi phát.
Trị pháp: Ninh huyết giảm đau, tiềm dương ích thận
Xử phương: Tiên hạc thảo 30g, Câu đằng 30g, Thạch quyết minh, Diên hồ sách, sinh Bạch thược, Sinh địa, Kỷ tử mỗi vị 15g, Cam thảo, Pḥng phong, Xuyên khung mỗi vị 10g, Bạch chỉ 9g, Tam thất 3g.

Đau đầu do thiếu máu cục bộ là chứng đau đầu do huyết khối năo và tắc mạch năo.
Trị pháp: Hoạt huyết hóa đàm, thanh khiếu thông lạc là chính , phụ là bổ thận.
Xử phương: Xuyên khung 12g, Đan sâm 30g, Cát căn 30g, Hồng hoa 10g, Quế chi 6g, Đương quy 10g, Hoàng kỳ sống 15g, Thục địa 15g, Uất kim 10g, Thạch xương bồ 6g, Ngô công 1 con, Hồng táo 15g.

Đối với những người bị đau đầu kèm theo di chứng như liệt nửa người, thông thường có thể dùng Thang Bổ dương hoàn ngũ gia giảm: Hoàng kỳ sống 30g, Xích thược 15g, Đương quy 15g, Đào nhân 10g, Hồng hoa 6g, Địa long 10g, Xuyên khung 6g, Tam thất 3g, Tây thảo 10g, Vương bất lưu hành 10g, Cam thảo 10g. Nói năng khó khăn gia Thạch xương bồ 6g, Viễn chí 10g để trừ đàm lợi khiếu.

Châm cứu: Cần phối hợp với tây dược, trong trường hợp cấp cứu, nếu cơn đau đầu tăng dần, sau đó đột ngột ngất xỉu, lú lẫn, bất tỉnh, ngáy, nghiến răng, nắm chặt tay, đỏ mặt, đại tiện phân cục, cổ họng có đờm, rêu lưỡi dày và nhờn, mạch huyền, chẩn đoán hội chứng YHCT là hội chứng bế (đóng), có thể sử dụng phương pháp kích thích mạnh, châm ra máu tại các tỉnh huyệt, chọn huyệt Nhân trung và Nội quan, vê kim liên tục, sau đó lấy Mười hai huyệt tỉnh , Phong phủ,Khúc tŕ, Bách hội, Thái xung , Phong long, Dũng tuyền, Lao cung, Đại lăng; Nếu bệnh nhân nhắm mắt, há miệng, ngáy, dang rộng hai tay, sắc mặt tái nhợt, đổ mồ hôi và có đờm, chân tay lạnh, mạch tế dục tuyệt, hội chứng YHCT được xếp vào loại thoát chứng, có thể châm huyệt Nhân trung, Bách hội, Dũng tuyền, Thừa tướng, kích thích mức độ vừa, không lưu kim, tiếp tục cứu huyệt Quan nguyên, Túc tam lư, Khí hải, Thần khuyết, dùng phép cứu cách diêm, không hạn đị, các huyệt khác dùng phép kích thích nhẹ và lưu kim.
Sau khi cấp cứu bệnh nhân tỉnh lại, nếu cơn đau đầu vẫn tiếp tục, có thể châm lại vào các huyệt Thái Dương, Phong Tŕ, Đầu duy, Hợp cốc, Liệt khuyết, lưu kim từ 20~30 phút.

Các phương pháp điều trị y học cổ truyền Trung Quốc cho chứng đau đầu do huyết khối xoang nội sọ là ǵ?
Huyết khối xoang nội sọ thường đi kèm với đau đầu dữ dội và sự xuất hiện của nó thường liên quan đến nhiễm trùng. Nó có thể được chia thành đau đầu do huyết khối xoang sigmoid, huyết khối xoang hang và huyết khối xoang dọc trên.
Y học cổ truyền biện chứng trị liệu, dùng phương pháp thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết, tiêu huyết khối, bài thuốc cơ bản là: Kim ngân hoa 30 gam, Liên kiều 20 gam, Huyền sâm 30 gam, Tử hoa địa đinh 30 gam, Đan sâm 20 gam, Bồ công anh 15g, Thất diệp nhất chi hoa 10g, Tử bối thiên quư 10 gam, Cam thảo sống 10g, Xuyên khung 10g, Cát căn 20g.
Châm cứu: Chọn các huyệt Thái Dương, Phong Tŕ, Ế Phong, Đầu duy, Hợp cốc, Tam âm giao, dùng thủ pháp kích thích vừa phải, lưu kim 20 phút.
Ly Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-02-18 00:08:45
ĐAU ĐẦU DO TRÚNG ĐỘC


