Trang Chính

  Dược Vị

  Toa Thuốc

  Diễn Đàn

  Đăng Nhập

  Đăng Ký

Diễn đàn >> Kiến Thức YHCT >>

<< Đăng Chủ Đề Mới >>
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-06 21:57:55
Từ điều 265 đến điều 272
265 伤寒,脉弦细,头痛发热者,属少阳。少阳不可发汗,发汗则谵语, 此属胃,胃和则愈,胃不和,则烦而悸。 C278
265 Thương hàn, mạch huyền tế, đầu thống phát nhiệt giả, thuộc Thiếu dương. Thiếu dương bất khả phát hăn, phát hăn tắc chiêm ngữ, thử thuộc vị, vị hoà tắc dũ, vị bất hoà, tắc phiền nhi quư. C278
Điều văn này thảo luận bổ túc mạch chứng của Thiếu dương bệnh, đồng thời chỉ ra những cấm kỵ trong điều trị Thiếu dương bệnh và những biến chứng sau khi ngộ hăn (phát hăn nhầm).
“Phiền nhi quư” chữ “quư悸”, có nhà chú giải nói rằng đó là chữ “táo躁”, phiền nhi táo, táo của phiền táo bất an, có lư do ǵ để nói như vậy? Đây chẳng phải Triệu bản chỉ nói về sự nôn nóng thôi sao? Rất nhiều nhà chú giải cho rằng chính là phiền nhi táo (bực bội mà nóng vội). V́ Dương minh vị bất hoà, vị khô (táo燥), v́ thế nên phiền mà táo(躁), cũng có lư. Trọng điểm của điều này là bổ sung vấn đề mạch của Thiếu dương, ngoài ra c̣n là bổ sung Thiếu dương không chỉ không thể dùng phép thổ, phép hạ mà ngay cả phát hăn cũng không được dùng. Nếu như sai lầm mà phát hăn Thiếu dương, có thể xuất hiện Dương minh bệnh, xuất hiện Dương minh tân dịch bất hoà.
Thiếu dương bệnh có mạch huyền tế, như đă đề cập ở phần trước, không cụ thể, không đặc hiệu như Thái dương th́ mạch phù, Dương minh th́ mạch đại. Thiên Thái dương bệnh điều C156, “mạch tế giả, thử vi dương vi kết” (脉细者,此为阳微结), dương vi kết là thiếu dương, tôi giới thiệu vấn đề này với mọi người, giảng mạch tế này là mạch huyền tế, ở đây chỉ nói là mạch tế, không nói đến mạch huyền, nói “mạch tế giả, thử vi dương vi kết”( 脉细者,此为阳微结) mạch tế là dương kết nhẹ, đây chẳng phải cũng là điểm nói đến mạch tế huyền của Thiếu dương bệnh sao? Đă đề cập đến mạch tế rồi. Điều C105 cũng nói đến “Dương mạch sáp, âm mạch huyền, pháp đương phúc trung cấp thống, tiên dữ Tiểu kiến trung thang, bất sái giả, dữ Sài hồ thang”( 阳脉涩,阴脉弦,法当腹中急痛,先与小建中汤,不瘥者,与柴胡汤) dương mạch sáp, âm mạch huyền, phép trị chứng đau bụng cấp, đầu tiên dùng thang Lư trung, không khỏi dùng thang Sài hồ, chỉ ra rằng căn bản mạch của kinh Thiếu dương là mạch huyền. Điều C105 chính là giảng về mạch huyền, điều C156 là giảng về mạch tế, nhưng không giảng cụ thể về mạch huyền tế.
Hôm nay điều này “Thương hàn, mạch huyền tế, đầu thống phát nhiệt giả, thuộc Thiếu dương” (伤寒,脉弦细,头痛发热者,属少阳) , có nghĩa là ǵ? Người này bị bệnh thương hàn, ngoại cảm phong hàn, đau đầu , phát sốt, chẳng phải là Thái dương bệnh sao?, đau đầu, phát sốt chính là thương hàn, thương hàn đầu thống phát nhiệt chẳng phải là thuộc Thái dương bệnh sao? Hăy chẩn mạch cho anh ta, nếu thấy mạch phù th́ thuộc Thái dương bệnh, mạch huyền tế, bản thân mạch huyền là có kèm theo tế, v́ huyền có h́nh tượng nhỏ (tế) giống dây cung dây đàn, nếu lớn thô th́ như dây thừng. Mạch khẩn giống như dây thừng, cho nên không xuất hiện mạch phù của Thái dương mà xuất hiện mạch huyền tế của Thiếu dương.
Bệnh này thuộc Thái dương hay thuộc Thiếu dương? Trương Trọng Cảnh cho rằng bệnh thuộc Thiếu dương, tại sao không gọi là Thiếu dương bệnh mà lại thêm chữ “thuộc”? Ở đây có ư nghĩa là tuy bệnh này là Thái dương bệnh, có chứng trạng đau đầu, phát nhiệt, nhưng đă thấy mạch huyền tế, là bệnh đă đến sát bên kinh Thiếu dương, nên không cần phải suy nghĩ đến Thái dương nữa. Tại sao? Thiếu dương có ư nghĩa như vậy, bất luận bệnh thuộc kinh nào, chỉ cần thấy mạch huyền hoặc giả xuất hiện hàn nhiệt văng lai, ngực sườn trướng đầy, chỉ cần xuất hiện mạch chứng của Thiếu dương, th́ nên suy nghĩ đến vấn đề của Thiếu dương. Tại sao? Nếu không suy nghĩ đến vấn đề của Thiếu dương, trong trị liệu không được phát hăn và thổ hạ, mà Thiếu dương bệnh th́ cấm hăn, cấm thổ và cấm hạ, việc này rất dễ phát sinh sai lầm. V́ thế Trương tiên sinh đă chỉ ra một đạo lư, chỉ cần thấy mạch của kinh Thiếu dương là bệnh thuộc về Thiếu dương. Nếu như sai lầm mà phát hăn Thiếu dương bệnh, “tắc chiêm ngữ” (则谵语) là sẽ nói mê sảng, v́ sao phát hăn lại khiến bệnh nhân nói mê sảng? V́ khi phát hăn sẽ làm tổn thương tân dịch của vị, khi vị dịch bị tổn thương th́ vị bị khô (táo), vị táo nên vị khí bất hoà, cho nên “Thử thuộc vị”, là đă thuộc vị, nói mê sảng cũng thuộc chứng vị táo. “Vị hoà tắc dũ, vị bất hoà tắc phiền nhi quư” (胃和则愈, 胃不和则烦而悸), Nếu tân dịch của bệnh nhân khôi phục, tân dịch tự hồi phục, có thể điều tiết vị khí, bệnh cũng có thể biến chuyển tốt. Nếu như vị khí bất hoà, tân dịch không thể khôi phục, bệnh người này không thể biến chuyển tốt, không những bệnh nhân nói mê sảng, mà c̣n hồi hộp, hoảng hốt tim đập nhanh. Tại sao như vậy? V́ sau khi phát hăn nhầm đă gây tổn thương tân dịch, làm cho mức độ vị táo tăng lên (dạ dày bị khô hơn), cũng là tăng độ hư tổn của tân dịch, khi tân dịch bị hư tổn th́ huyết dịch cũng bị hư tổn, v́ thế nên bệnh nhân hoảng hốt, tim đập nhanh.Có nhà chú giải cho rằng đây chính là “Phiền nhi táo”( 躁 vội vă), thân thể vội vă không yên, đây chính là đặc điểm của Dương minh bệnh. Tất cả điều này đều có thể suy xét.