Đau đầu do nhiễm độc không phải là một phân loại được tiêu chuẩn hóa quốc tế và có nhiều nguyên nhân. T́nh trạng thiếu oxy là một yếu tố rất quan trọng.
Nhức đầu có thể do ngộ độc do làm việc hoặc tiếp xúc với kim loại và hóa chất như ch́, mangan, benzen, rượu và carbon monoxide. Ngoài ra, nghiện thuốc lá, rượu, ô nhiễm môi trường, thiếu thông khí, thiếu oxy cũng có thể gây đau đầu, thường gây giăn mạch. Thường biểu hiện bằng cơn đau nhói măn tính ở đầu. Nói chung không bị ảnh hưởng bởi chuyển động đầu. Rối loạn chuyển hóa trong cơ thể như suy gan, suy thận, tích tụ các chất chuyển hóa trong cơ thể có thể gây ngộ độc, đau đầu.
Tham khảo tư liệu:
Phân loại đau đầu do ngộ độc cấp tính và măn tính?Làm thế nào để chẩn đoán phân biệt đau đầu do ngộ độc ch́, thủy ngân và benzen? Các đặc điểm lâm sàng của đau đầu do carbon monoxide, thuốc trừ sâu phốt pho hữu cơ và ngộ độc ethanol là ǵ?
Đau đầu do ngộ độc cấp tính và măn tính được chia thành các loại sau: (1) Ngộ độc ch́, thủy ngân và benzen. (2) Ngộ độc khí carbon monoxide. (3) Ngộ độc thuốc trừ sâu lân hữu cơ. (4) Ngộ độc ethanol. (5) Ngộ độc alkaloid Belladonna.
Nhức đầu do ngộ độc ch́, thủy ngân và benzen thường là triệu chứng sớm nhất và thường nằm giữa lông mày, trán, đỉnh đầu, thái dương hoặc toàn bộ đầu. Đặc điểm của nó tương tự như chứng đau đầu thần kinh, nhưng cứng đầu hơn; Một số trường hợp có cảm giác nặng nề và căng cứng ở đầu. Nó thường đi kèm với chóng mặt, choáng váng, mệt mỏi, chán ăn, cảm xúc không ổn định và rối loạn chức năng hệ thần kinh tự chủ.
Ngộ độc ch́ măn tính c̣n có thể kèm theo các đường ch́ màu xanh ở ŕa nướu, da nhợt nhạt, đau khớp, co thắt cơ, chuột rút ở bụng… Một số trường hợp c̣n kết hợp với viêm dây thần kinh ngoại biên, có thể gây teo cơ hoặc thậm chí tê liệt. Các xét nghiệm trong pḥng thí nghiệm cho thấy thiếu máu, tăng bạch cầu ái kiềm, rối loạn chuyển hóa porphyrin và tăng lượng ch́ trong nước tiểu. Ngộ độc thủy ngân măn tính có thể kèm theo viêm miệng, các đường thủy ngân màu nâu xuất hiện ở ŕa nướu, run tay, mí mắt, môi và lưỡi, các triệu chứng tâm thần, rối loạn kinh nguyệt, tổn thương gan và thận và tăng thủy ngân trong nước tiểu. Ngộ độc benzen măn tính đi kèm với giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu và hồng cầu, bất thường về tủy xương, rong kinh, thậm chí da và niêm mạc có xu hướng chảy máu.
Đặc điểm lâm sàng của đau đầu do ngộ độc khí carbon monoxide là:
(1) Các trường hợp ngộ độc cấp tính nhẹ biểu hiện như nhức đầu dữ dội theo mạch đập ở thái dương, trán hoặc toàn bộ đầu, giăn động mạch thái dương, tăng biên độ nhịp đập, kèm theo chóng mặt, chóng mặt, ù tai, chóng mặt, buồn nôn, nôn và khó chịu. trường hợp nặng, co giật, hôn mê. (2) Ngộ độc carbon monoxide măn tính có các triệu chứng tương tự như suy nhược thần kinh. Những cơn đau đầu thường dai dẳng kèm theo chóng mặt, mất ngủ, giảm trí nhớ và run rẩy ở các ngón tay. Ngoài các biểu hiện lâm sàng, việc chẩn đoán cũng cần chú ư đến môi trường tiếp xúc với khí carbon monoxide.
Đau đầu do ngộ độc thuốc trừ sâu lân hữu cơ không có triệu chứng đặc biệt. Ngoài nhức đầu, những trường hợp nhẹ c̣n có thể bao gồm chóng mặt, buồn nôn, nôn, đổ mồ hôi, run cơ và co đồng tử vừa phải. Trường hợp nặng có thể khó thở, hôn mê và đồng tử nhỏ như đầu đinh ghim. Quần áo và chất bài tiết có mùi tỏi. Các xét nghiệm trong pḥng thí nghiệm cho thấy hoạt động cholinesterase trong máu giảm.
Ngộ độc ethanol cấp tính, thường được gọi là say rượu. Nó thường biểu hiện như sưng đầu, vui vẻ và nói nhiều, cử động vụng về, run tay, dần dần xuất hiện t́nh cảm sôi nổi, phản ứng chậm, dáng đi loạng choạng, buồn ngủ, thần trí mông lung hoặc trạng thái căng cứng, sau khi tỉnh rượu thường kèm theo đau đầu. Ngộ độc ethanol măn tính có thể gây ra những thay đổi tâm thần kinh do tổn thương năo, bệnh nhân dần bị suy giảm trí thông minh, lú lẫn, suy giảm trí nhớ và khả năng phán đoán. Trong trường hợp nghiêm trọng, có thể xảy ra tổn thương chức năng của hệ tiêu hóa, hệ nội tiết và hệ thần kinh.
Làm thế nào để điều trị chứng đau đầu do ngộ độc khí carbon monoxide bằng y học cổ truyền và châm cứu, và cách điều trị chứng đau đầu do cường giáp?
Sau khi ngộ độc khí carbon monoxide, bệnh nhân cũng sẽ bị đau đầu dữ dội ở vùng thái dương, trán hoặc toàn bộ đầu, kèm theo chóng mặt, chóng mặt, ù tai, chóng mặt, nôn mửa và trường hợp nặng là co giật và hôn mê.
Y học cổ truyền biện chứng luận trị chứng đau đầu cấp tính tập trung chủ yếu là dưỡng âm:
Thiên môn đông 12g, Mạch môn đông 15g, Thạch hộc 15g, Trạch tả 12g, Lô căn tươi 24g, Xuyên khung 10g, Huyền sâm 15g, Kỷ tử 15g, Sinh địa 15g, Diên hồ sách 15g. Mà đối với di chứng mạn tính đau đầu , điều trị nên dùng phép hoạt huyết hóa ứ, bổ sung thêm các vị thuốc khứ phong như Đương quy 9g, Xích thược 9g, Xuyên khung 12g, Pḥng phong 9g, Đảng sâm 12g, Phục linh 9g, Câu đằng 12g, Kinh giới 9g, Hoàng cầm 9g, Sài hồ 9g, Bạch chỉ 9g, Cam thảo 9g.