Hợp hai điều này lại để xem xét, “Thiếu dương bệnh bất khả dĩ thổ, thổ hạ tắc quư nhi kinh” (少阳病不可以吐,吐下则悸而惊)Thiếu dương bệnh không thể dùng phép thổ, thổ hạ bệnh nhân sẽ hồi hộp, sợ hăi, “Thiếu dương bất khả phát hăn, phát hăn tắc chiêm ngữ, tắc phiền nhi quư” (少阳不可发汗,发汗则谵语,则烦而悸) Thiếu dương bệnh không được phát hăn, nếu phát hăn bệnh sẽ bực bội, hồi hộp. Đây chính là cấm hăn, cấm thổ, cấm hạ của Thiếu dương bệnh. Nếu sử dụng sai lầm sẽ có hậu quả, hậu quả như thế nào? Một là chính khí thụ thương, hai là tà khí truyền biến. {Y Tông Kim Giám} khái quát nội dung {Thương Hàn Luận} bằng một số câu theo thể loại: “Thiếu dương tam cấm yếu tường minh, hăn chiêm thổ hạ quư nhi kinh”( 少阳三禁要详明,汗谵吐下悸而惊)Ba điều cấm của Thiếu dương bệnh cần nhận rơ, phát hăn nói nhảm, thổ và hạ gây hồi hộp kinh sợ. Phần dưới c̣n thêm “Thậm tắc thổ hạ lợi bất chỉ, thuỷ tương bất nhập mệnh nan sinh”, (甚则吐下利不止,水浆不入命难生)Trường hợp bệnh nặng th́ tiết tả không ngừng, không ăn uống được và khó giữ được mạng sống) bổ sung nội dung không có trong {Thương hàn luận}. Cho nên khi điều trị Thiếu dương bệnh chính là phải giữ ba điều cấm gồm có cấm phát hăn, cấm dùng thổ pháp và hạ pháp. Đến thời kỳ Kim Nguyên, Lư Đông Viên bổ sung thêm một điều cấm nữa là cấm lợi tiểu tiện, từ tam cấm biến thành tứ cấm. Đây là những ǵ đă nói về Thiếu dương, và đây là phép chung. Thiếu dương bệnh cũng có thể dùng phép phát hăn, có thể dùng phép thổ, phép hạ, có thể lợi tiểu tiện, thang Đại sài hồ không phải để tả hạ sao? Thang Sài hồ Quế chi có phát hăn không?, hung măn (ngực trướng đầy), khí Thiếu dương uất trệ, cũng có thể dùng Qua đế tán. Nên những điều này phải được nghiên cứu xem xét để có thể biết được sự linh hoạt của nó.
266 本太阳病不解,转入少阳者,胁下硬满,干呕不能食,往来寒热,尚未吐下,脉沉紧者,与小柴胡汤。 C279
267 若已吐、下、发汗、温针,谵语,柴胡汤证罢,此为坏病,知犯何逆,以法治之。 C280
266 Bản Thái dương bệnh bất giải, truyền nhập Thiếu dương giả, hiếp hạ ngạnh măn, can ẩu bất năng thực, văng lai hàn nhiệt, thượng vị thổ hạ, mạch trầm khẩn giả, dữ Tiểu sài hồ thang. C279
267 Nhược dĩ thổ, hạ, phát hăn, ôn châm, chiêm ngữ, Sài hồ thang chứng băi, thử vi hoại bệnh, tri phạm hà nghịch, dĩ pháp trị chi. C280
Hai điều văn này nói về bệnh tà truyền đến kinh Thiếu dương, liền xuất hiện bản chứng của kinh Thiếu dương. Ngoài ra, nếu như không trải qua ngộ trị (điều trị nhầm), th́ nên dùng thang Tiểu sài đồ để tiến hành điều trị, nếu đă trải qua ngộ trị, th́ đó gọi là bệnh xấu, đối với bệnh xấu, nên theo nguyên tắc, “tri phạm hà nghịch, tuỳ chứng trị chi” (知犯何逆,随证治之) t́m biết sai phạm ở đâu, theo hội chứng mà điều trị), vẫn là tinh thần của Thiên Thái dương, nhưng không cụ thể nói đến từng cái một. “Bản Thái dương bệnh bất giải, chuyển nhập Thiếu dương giả” (本太阳病不解,转入少阳者), ban đầu bệnh này là bệnh ở kinh Thái dương, điều trị không thoả đáng, tà khí không được trừ khứ nên truyền biến và chuyển vào kinh Thiếu dương.
V́ thế chuyển cũng có ư nghĩa như truyền. Đúng là truyền đến Thiếu dương, khi truyền đến Thiếu dương liền xuất hiện Thiếu dương chứng, đó là những chứng ǵ? Có biểu chứng, cũng có lư chứng, “hiếp hạ ngạnh măn, can ẩu bất năng thực” (胁下硬满,干呕不能食) Cứng đầy ở hạ sườn, nôn khan không thể ăn uống. Hạ sườn bị cứng đầy là biểu hiện của kinh bị bệnh (kinh thụ tà), nôn khan không thể ăn uống là biểu hiện khí bên trong của Thiếu dương bất hoà. V́ Thiếu dương cũng chủ về sơ tiết (điều tiết), có tác dụng sơ thông, bài tiết, tăng cường tân trần đại tạ (thay cũ đổi mới) đối với lục phủ, hiện tại Thiếu dương đă bị bệnh, không thể sơ tiết, v́ thế bệnh nhân xuất hiện chứng trạng không thể ăn. “Mạc mạc bất dục ẩm thực” (默默不欲饮食) ảnh hưởng đến dạ dày, công năng của dạ dày và ruột không tốt nên không thể ăn uống, điều này cho thấy khí bên trong bất hoà. Nôn khan là không ẩu thổ, không thổ ra vật ǵ th́ gọi là nôn khan (can ẩu). Chính là đặc điểm hỉ ẩu của Thiếu dương. Khí của Thiếu dương ảnh hưởng vị khí thượng nghịch (trào ngược dạ dày), v́ thế nôn khan, “can ẩu bất năng thực” (nôn khan không ăn được) chính là bệnh của vị khí bất hoà, là một phản ảnh của khí cơ Thiếu dương bất lợi không thể tiến hành sơ tiết đối với dạ dày và ruột. Đây chính là khí bên trong bất hoà, khí bên trong mật và dạ dày bất hoà, “văng lai hàn nhiệt”, lúc này chính và tà giao tranh ở hạ sườn, tiến lùi ở giữa nửa ngoài nửa trong (bán biểu bán lư), v́ thế phát lănh một trận, rồi lại một trận phát nhiệt, thay nhau phát tác.