Châm cứu: Thái Dương, Phong Tŕ, Hợp Cốt, Đầu duy, kích thích trung b́nh, lưu kim trong 20 phút, mỗi ngày một lần.
Bệnh cường giáp, nhức đầu nên dùng dưỡng âm thanh hỏa, bài thuốc cơ bản là: Hoàng kỳ sống 30 gam, Thái tử sâm 15 gam, Thủ ô 12 gam, Miết giáp sống 20 gam, Quy bản 20 gam, Hương phụ 10 gam, Hạ khô thảo 15 gam, Nam tinh 10 gam, Bạch thược 15 gam, Sơn dược 15 gam, Xuyên khung 10 gam. Đối với chứng mất ngủ trầm trọng, thêm Toan táo nhân 10 gam, Mạch đông 12 gam Cam thảo 6g.
Châm cứu: Thực chứng dùng huyệt Hợp cốc, Gian sử, Thiên dung, Thiên đột, Túc tam lư, Liêm tuyền, Côn lôn, Phù đột, Tam âm giao, mỗi ngày châm 1 lần, mỗi lần lưu kim từ 10~30 phút; Hư chứng dùng các huyệt: Liêm tuyền, Thiên dung, Tâm du, Nội quan , Thần môn, Tam âm giao, dùng phép bổ, mỗi ngày châm một lần, mỗi lần lưu kim từ 10~30 phút.
Ly Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-02-18 00:11:05
ĐAU ĐẦU DO BỆNH MŨI