Đây là những phản ảnh đầy đủ hội chứng của Thiếu dương. “Hiếp hạ ngạnh măn” (trướng đầy cứng ở hạ sườn) là biểu hiện của kinh khí bất lợi, “can ẩu bất năng thực” (nôn khan không muốn ăn) là biểu hiện của khí bên trong bất hoà, “văng lai hàn nhiệt” (lạnh nóng qua lại) là biểu hiện bệnh tà của biểu lư đấu tranh với nhau ở bán biểu bán lư. Lúc này chính là “Thượng vị thổ hạ” (尚未吐下) chưa dùng phép thổ và phép hạ, viết như vậy cho thấy những lương y thời đó dễ dàng ngộ dụng thổ pháp và hạ pháp để trị bệnh, Trương Trọng Cảnh viết rằng lúc đó c̣n chưa ngộ thổ ngộ hạ (thổ hạ nhầm), “Mạch trầm khẩn giả”, mạch trầm huyền mà có lực th́ chính là trầm khẩn, mạch khẩn này là có lực, “dữ Tiểu sài hồ thang”, đây là bản mạch (mạch gốc), bản chứng (chứng gốc), lại chưa trải qua ngộ trị, v́ thế có thể dùng thang Tiểu sài hồ. “Nhược dĩ thổ, hạ, phát hăn, ôn châm” (Nếu đă dùng các phép như thổ, hạ, phát hăn, ôn châm) là các phương pháp điều trị sai lầm, phép thổ cũng không phù hợp với cấm kỵ của Thiếu dương, phép tả hạ cũng vậy, phép phát hăn và ôn châm lại càng không phù hợp với cấm kỵ của Thiếu dương. Sau khi ngộ trị, bệnh nhân nói mê sảng, lời nói vô nghĩa, là biểu hiện tân dịch bị tổn thương mà trong dạ dày bị khô. “Sài hồ chứng băi” (柴胡证罢) Không c̣n Sài hồ chứng, những chứng trạng của Sài hồ như trướng đầy ở dưới sườn, văng lai hàn nhiệt đă không có nữa. “Thử vi hoại bệnh” (此为坏病), bệnh này bệnh tệ hại, thày thuốc trị hoại bệnh, t́nh trạng của hoại bệnh rất phức tạp, liên quan đến khá nhiều vấn đề, v́ thế “Tri phạm hà nghịch, dĩ pháp trị chi” (知犯何逆,以法治之) xem xét nghịch phạm như thế nào th́ dùng phương pháp điều trị tương ứng, là cung cấp cho thày thuốc một nguyên tắc, xem xét bệnh để biết nguồn gốc, quan sát phản ảnh của mạch và chứng, phải t́m hiểu t́nh huống cụ thể của ngộ trị, sau đó dùng phương pháp để điều trị bệnh, các phương pháp gồm : Thanh, bổ, hoà, phù chính, khứ tà. Cho thấy Thiếu dương rất dễ phát sinh ngộ trị, ở thời Trương Trọng Cảnh th́ đây là một bài học kinh nghiệm.
268 三阳合病,脉浮大,上关上,但欲眠睡,目合则汗。 C281
269 伤寒六七日,无大热,其人躁烦者,此为阳去入阴故也。 C282
270 伤寒三日,三阳为尽,三阴当受邪。其人反能食而不呕,此为三阴不受邪也。 C283
268 Tam dương hợp bệnh, mạch phù đại, thượng quan thượng, đăn dục miên thuỵ, mục hợp tắc hăn. C281
269 Thương hàn lục thất nhật, vô đại nhiệt, kỳ nhân táo phiền giả, thử vi dương khứ nhập âm cố dă. C282
270 Thương hàn tam nhật, tam dương vi tận, tam âm đương thụ tà. Kỳ nhân phản năng thực nhi bất ẩu, thử vi tam âm bất thụ tà dă. C283
Ba điều này nói về Thiếu dương chủ xu (trục xoay), một là trục xoay của biểu lư, là trục xoay của âm dương, v́ thế nó bị bệnh bất luận là do bệnh tà ở biểu hay ở lư đều được, rời dương nhập vào âm cũng được, thường có quan hệ với vận động then chốt (xu cơ) không thuận lợi, vận động then chốt (xu cơ) gây bệnh của Thiếu dương. V́ thế chúng ta là những thày thuốc lâm sàng, phải chú ư các vấn đề này, làm thế nào để khiến vận động then chốt (xu cơ) của Thiếu dương thuận lợi, khiến tà khí không thể từ dương nhập âm, làm sao để chữa trị tam dương hợp bệnh từ Thiếu dương để giải trừ bệnh tà phức tạp của tam dương.
“Tam dương hợp bệnh”chính là giảng về hợp bệnh. Chỉ giảng hợp bệnh ở kinh dương, không giảng hợp bệnh ở kinh âm. Thái dương và Dương minh hợp bệnh, “suyễn nhi hung măn giả” (喘而胸满者) suyễn ngực đầy trướng, dùng thang Ma hoàng; Tam dương hợp bệnh “Thân trọng, đoản khí, phúc măn, hăn xuất” (身重,短气,腹满,汗出) thân thể nặng nề, thở ngắn, đầy bụng, xuất mồ hôi dùng thang Bạch hổ gia Nhân sâm. Một thang trị Thái dương, một thang trị Dương minh, trị Thái dương là bệnh tà nghiêng về biểu (bên ngoài), tuy nhiên chính là Thái dương Dương minh hợp bệnh, nhưng v́ thiên (lệch) ra biểu nên có thể dùng thang Ma hoàng. Tam dương hợp bệnh xuất hăn, khát nước, nặng về nhiệt ở Dương minh, được dùng thang Bạch hổ gia Nhân sâm, cho nên hợp bệnh có phép phát hăn, có phép thanh giải, thanh nhiệt sinh tân dịch.
“Tam dương hợp bệnh, mạch phù đại, thượng quan thượng, đăn dục miên thuỵ, mục hợp tắc hăn” (三阳合病,脉浮大,上关上,但欲眠睡,目合则汗). Tam dương hợp bệnh, mạch phù đại ở mạch quan, nhưng buồn ngủ, nhắm mắt th́ xuất hăn.
Điều văn này không nói đến chứng mà nói đến mạch, dùng mạch thay cho chứng, mạch phù là mạch của Thái dương, mạch đại (lớn) là mạch của Dương minh, “thượng quan thượng” (上关上) chính là mạch quan. V́ Trương Trọng Cảnh luận về mạch khác với hậu thế, ông gọi mạch thốn là thốn khẩu, mạch quan là quan thượng, mạch xích là xích trung. Khi tà dương nhiệt mạnh th́ mạch phù đại, thấy ở quan thượng, là mạch thốn và mạch quan khá rơ rệt, nhất là mạch quan thượng càng rơ hơn. V́ tà dương nhiệt mạnh và bị tắc nghẽn, mạch thốn và quan thiên về vị trí dương, xích mạch thiên về vị trí âm. Có những nhà chú giải cho rằng mạch quan thuộc về Thiếu dương, mạch quan thuộc về đảm, mạch quan đại biểu cho Thiếu dương.
Trên thực tế, “tam dương hợp bệnh, mạch phù đại, thượng quan thượng”( 三阳合病,脉浮大,上关上) là có ư nói dương nhiệt rất mạnh, tà nhiệt của tam dương rất mạnh, cho nên mạch phù lại đại, nhất là lại phản ảnh rất rơ ràng ở quan thượng.
Nhiệt mạnh sẽ phát sinh thần trí hôn ám, v́ thế chỉ muốn ngủ. Thiếu âm bệnh chính là “Mạch vi tế, đăn dục mị dă” (脉微细,但欲寐也)mạch nhỏ bé và muốn ngủ, mạch vi tế chính là dương hư mà âm thịnh. Đây chính là mạch phù đại lại thấy xuất hiện ở quan thượng, càng rơ rệt hơn ở quan thượng, đây chính là dương mạch, thuộc nhiệt bị nghẹt tắc mà thần trí hôn ám, hoàn toàn khác biệt với chứng dương hư.
“Mục hợp tắc hăn” (目合则汗) nhắm mắt v́ muốn ngủ, hai mắt nhắm nghiền, toàn thân xuất hăn, đây không phải là tự hăn, gọi là đạo hăn, trong khi ngủ mà xuất hăn th́ gọi là đạo hăn (mô hôi trộm), tại sao? “Dương gia vu âm vị chi hăn” (阳加于阴谓之汗) dương thêm vào âm gọi là mồ hôi, dương khí thịnh, nhất là khí của Thiếu dương tướng hoả uất bách, càng có nhiều khả năng tổn thương âm, âm không thể nhập, bức bách mồ hôi xuất ra ngoài, là xuất hiện đạo hăn. Đây chính là có bệnh. Người viết trong một lần khám bệnh trong y viện Hoà B́nh, có một bé gái khoảng hơn 10 tuổi, em bị chứng đạo hăn (xuất mồ hôi khi ngủ), điều trị nhiều nơi mà không khỏi, có các chứng trạng như miệng đắng, phân khô, đầy trướng ở dưới tim, khó chịu, tâm lư buồn bực, kinh nguyệt trễ kỳ, v́ thế người viết cho uống thang Đại sài hồ gia Mẫu đan b́, uống vào mọi chứng trạng đều tốt. Xuất hăn của Thiếu dương khí uất hoá hoả khác với chứng tự hăn của Dương minh bệnh. Phần trên đă giảng về Thái dương và Dương minh hợp bệnh, suyễn và tức ngực “Dữ Ma hoàng thang” (与麻黄汤) dùng thang Ma hoàng, chính là không xuất mồ hôi, tam dương hợp bệnh “Thân trọng, nan dĩ chuyển trắc, khẩu bất nhân” (三阳合病‚身重,难以转侧,口不仁) Ba kinh dương hợp bệnh, thân thể nặng nề, khó xoay người, miệng tê dại thuộc về Dương minh, không phải là đạo hăn, chính là tự hăn. Đến kinh Thiếu dương, tam dương hợp bệnh, nhiệt khí mạnh và tắc nghẽn, phải hiển thị đặc điểm của Thiếu dương, “hợp mục tắc hăn” (合目则汗)ngủ là xuất hăn, chính là đạo hăn. Đă là như vậy, có được dùng thang Bạch hổ không? Không được, Vưu Tại Kính nói, e rằng không thể dùng thang Bạch hổ để trị bệnh này. V́ đây là đạo hăn, ư nói đây là tam dương hợp bệnh, trị bệnh ở kinh Thiếu dương th́ cần phải thanh giải nhiệt của Thiếu dương.
V́ thế, tam dương hợp bệnh có phép phát hăn, phép thanh nhiệt, c̣n có phép thanh thấu nhiệt của Thiếu dương, khi hoả bị uất th́ dùng phương pháp thông đạt (hoả uất tắc đạt chi) (hoả uất th́ dùng phép thông đạt). Nội khoa có bệnh lao, là bệnh hư lao, cũng chính là bệnh lao phổi hiện nay, nhiều bệnh nhân có chứng nóng trong tận xương, đạo hăn ban đêm, trong thuốc đều gia thêm vị Sài hồ, như Sài hồ thanh cốt tán. “Sài cốt chưng cửu bất thuyên, nhiệt thịnh thanh chi diệu hồ liên, Miết giáp Thanh hao Sài địa cốt” (柴骨蒸久不痊,热盛清之炒胡连,鳖甲青蒿柴地骨) Chứng nóng trong xương lâu ngày, thanh nhiệt mạnh dùng các vị Hồ liên Miết giáp Thanh hao Sài hồ Địa cốt b́, nên gia Thanh hao, Sài hồ, v́ đều là chứng hoả uất gây tổn thương âm, tướng hoả của Thiếu dương bị uất, v́ thế nên gia thuốc thanh thấu (thông thấu để giải uất), sơ thông mộc khí uất bách của Thiếu dương, lại gia thêm thuốc tư âm để có hiệu quả. Sài hồ thanh cốt tán, Sài hồ Miết giáp thang, dùng Sài hồ, Thanh hao, là những vị thuốc thẩm thấu Thiếu dương, khiến khí không bị uất trệ, tướng hoả thông đạt, sẽ không tụ thành khối, từ đó đạt được mục đích trị liệu.
Điều C282 chính là thương hàn ngoại cảm bệnh, nếu như tà khí ở biểu, c̣n phát nhiệt, người này không quá nóng, nhưng không phải một chút nhiệt cũng không có. “Thương hàn lục thất thiên” (伤寒六七天) thương hàn 6,7 ngày, nếu bệnh tà c̣n ở kinh Thái dương th́ c̣n phát sốt, hiện tại phát sốt không quá tệ, chính là không quá nóng, “kỳ nhân táo phiền”, xuất hiện nóng nảy bực bội bất an, đứng ngồi không yên, tâm phiền thân thể bực bội, đă 6,7 ngày không sốt mà xuất hiện nóng nảy bực bội. Ở đây có lư do ǵ? “Thử vi dương khứ nhập âm dă” (此为阳去入阴也), Trương Trọng Cảnh cho chúng ta biết, đây là dương khứ, đúng là dương tà, là biểu tà của Thái dương, “khứ” là đi, từ một kinh đi đến một kinh khác, “khứ nhập âm”, âm là lư (bên trong), là từ biểu nhập lư (từ bên ngoài đi vào bên trong), có khả năng là đến Dương minh. “Âm” này có thể không phải là kinh âm mà âm dương ở đây là chỉ về biểu lư, “dương khứ nhập âm” là bệnh tà từ biểu nhập vào lư, từ biểu của Thái dương nhập vào lư của Dương minh. Đây là thời kỳ quá độ (chuyển giao), biểu nhiệt của Thái dương nhỏ yếu, nhập vào Dương minh nhưng chưa gây ra đủ để bế tắc, đầy, khô, cứng, đặc.