Tham khảo tư liệu:
Đặc điểm của chứng đau đầu do bệnh ở mũi là ǵ?
Các bệnh về mũi thường có triệu chứng đau đầu, những cơn đau đầu do chúng gây ra có đặc điểm gần giống nhau nên được lâm sàng gọi là “Tỵ nguyên tính đầu thống” (鼻源性头痛) là đau đầu do mũi. Về mặt giải phẫu có thể thấy các sợi cảm giác đau phân bố rộng răi ở bên ngoài hộp sọ hơn là bên trong hộp sọ, cụ thể là chúng phân bố rộng răi hơn ở phần ngoài mũi, khoang mũi và các xoang. Các sợi cảm giác đau phong phú chủ yếu đến từ nhánh đầu tiên của dây thần kinh tam thoa (dây thần kinh nhăn cầu) và các nhánh của nhánh 2 (nhánh hàm trên), đặc biệt là các sợi niêm mạc gây đau ở hốc mũi nhiều và lan rộng hơn nên các bệnh về mũi thường gây triệu chứng đau đầu nhưng không nhất thiết phải gây đau đầu bởi bệnh viêm mũi.
Đau đầu do viêm mũi thường được đặc trưng bởi các triệu chứng của bệnh về mũi, chẳng hạn như nghẹt mũi, tràn dịch tiết trong mũi, v.v., đau đầu chủ yếu là đau âm ỉ hoặc âm ỉ ở vùng trán, không có mạch đập, nặng hơn trong ngày và giảm bớt khi nằm trên giường, khi cúi đầu xuống khiến niêm mạc mũi bị nghẹt, cơn đau đầu sẽ trầm trọng hơn. Nhức đầu thường có một vị trí và thời gian nhất định. Ví dụ, viêm xoang trán cấp tính bắt đầu bằng cơn đau đầu ở vùng trán, dần dần trở nên trầm trọng hơn và nhẹ hơn vào buổi chiều; Trong khi viêm xoang trán cấp tính bắt đầu bằng cơn đau nhẹ vào buổi sáng và trở nên đau vùng dưới ổ mắt vào buổi chiều. V́ vậy, dựa trên thời gian cơn đau mà bệnh nhân báo cáo, đôi khi có thể xác định sơ bộ bệnh viêm xoang mà bệnh nhân mắc phải.