Điều C282 có quan hệ ǵ với kinh Thiếu dương? Ở một vài nơi trong{Thương Hàn Luận} có hàm ư sâu xa (ư tại ngôn ngoại). Kinh Thái dương chủ về biểu, kinh Dương minh chủ lư, kinh Thiếu dương là trục vận dộng của biểu lư.
Nếu khí của Thiếu dường bất lợi, sẽ có khả năng Thiếu dương giống như một cây cầu, một con đường để cho dương khí và bệnh tà ở biểu sẽ thông qua cây cầu này của kinh Thiếu dương để đi vào kinh Dương minh, vào bên trong (lư). Nói cách khác, nếu trục vận động Thiếu dương rất thuận lợi, khi bệnh tà đi vào trong, nó có tác dụng vận động trục quay, có thể khiến cho bệnh tà không xâm nhập vào được bên trong, như vậy không tốt sao? V́ thế phần trên đây là giảng về tam dương hợp bệnh, hợp bệnh là cùng phát bệnh, ở đây có vấn đề Thiếu dương có nhiệt. Phần dưới của điều này là bệnh ở kinh Thái dương truyền vào kinh Dương minh, có đường vào của Thái dương, có đường đi của Thiếu dương, ở giữa có quan hệ với Thiếu dương hay không? Cũng có quan hệ với Thiếu dương.
Ở đây bao gồm cả Thiếu dương xu cơ (vận động trục quay) không tốt, Thiếu dương xu cơ không thể đề kháng ngoại tà xuất ra ngoài, v́ thế tà khí liền thông qua Thiếu dương mà truyền đến Dương minh, xuất hiện hội chứng phiền táo (bực bội nóng nảy) ở đây có hàm nghĩa, biểu, lư, trung, có biểu, có lư, có trung gian, trung gian là vấn đề của Thiếu dương.
Lấy điều C283 làm thí dụ, tỉ dụ bệnh thương hàn đă ba ngày, bệnh ở ba kinh dương được tính là đă truyền hết, ba kinh âm đương thụ bệnh tà, kinh đầu tiên là Thái âm, Thái âm đang thụ tà. “Kỳ nhân phản năng thực nhi bất ẩu, thử vi tam âm bất thụ tà dă”( 其人反能食而不呕,此为三阴不受邪也) Bệnh nhân có thể ăn mà không ẩu, đó là ba kinh âm không thụ tà, nếu như bệnh nhân này lại có thể ăn, đồng thời ăn rồi cũng không lợm giọng, không ẩu thổ, chính là khí của tỳ vị c̣n rất tốt, khí bên trong c̣n hoà. Lúc này tà khí vẫn c̣n ở các kinh dương, chưa thể xâm nhập vào các kinh âm. Là ba kinh âm không thụ tà, đặt nó ở thiên Thiếu dương có ư nghĩa ǵ? Thái dương, Dương minh, Thiếu dương, sau Thiếu dương là Thái âm, v́ thế Thiếu dương lại chính là trục quay của âm dương, tà khí đến Thiếu dương, Thiếu dương đề kháng không được. Liền chuyển tiếp đến Thái âm. Nếu khí cơ Thiếu dương tốt bệnh không phát triển đến kinh âm, trước đây đă giảng qua, Thiếu dương bệnh có âm chứng là có cơ hội thay đổi t́nh thế, nói về thang Sài hồ Quế chi Can khương, bụng trướng đầy, tiết tả, đă xuất hiện các dấu hiệu của Thái âm bệnh. Nếu như Thiếu dương có sức mạnh, dương khí có thể đề kháng bệnh tà, ngăn chặn bệnh tà xâm nhập vào Thái âm. Hai điều này cho thày thuốc biết rằng, bệnh từ biểu vào lư cũng được, từ dương nhập vào âm cũng được, luôn luôn là khi điều trị Thiếu dương bệnh không hiệu quả, công năng kháng bệnh của Thiếu dương không tốt mà xuất hiện. Trong điều trị nên chú ư vấn đề này. Tại sao? Ở phần trước đă nói về việc này, Thiếu dương bệnh sau khi phát hăn, bệnh nhân lại nói nhảm, mê sảng, “thử thuộc vị, vị hoà tắc dũ, vị bất hoà tắc phiền nhi táo” (此属胃,胃和则愈,胃不和则烦而躁) Đó là thuộc vị, vị khí hoà th́ khỏi bệnh, vị bất hoà nên bực bội và nóng nảy. Tại sao bn bực bội nóng nảy? Trị Thiếu dương bệnh không trị đúng, tà khí liền từ biểu nhập lư, rồi đến vị. Thiếu dương bệnh điều trị không tốt, sẽ ảnh hưởng đến công năng kháng bệnh của Thiếu dương, bệnh sẽ từ dương nhập vào âm. V́ thế Thiếu dương là trục xoay của biểu lư, là trục xoay của âm dương. Hai điều này là nói về vấn đề bệnh của ba kinh dương cũng được, với âm dương th́ bệnh tà của kinh dương chuyển tiếp đến kinh âm cũng được, tất cả đều là có quan hệ với Thiếu dương. V́ thế khi điều trị bệnh ở Thiếu dương, không nên phạm vào những cấm kỵ của Thiếu dương, để Thiếu dương không bị bất cứ tổn thất nào, như vậy sẽ bảo đảm bệnh tà không truyền vào trong, không truyền biến vào trong âm. Ngoài ra, đối với việc điều trị Thiếu dương bệnh, đă có vấn đề hoà giải biểu lư, cũng có vấn đề hoà giải âm dương. V́ bản thân kinh Thiếu dương cũng có đủ các đặc điểm như vậy.
271伤寒三日,少阳脉小者,欲已也。 C284
272少阳病,欲解时,从寅至辰上。 C285
271 Thương hàn tam nhật, Thiếu dương mạch tiểu giả, dục dĩ dă. C284
272 Thiếu dương bệnh, dục giải thời, ṭng dần chí th́n thượng. C285
Hai điều này tŕnh bày về tiên lượng của Thiếu dương bệnh.