Tại sao người bệnh viêm xoang thường bị đau đầu, đặc điểm đau đầu ở bệnh nhân viêm xoang măn tính là ǵ?
Bệnh nhân viêm xoang, đặc biệt là những người bị viêm xoang cấp tính có triệu chứng đau đầu nặng hơn.
Nguyên nhân chính gây đau đầu là:
(1) Kích thích viêm ở cuốn mũi, đường mũi, lỗ xoang và niêm mạc xoang, niêm mạc sưng tấy chèn ép các đầu dây thần kinh;
(2) Sự ứ đọng và tích tụ dịch tiết trong xoang sẽ chèn ép các đầu dây thần kinh;
(3) Các đường xoang và lỗ xoang của xoang bị tắc nghẽn do tắc nghẽn, phù nề, tiết dịch ứ đọng, khí trong xoang bị hấp thu dẫn đến áp suất thấp hoặc trạng thái chân không trong xoang;
(4) Vi khuẩn tiết ra độc tố kích thích các đầu dây thần kinh. Những nguyên nhân trên không chỉ có thể gây đau mặt mà thường có thể phản xạ lên đầu và gây đau đầu. Hầu hết bệnh nhân viêm xoang cấp tính đều có triệu chứng đau đầu, nhức đầu nhiều hơn.
Tùy thuộc vào xoang bị ảnh hưởng, các triệu chứng khác nhau:
(1) Viêm xoang hàm cấp tính thường gây đau ở phần dưới ổ mắt của bên bị ảnh hưởng, đồng thời có thể đau ở các răng hàm trên ở cùng bên, cơn đau lan lên trán và phần thái dương của cùng bên, chủ yếu là dai dẳng và đôi khi từng đợt. Bản chất của đau đầu chủ yếu là đau âm ỉ. Đôi khi, việc kích thích dây thần kinh tam thoa có thể gây đau ở nhánh thứ hai của dây thần kinh tam thoa, thậm chí có thể phản ánh đến vùng phân bố của nhánh thứ nhất. Cơn đau đầu trở nên trầm trọng hơn vào buổi chiều hoặc khi bạn đứng thẳng trong thời gian dài và giảm bớt vào buổi sáng hoặc khi bạn nằm nghỉ ngơi.
(2) Viêm xoang trán cấp tính thường gây đau ở vùng trên ổ mắt và vùng trán của bên bị ảnh hưởng, có tính chất thời gian rơ ràng, cơn đau đầu bắt đầu vào buổi sáng, nặng dần, giảm dần vào buổi chiều và biến mất vào buổi tối. Nếu t́nh trạng viêm không được loại bỏ, cơn đau tương tự có thể xảy ra vào ngày hôm sau. Khi đau đầu dữ dội có thể bị chảy nước mắt, sợ ánh sáng, sung huyết kết mạc, v.v.
(3) Viêm xoang sàng cấp tính: Nói chung đau đầu nhẹ, viêm xoang sàng trước đau ở vùng trán, giữa lông mày hoặc giữa hai mắt. Ở nhóm sau, cơn đau của viêm xoang sàng chủ yếu tập trung ở vùng thái dương hoặc vùng chẩm. Cơn đau của viêm xoang bướm cấp tính có thể đau sâu trong hộp sọ hoặc có thể lan lên đỉnh đầu hoặc sau tai, tính chất cơn đau chủ yếu là đau âm ỉ, đôi khi có thể xuất hiện đau sau nhăn cầu và có áp lực lên nhăn cầu, đặc biệt là khi nhăn cầu quay nhưng không liên quan đến cơn đau. Cơn đau do bệnh nhăn cầu gây ra là khác nhau, khi ấn vào nhăn cầu, cơn đau không trầm trọng hơn.
Người bệnh viêm xoang măn tính không nhất thiết phải đau đầu nhưng do tổn thương tồn tại và kích thích lâu ngày nên một số trường hợp thường kêu đau đầu, tuy nhiên mức độ đau đầu không nặng nề như viêm xoang cấp tính và tính chất là đau đầu. cơn đau nói chung là đau âm ỉ và không rơ ràng, đau trướng, hoặc cảm giác nặng nề ở đầu như đầu trướng, đầu óc tối tăm, v.v. Nhức đầu cũng thường có những đặc điểm sau:
(1) Đau đầu thường kèm theo các triệu chứng ở mũi như nghẹt mũi, chảy mủ và mất khứu giác;
(2) Nhức đầu thường mang tính chất tạm thời hoặc cố định tại một vị trí, chẳng hạn như nhức đầu dữ dội vào ban ngày và nhẹ hơn vào ban đêm, chủ yếu là một bên, nếu có hai bên th́ một bên phải nặng hơn và vị trí đau đầu tương đối cố định. dựa trên các xoang bị ảnh hưởng;
(3) Cơn đau đầu có thể thuyên giảm sau khi nghỉ ngơi, nhỏ mũi và thông khí mũi, nhưng trở nên trầm trọng hơn khi ho, dùng lực và cúi xuống; ngoài ra, cơn đau đầu cũng có thể trầm trọng hơn khi hút thuốc, uống rượu và xúc động.

Lệch vách ngăn mũi có gây đau đầu không?
Khi vách ngăn mũi bị lệch, nó thường có thể chèn ép và kích thích các cuốn mũi ở thành bên của khoang mũi, trường hợp nghiêm trọng có thể gây tắc nghẽn mô cục bộ, phù nề, viêm nhiễm, đôi khi c̣n tạo thành vết loét trên cuốn mũi hoặc gây viêm xoang, do đó theo phản xạ gây ra đau đầu. Đặc điểm của đau đầu cũng gần giống như đau đầu do viêm xoang, đau đầu chủ yếu nằm ở thái dương, trán hoặc toàn bộ nửa cùng một bên, đôi khi cũng có thể nằm ở cả hai bên, nhưng nh́n chung đau đầu nhiều hơn nghiêm trọng hơn ở một bên. Cùng với đau đầu, các triệu chứng chủ yếu tại chỗ ở mũi là: người bệnh thường bị nghẹt mũi dai dẳng, có thể ở một hoặc cả hai bên, tăng tiết nước mũi, giảm khứu giác, v.v.

V́ sao người bệnh đau đầu nên cảnh giác với khối u ác tính ở mũi, họng?
Một số bệnh nhân bị đau đầu nên cảnh giác với sự xuất hiện của khối u ác tính ở ṿm họng, khối u ác tính ở khoang mũi, xoang cạnh mũi và ṿm họng là phổ biến nhất. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư khoang mũi và các xoang cạnh mũi đứng thứ 5 trong số các bệnh ung thư toàn thân ở nước tôi, chiếm tỷ lệ 2,05% đến 3,66% các khối u ác tính toàn thân, trong đó khối u ác tính ở xoang cạnh mũi hay gặp hơn khối u có nguồn gốc từ mũi. ung thư ṿm họng, đặc biệt ung thư ṿm họng là một loại ung thư phổ biến ở nước tôi. Riêng về khối u ác tính ở vùng đầu cổ th́ tỷ lệ mắc ung thư ṿm họng đứng hàng đầu ở nước tôi. Ở một số trường hợp có tỷ lệ mắc cao Khu vực các tỉnh, thành phố phía Nam, đặc biệt là tỉnh Quảng Đông, tỷ lệ mắc ung thư ṿm họng đứng hàng đầu trong số các khối u ác tính trên cơ thể. Đau đầu do khối u ác tính ở mũi và họng chủ yếu là do khối u bị chèn ép cục bộ, xâm lấn và xâm lấn. Ví dụ, vị trí thường gặp nhất của ung thư ṿm họng là hốc họng, gần với lỗ vỡ ở đáy hộp sọ, ung thư ṿm họng thường phá hủy nền sọ, xâm lấn hộp sọ qua lỗ vỡ, lan rộng và liên quan đến dây thần kinh sinh ba, gây đau đầu. V́ vậy, đau đầu đôi khi là triệu chứng quan trọng của u ṿm họng và xảy ra ở 1/5 số bệnh nhân ở giai đoạn đầu. V́ vậy, trong cuộc sống hàng ngày, nếu gặp phải những bệnh nhân lớn tuổi bị đau đầu kèm theo các triệu chứng như nghẹt mũi, chảy máu cam, giảm thính lực, ù tai, sưng hạch cổ th́ bạn nên cảnh giác với sự xuất hiện của các khối u ác tính ở ṿm họng. Nguyên nhân gây ung thư ṿm họng Bệnh nhân đau đầu chiếm tỷ lệ 68,6% dân số, có thể thấy đau đầu là t́nh trạng thường gặp ở bệnh nhân ung thư ṿm họng. Vị trí đau đầu tương đối cố định, thường ở vùng thái dương, đỉnh hoặc chẩm của bên bị ảnh hưởng hoặc một bên, giai đoạn đầu đau đầu từng cơn, nặng dần và có thể dai dẳng về sau. Tính chất cơn đau có thể khác nhau, chủ yếu là đau âm ỉ, căng tức hoặc đau âm ỉ.Tuy nhiên, do bệnh nặng hơn, ung thư xâm lấn, xương nền sọ bị phá hủy, dây thần kinh sọ năo xâm lấn nên cơn đau đầu sẽ nhiều hơn. nặng và kéo dài, cơn đau sẽ khó điều trị, dai dẳng và nặng hơn về đêm, thường cần dùng thuốc giảm đau để giảm đau đầu nhưng thường không có tác dụng. Khoảng 1/3 số bệnh nhân bị liệt nhiều nhóm dây thần kinh sọ, trong đó thường gặp nhất là tổn thương dây thần kinh sinh ba, dẫn đến tê mặt ở bên bị ảnh hưởng, há miệng lệch, rối loạn vận động mắt và thậm chí là viêm giác mạc liệt thần kinh, loét giác mạc, và phục hồi chậm trễ. . V́ vậy, nếu chứng đau đầu măn tính không thuyên giảm và tổn thương dây thần kinh sọ năo xảy ra liên tiếp th́ cần nhanh chóng đến bác sĩ thần kinh hoặc khoa tai mũi họng để được thăm khám cần thiết nhằm chẩn đoán rơ ràng và tiến hành điều trị.