“Thương hàn tam nhật” (伤寒三日) chính là cách nói vay mượn. Thương hàn đă ba ngày, nếu như bệnh truyền vào kinh Thiếu dương, hăy thiết mạch cho anh ta, “thiếu dương mạch tiểu giả”( 少阳脉小者) chữ tiểu ở đây giảng là chữ “tế”, Thiếu dương bệnh mạch tế mà không huyền, Thiếu dương bệnh chính là “mạch huyền tế”, Thiếu dương mạch tiểu nói lên điều ǵ? Là đảm nhiệt đă suy, bệnh tà của Thiếu dương đă suy, mạch không huyền khẩn, huyền cấp, huyền sác, chính là mạch tiểu, đây là phản ảnh của tà khí suy mà chính khí khôi phục. Thiếu dương, chính là khí tiểu dương, v́ thế mạch của nó là huyền tế, nếu như mạch tiểu, không phải như vậy là mạch đă rất huyền, không phải huyền cấp, mạch rất tế tiểu, như vậy là tà khí đă suy. Tà khí đă suy, th́ chính khí hồi phục, và bệnh sẽ biến chuyển tích cực, “Dục dĩ dă” (欲已也)muốn ngừng lại, đúng là tốt, dĩ là ngừng lại, bệnh không phát triển. Đây chính là một hiện tương tốt đẹp. {Mạch quyết}cũng viết như vậy “Đại tắc bệnh tiến, tiểu tắc bệnh thoái”(大则病进,小则病退), phàm bệnh thấy mạch đại, chính là bệnh tiến triển, mạch tiểu là bệnh sẽ thoái lui, điều này cũng thích ứng với các bệnh.
Nếu như điều kiện hợp thành th́ sẽ khỏi bệnh, “ṭng dần chí thần thượng” (从寅至辰上) từ giờ dần đến giờ th́n, dần, măo, th́n, mặt trời mọc vào giờ măo, trước giờ Măo 2 giờ là giờ Dần, lúc này là khí nhất dương, dương khí, mộc khí, khí Thiếu dương vừa lên, vào lúc này đối với thân thể là có lợi cho Đảm, nó có khả năng hỗ trợ chính khí, v́ thế ở thời điểm này khí vượng, th́ chính khí mạnh mẽ và tà khí suy thoái, điều này tạo thành một điều kiện tốt, khi Thiếu dương bệnh biến chuyển tốt, tức là muốn giải trừ bệnh th́ cần có điều kiện là vào đúng thời gian của Thiếu dương chính khí vượng. Có người tranh luận, về việc “Dục giải thời” (thời điểm dễ giải trừ bệnh) có thể nói về nó không? Khi Thiếu dương bị bệnh, không uống thang Tiểu sài hồ mà lại chờ đợi đến giờ Dần đến giờ Măo cho tốt ư? Lăo Nhân gia Trương Trọng Cảnh cũng không nói như vậy. Thời gian thuận lợi cho việc giải trừ bệnh, dục ở đây có ư là cân nhắc, không thể nói như là một việc tất nhiên sẽ giải trừ được bệnh, khi có đầy đủ điều kiện rồi, bệnh này sẽ có chiều hướng thuận lợi để b́nh phục, con người và tự nhiên giới có liên hệ nội tại (bên trong) với nhau, có ảnh hưởng hỗ tương, thời điểm công năng của Thiếu dương tốt nhất, chính khí được đầy đủ nhất, theo quan sát của người xưa là vào giờ th́n và giờ măo, là b́nh minh, là lúc khí bắt đầu đến.
Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-07 01:26:40
Từ điều 265 đến điều 272
265 伤寒,脉弦细,头痛发热者,属少阳。少阳不可发汗,发汗则谵语, 此属胃,胃和则愈,胃不和,则烦而悸。 C278
265 Thương hàn, mạch huyền tế, đầu thống phát nhiệt giả, thuộc Thiếu dương. Thiếu dương bất khả phát hăn, phát hăn tắc chiêm ngữ, thử thuộc vị, vị hoà tắc dũ, vị bất hoà, tắc phiền nhi quư. C278
Điều văn này thảo luận bổ túc mạch chứng của Thiếu dương bệnh, đồng thời chỉ ra những cấm kỵ trong điều trị Thiếu dương bệnh và những biến chứng sau khi ngộ hăn (phát hăn nhầm).
“Phiền nhi quư” chữ “quư悸”, có nhà chú giải nói rằng đó là chữ “táo躁”, phiền nhi táo, táo của phiền táo bất an, có lư do ǵ để nói như vậy? Đây chẳng phải Triệu bản chỉ nói về sự nôn nóng thôi sao? Rất nhiều nhà chú giải cho rằng chính là phiền nhi táo (bực bội mà nóng vội). V́ Dương minh vị bất hoà, vị khô (táo燥), v́ thế nên phiền mà táo(躁), cũng có lư. Trọng điểm của điều này là bổ sung vấn đề mạch của Thiếu dương, ngoài ra c̣n là bổ sung Thiếu dương không chỉ không thể dùng phép thổ, phép hạ mà ngay cả phát hăn cũng không được dùng. Nếu như sai lầm mà phát hăn Thiếu dương, có thể xuất hiện Dương minh bệnh, xuất hiện Dương minh tân dịch bất hoà.
Thiếu dương bệnh có mạch huyền tế, như đă đề cập ở phần trước, không cụ thể, không đặc hiệu như Thái dương th́ mạch phù, Dương minh th́ mạch đại. Thiên Thái dương bệnh điều C156, “mạch tế giả, thử vi dương vi kết” (脉细者,此为阳微结), dương vi kết là thiếu dương, tôi giới thiệu vấn đề này với mọi người, giảng mạch tế này là mạch huyền tế, ở đây chỉ nói là mạch tế, không nói đến mạch huyền, nói “mạch tế giả, thử vi dương vi kết”( 脉细者,此为阳微结) mạch tế là dương kết nhẹ, đây chẳng phải cũng là điểm nói đến mạch tế huyền của Thiếu dương bệnh sao? Đă đề cập đến mạch tế rồi. Điều C105 cũng nói đến “Dương mạch sáp, âm mạch huyền, pháp đương phúc trung cấp thống, tiên dữ Tiểu kiến trung thang, bất sái giả, dữ Sài hồ thang”( 阳脉涩,阴脉弦,法当腹中急痛,先与小建中汤,不瘥者,与柴胡汤) dương mạch sáp, âm mạch huyền, phép trị chứng đau bụng cấp, đầu tiên dùng thang Lư trung, không khỏi dùng thang Sài hồ, chỉ ra rằng căn bản mạch của kinh Thiếu dương là mạch huyền. Điều C105 chính là giảng về mạch huyền, điều C156 là giảng về mạch tế, nhưng không giảng cụ thể về mạch huyền tế.