Làm thế nào để ngăn ngừa chứng đau đầu phát sinh do bệnh mũi gây ra?
Khoang mũi là cửa ngơ của toàn bộ đường hô hấp, là nơi dễ bị ảnh hưởng nhất bởi các yếu tố vật lư, hóa học bên ngoài và sự xâm nhập của vi sinh vật gây bệnh nên có nhiều nguy cơ mắc bệnh hơn.
V́ vậy, để ngăn chặn sự xuất hiện của chứng đau đầu do mũi, da mũi và niêm mạc mũi phải luôn được giữ sạch sẽ và nguyên vẹn, đồng thời cần đặc biệt chú ư đến chức năng rào cản bảo vệ niêm mạc. Không nhổ lông mũi một cách tùy tiện và khử trùng vùng da tại chỗ kịp thời nếu bị tổn thương. Ví dụ, nếu bị viêm nang lông, nhiễm trùng tuyến bă nhờn hoặc mụn nhọt ở mũi, đừng tùy tiện găi, đừng bóp để tránh vi khuẩn theo tuần hoàn máu trên mặt chảy ngược vào hộp sọ và gây nhiễm trùng.

Làm thế nào để điều trị chứng đau đầu do mũi?
Đau đầu do mũi là đau đầu do các bệnh truyền nhiễm cấp tính, măn tính và các khối u ở mũi, xoang, ṿm họng, trong đó đau đầu do viêm xoang cạnh mũi là phổ biến nhất và gặp nhiều hơn ở trẻ em.
(1) Nguyên tắc điều trị tổn thương viêm mũi là bôi kháng sinh tại chỗ và bôi thuốc giảm tiết dịch tại chỗ. Nó thường được sử dụng để tiêm hỗn hợp furuma và hỗn hợp fentanyl vào mũi, 3 lần một ngày, mỗi lần 1 đến 2 giọt. Thuốc làm co mạch máu, giảm tiết dịch và có tác dụng chống viêm. Thuốc kháng sinh bôi tại chỗ bao gồm: thuốc mỡ tetracycline hoặc chlortetracycline, thuốc mỡ axit boric 4% và hydro peroxide 1,4% cũng có thể được sử dụng để xả nước. Đối với viêm tiền đ́nh mũi, có thể bôi tại chỗ thuốc mỡ giảm thủy ngân 1% màu vàng, ngày 1 đến 2 lần.
(2) Trong trường hợp viêm xoang hàm trên mủ, nên thực hiện dẫn lưu tư thế trước. Vào tư thế ngồi, cúi thân trên xuống và cúi đầu sát vào đầu gối để mủ thoát ra từ xoang hàm. Thứ hai, thuốc nhỏ mũi ephedrine thường được sử dụng ba lần một ngày, thuốc này có thể làm co niêm mạc mũi và giảm sưng tấy khoang mũi và niêm mạc mở xoang cạnh mũi để dễ thoát nước. Khi các phương pháp điều trị trên không hiệu quả, sau giai đoạn cấp tính có thể thực hiện chọc ḍ xoang hàm để dẫn lưu mủ trong xoang nhằm giảm đau đầu. Trong giai đoạn cấp tính của viêm xoang cạnh mũi măn tính, có thể sử dụng kháng sinh tiêm tĩnh mạch như penicillin để kiểm soát nhiễm trùng.
(3) Nhức đầu do khối u ở mũi và xoang cạnh mũi và lệch vách ngăn mũi nên được điều trị bằng phẫu thuật.
(4) Thuốc giảm đau. Các bệnh về mũi thường gây đau đầu, để giảm đau có thể sử dụng các thuốc giảm đau như thuốc giảm đau, cranialin, carbamazepine, axit flufenamic và các loại thuốc khác để giảm đau đầu một cách thích hợp.