Hôm nay điều này “Thương hàn, mạch huyền tế, đầu thống phát nhiệt giả, thuộc Thiếu dương” (伤寒,脉弦细,头痛发热者,属少阳) , có nghĩa là ǵ? Người này bị bệnh thương hàn, ngoại cảm phong hàn, đau đầu , phát sốt, chẳng phải là Thái dương bệnh sao?, đau đầu, phát sốt chính là thương hàn, thương hàn đầu thống phát nhiệt chẳng phải là thuộc Thái dương bệnh sao? Hăy chẩn mạch cho anh ta, nếu thấy mạch phù th́ thuộc Thái dương bệnh, mạch huyền tế, bản thân mạch huyền là có kèm theo tế, v́ huyền có h́nh tượng nhỏ (tế) giống dây cung dây đàn, nếu lớn thô th́ như dây thừng. Mạch khẩn giống như dây thừng, cho nên không xuất hiện mạch phù của Thái dương mà xuất hiện mạch huyền tế của Thiếu dương.
Bệnh này thuộc Thái dương hay thuộc Thiếu dương? Trương Trọng Cảnh cho rằng bệnh thuộc Thiếu dương, tại sao không gọi là Thiếu dương bệnh mà lại thêm chữ “thuộc”? Ở đây có ư nghĩa là tuy bệnh này là Thái dương bệnh, có chứng trạng đau đầu, phát nhiệt, nhưng đă thấy mạch huyền tế, là bệnh đă đến sát bên kinh Thiếu dương, nên không cần phải suy nghĩ đến Thái dương nữa. Tại sao? Thiếu dương có ư nghĩa như vậy, bất luận bệnh thuộc kinh nào, chỉ cần thấy mạch huyền hoặc giả xuất hiện hàn nhiệt văng lai, ngực sườn trướng đầy, chỉ cần xuất hiện mạch chứng của Thiếu dương, th́ nên suy nghĩ đến vấn đề của Thiếu dương. Tại sao? Nếu không suy nghĩ đến vấn đề của Thiếu dương, trong trị liệu không được phát hăn và thổ hạ, mà Thiếu dương bệnh th́ cấm hăn, cấm thổ và cấm hạ, việc này rất dễ phát sinh sai lầm. V́ thế Trương tiên sinh đă chỉ ra một đạo lư, chỉ cần thấy mạch của kinh Thiếu dương là bệnh thuộc về Thiếu dương. Nếu như sai lầm mà phát hăn Thiếu dương bệnh, “tắc chiêm ngữ” (则谵语) là sẽ nói mê sảng, v́ sao phát hăn lại khiến bệnh nhân nói mê sảng? V́ khi phát hăn sẽ làm tổn thương tân dịch của vị, khi vị dịch bị tổn thương th́ vị bị khô (táo), vị táo nên vị khí bất hoà, cho nên “Thử thuộc vị”, là đă thuộc vị, nói mê sảng cũng thuộc chứng vị táo. “Vị hoà tắc dũ, vị bất hoà tắc phiền nhi quư” (胃和则愈, 胃不和则烦而悸), Nếu tân dịch của bệnh nhân khôi phục, tân dịch tự hồi phục, có thể điều tiết vị khí, bệnh cũng có thể biến chuyển tốt. Nếu như vị khí bất hoà, tân dịch không thể khôi phục, bệnh người này không thể biến chuyển tốt, không những bệnh nhân nói mê sảng, mà c̣n hồi hộp, hoảng hốt tim đập nhanh. Tại sao như vậy? V́ sau khi phát hăn nhầm đă gây tổn thương tân dịch, làm cho mức độ vị táo tăng lên (dạ dày bị khô hơn), cũng là tăng độ hư tổn của tân dịch, khi tân dịch bị hư tổn th́ huyết dịch cũng bị hư tổn, v́ thế nên bệnh nhân hoảng hốt, tim đập nhanh.Có nhà chú giải cho rằng đây chính là “Phiền nhi táo”( 躁 vội vă), thân thể vội vă không yên, đây chính là đặc điểm của Dương minh bệnh. Tất cả điều này đều có thể suy xét.
Hợp hai điều này lại để xem xét, “Thiếu dương bệnh bất khả dĩ thổ, thổ hạ tắc quư nhi kinh” (少阳病不可以吐,吐下则悸而惊)Thiếu dương bệnh không thể dùng phép thổ, thổ hạ bệnh nhân sẽ hồi hộp, sợ hăi, “Thiếu dương bất khả phát hăn, phát hăn tắc chiêm ngữ, tắc phiền nhi quư” (少阳不可发汗,发汗则谵语,则烦而悸) Thiếu dương bệnh không được phát hăn, nếu phát hăn bệnh sẽ bực bội, hồi hộp. Đây chính là cấm hăn, cấm thổ, cấm hạ của Thiếu dương bệnh. Nếu sử dụng sai lầm sẽ có hậu quả, hậu quả như thế nào? Một là chính khí thụ thương, hai là tà khí truyền biến. {Y Tông Kim Giám} khái quát nội dung {Thương Hàn Luận} bằng một số câu theo thể loại: “Thiếu dương tam cấm yếu tường minh, hăn chiêm thổ hạ quư nhi kinh”( 少阳三禁要详明,汗谵吐下悸而惊)Ba điều cấm của Thiếu dương bệnh cần nhận rơ, phát hăn nói nhảm, thổ và hạ gây hồi hộp kinh sợ. Phần dưới c̣n thêm “Thậm tắc thổ hạ lợi bất chỉ, thuỷ tương bất nhập mệnh nan sinh”, (甚则吐下利不止,水浆不入命难生)Trường hợp bệnh nặng th́ tiết tả không ngừng, không ăn uống được và khó giữ được mạng sống) bổ sung nội dung không có trong {Thương hàn luận}. Cho nên khi điều trị Thiếu dương bệnh chính là phải giữ ba điều cấm gồm có cấm phát hăn, cấm dùng thổ pháp và hạ pháp. Đến thời kỳ Kim Nguyên, Lư Đông Viên bổ sung thêm một điều cấm nữa là cấm lợi tiểu tiện, từ tam cấm biến thành tứ cấm. Đây là những ǵ đă nói về Thiếu dương, và đây là phép chung. Thiếu dương bệnh cũng có thể dùng phép phát hăn, có thể dùng phép thổ, phép hạ, có thể lợi tiểu tiện, thang Đại sài hồ không phải để tả hạ sao? Thang Sài hồ Quế chi có phát hăn không?, hung măn (ngực trướng đầy), khí Thiếu dương uất trệ, cũng có thể dùng Qua đế tán. Nên những điều này phải được nghiên cứu xem xét để có thể biết được sự linh hoạt của nó.