Cơ chế, biểu hiện lâm sàng, đặc điểm đau đầu của viêm xoang cấp và cách nhận biết?
Viêm xoang cấp tính chủ yếu xuất phát từ bệnh tắc mũi và nhiễm trùng các tổn thương lân cận, các bệnh này ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở xoang, gây tắc nghẽn dẫn lưu, ứ đọng dịch tiết, chèn ép các đầu dây thần kinh dưới niêm mạc trong xoang, đau đầu, đồng thời việc giải phóng độc tố vi khuẩn cũng kích thích trực tiếp các đầu dây thần kinh tạo ra những cơn đau đầu tương ứng.
Viêm xoang cấp tính thường là thứ phát sau nhiễm trùng đường hô hấp trên hoặc viêm mũi cấp tính, do đó làm nặng thêm các triệu chứng toàn thân ban đầu. Các triệu chứng toàn thân bao gồm sốt, khó chịu nói chung, chán ăn, táo bón, v.v. Ngoài những triệu chứng này, trẻ c̣n có thể bị co giật, nôn mửa và tiêu chảy. Các triệu chứng tại chỗ bao gồm nghẹt mũi, chảy nước mũi và tiết dịch quá mức, có thể dính, nhầy hoặc mủ.
Đặc điểm đau đầu của viêm xoang cấp tính phụ thuộc vào vị trí của viêm xoang.
(1) Viêm xoang hàm trên cấp tính: Đau vùng má và trán bên bị ảnh hưởng, chủ yếu nhức đầu vào buổi chiều, nằm xuống có thể thuyên giảm. Nếu là do răng hàm trên có thể bị sưng tấy hoặc đau khi gơ. (2) Viêm xoang trán cấp tính: Giai đoạn đầu, đau đầu lan tỏa, sau đó khu trú dần dần lên trán, theo thời gian rơ ràng, cơn đau đầu bắt đầu vào buổi sáng và đạt đỉnh điểm vào gần trưa, rất nghiêm trọng. Khi dịch mủ được thải ra ngoài, cơn đau đầu giảm dần vào buổi chiều, biến mất hoàn toàn vào buổi tối và tái phát vào ngày hôm sau. Triệu chứng đau đầu thường xuyên này kéo dài cho đến khi t́nh trạng viêm giảm bớt, khoảng 10 ngày. (3) Viêm xoang sàng cấp tính: Đau đầu nhẹ, chủ yếu nằm giữa khóe mắt trong và góc trên hốc mắt, đau phản xạ. Nhóm tổn thương trước có thể có triệu chứng tương tự như viêm xoang trán, c̣n nhóm tổn thương sau có thể gây đau vùng chẩm, trường hợp nặng cần phân biệt với viêm xoang bướm. (4) Viêm xoang bướm cấp tính: Cơn đau nằm sâu trong nhăn cầu, có thể lan ra giữa đầu và sau đầu, trường hợp nặng có thể kèm theo hoa mắt chóng mặt, thường nặng hơn trước buổi trưa. … Cơn đau đầu thuyên giảm sau khi mủ được thải ra.
Nhận biết bệnh đau đầu viêm xoang cấp tính:
Viêm xoang hàm trên cấp tính, viêm xoang trán cấp tính, viêm xoang sàng cấp tính, viêm xoang bướm cấp tính, nhức đầu, đau má bên bên bị ảnh hưởng và đau rễ phế nang trên, nhẹ vào buổi sáng và nặng vào buổi chiều. Đau ở vùng trán, đầu trên ổ mắt và góc ổ mắt trên ở bên bị ảnh hưởng, đau dữ dội vào buổi sáng và nhẹ vào buổi chiều. Đau khóe trong, gốc mũi và sau nhăn cầu ở bên bị ảnh hưởng, nặng hơn khi cử động mắt, nặng vào buổi sáng, nhẹ vào buổi chiều, đau sâu ở đầu, đỉnh và chẩm, đau xương chũm, nhẹ vào buổi sáng. , đau do áp lực nặng ở hố răng nanh, vùng dưới ổ mắt và phần trên của đầu vào buổi chiều Đau phế nang ở bên bị ảnh hưởng, đau trán và góc ổ mắt trên ở bên bị ảnh hưởng, khóe mắt trong, không có

Điều trị đau đầu do viêm mũi như thế nào?
Đau đầu do các bệnh về khoang mũi, xoang cạnh mũi không hiếm gặp như viêm xoang thông thường, lệch vách ngăn mũi, viêm teo mũi, u khoang mũi, xoang cạnh mũi,… Hầu hết đều có biểu hiện chính là đau đầu.
Trong số đó, đau đầu do viêm mũi măn tính, kèm theo nghẹt mũi, sổ mũi chủ yếu được dùng phương pháp bổ khí, bồi bổ cơ thể, sử dụng Sâm linh bạch truật tán, gồm Biển đậu 30g, Bạch truật, Phục linh, Trần b́, Liên tử nhục, Sa nhân, Ư rĩ nhân, Thương nhĩ tử, Tân di hoa mỗi vị 10g, Sơn dược 15g, Cát cánh 30g, Thạch xương bồ 6g.
Châm cứu: Dùng các huyệt Nghênh hương, Hợp cốc, Ấn đường, kích thích độ vừa, lưu kim 20 phút, mỗi ngày 1 lần.
Viêm xoang mạn tính có thể tham chiếu trị pháp nêu trên.
Ly Trường Xuân
 
Reply with a quote

<< Trang trước 1 2 3 Trang kế >>

<< Trả Lời >>

Nội Quy | Góp Ý | © 2009 - 2024 yhoccotruyen.org