266 本太阳病不解,转入少阳者,胁下硬满,干呕不能食,往来寒热,尚未吐下,脉沉紧者,与小柴胡汤。 C279
267 若已吐、下、发汗、温针,谵语,柴胡汤证罢,此为坏病,知犯何逆,以法治之。 C280
266 Bản Thái dương bệnh bất giải, truyền nhập Thiếu dương giả, hiếp hạ ngạnh măn, can ẩu bất năng thực, văng lai hàn nhiệt, thượng vị thổ hạ, mạch trầm khẩn giả, dữ Tiểu sài hồ thang. C279
267 Nhược dĩ thổ, hạ, phát hăn, ôn châm, chiêm ngữ, Sài hồ thang chứng băi, thử vi hoại bệnh, tri phạm hà nghịch, dĩ pháp trị chi. C280
Hai điều văn này nói về bệnh tà truyền đến kinh Thiếu dương, liền xuất hiện bản chứng của kinh Thiếu dương. Ngoài ra, nếu như không trải qua ngộ trị (điều trị nhầm), th́ nên dùng thang Tiểu sài đồ để tiến hành điều trị, nếu đă trải qua ngộ trị, th́ đó gọi là bệnh xấu, đối với bệnh xấu, nên theo nguyên tắc, “tri phạm hà nghịch, tuỳ chứng trị chi” (知犯何逆,随证治之) t́m biết sai phạm ở đâu, theo hội chứng mà điều trị), vẫn là tinh thần của Thiên Thái dương, nhưng không cụ thể nói đến từng cái một. “Bản Thái dương bệnh bất giải, chuyển nhập Thiếu dương giả” (本太阳病不解,转入少阳者), ban đầu bệnh này là bệnh ở kinh Thái dương, điều trị không thoả đáng, tà khí không được trừ khứ nên truyền biến và chuyển vào kinh Thiếu dương.
V́ thế chuyển cũng có ư nghĩa như truyền. Đúng là truyền đến Thiếu dương, khi truyền đến Thiếu dương liền xuất hiện Thiếu dương chứng, đó là những chứng ǵ? Có biểu chứng, cũng có lư chứng, “hiếp hạ ngạnh măn, can ẩu bất năng thực” (胁下硬满,干呕不能食) Cứng đầy ở hạ sườn, nôn khan không thể ăn uống. Hạ sườn bị cứng đầy là biểu hiện của kinh bị bệnh (kinh thụ tà), nôn khan không thể ăn uống là biểu hiện khí bên trong của Thiếu dương bất hoà. V́ Thiếu dương cũng chủ về sơ tiết (điều tiết), có tác dụng sơ thông, bài tiết, tăng cường tân trần đại tạ (thay cũ đổi mới) đối với lục phủ, hiện tại Thiếu dương đă bị bệnh, không thể sơ tiết, v́ thế bệnh nhân xuất hiện chứng trạng không thể ăn. “Mạc mạc bất dục ẩm thực” (默默不欲饮食) ảnh hưởng đến dạ dày, công năng của dạ dày và ruột không tốt nên không thể ăn uống, điều này cho thấy khí bên trong bất hoà. Nôn khan là không ẩu thổ, không thổ ra vật ǵ th́ gọi là nôn khan (can ẩu). Chính là đặc điểm hỉ ẩu của Thiếu dương. Khí của Thiếu dương ảnh hưởng vị khí thượng nghịch (trào ngược dạ dày), v́ thế nôn khan, “can ẩu bất năng thực” (nôn khan không ăn được) chính là bệnh của vị khí bất hoà, là một phản ảnh của khí cơ Thiếu dương bất lợi không thể tiến hành sơ tiết đối với dạ dày và ruột. Đây chính là khí bên trong bất hoà, khí bên trong mật và dạ dày bất hoà, “văng lai hàn nhiệt”, lúc này chính và tà giao tranh ở hạ sườn, tiến lùi ở giữa nửa ngoài nửa trong (bán biểu bán lư), v́ thế phát lănh một trận, rồi lại một trận phát nhiệt, thay nhau phát tác.
Đây là những phản ảnh đầy đủ hội chứng của Thiếu dương. “Hiếp hạ ngạnh măn” (trướng đầy cứng ở hạ sườn) là biểu hiện của kinh khí bất lợi, “can ẩu bất năng thực” (nôn khan không muốn ăn) là biểu hiện của khí bên trong bất hoà, “văng lai hàn nhiệt” (lạnh nóng qua lại) là biểu hiện bệnh tà của biểu lư đấu tranh với nhau ở bán biểu bán lư. Lúc này chính là “Thượng vị thổ hạ” (尚未吐下) chưa dùng phép thổ và phép hạ, viết như vậy cho thấy những lương y thời đó dễ dàng ngộ dụng thổ pháp và hạ pháp để trị bệnh, Trương Trọng Cảnh viết rằng lúc đó c̣n chưa ngộ thổ ngộ hạ (thổ hạ nhầm), “Mạch trầm khẩn giả”, mạch trầm huyền mà có lực th́ chính là trầm khẩn, mạch khẩn này là có lực, “dữ Tiểu sài hồ thang”, đây là bản mạch (mạch gốc), bản chứng (chứng gốc), lại chưa trải qua ngộ trị, v́ thế có thể dùng thang Tiểu sài hồ. “Nhược dĩ thổ, hạ, phát hăn, ôn châm” (Nếu đă dùng các phép như thổ, hạ, phát hăn, ôn châm) là các phương pháp điều trị sai lầm, phép thổ cũng không phù hợp với cấm kỵ của Thiếu dương, phép tả hạ cũng vậy, phép phát hăn và ôn châm lại càng không phù hợp với cấm kỵ của Thiếu dương. Sau khi ngộ trị, bệnh nhân nói mê sảng, lời nói vô nghĩa, là biểu hiện tân dịch bị tổn thương mà trong dạ dày bị khô. “Sài hồ chứng băi” (柴胡证罢) Không c̣n Sài hồ chứng, những chứng trạng của Sài hồ như trướng đầy ở dưới sườn, văng lai hàn nhiệt đă không có nữa. “Thử vi hoại bệnh” (此为坏病), bệnh này bệnh tệ hại, thày thuốc trị hoại bệnh, t́nh trạng của hoại bệnh rất phức tạp, liên quan đến khá nhiều vấn đề, v́ thế “Tri phạm hà nghịch, dĩ pháp trị chi” (知犯何逆,以法治之) xem xét nghịch phạm như thế nào th́ dùng phương pháp điều trị tương ứng, là cung cấp cho thày thuốc một nguyên tắc, xem xét bệnh để biết nguồn gốc, quan sát phản ảnh của mạch và chứng, phải t́m hiểu t́nh huống cụ thể của ngộ trị, sau đó dùng phương pháp để điều trị bệnh, các phương pháp gồm : Thanh, bổ, hoà, phù chính, khứ tà. Cho thấy Thiếu dương rất dễ phát sinh ngộ trị, ở thời Trương Trọng Cảnh th́ đây là một bài học kinh nghiệm.
268 三阳合病,脉浮大,上关上,但欲眠睡,目合则汗。 C281
269 伤寒六七日,无大热,其人躁烦者,此为阳去入阴故也。 C282
270 伤寒三日,三阳为尽,三阴当受邪。其人反能食而不呕,此为三阴不受邪也。 C283
268 Tam dương hợp bệnh, mạch phù đại, thượng quan thượng, đăn dục miên thuỵ, mục hợp tắc hăn. C281
269 Thương hàn lục thất nhật, vô đại nhiệt, kỳ nhân táo phiền giả, thử vi dương khứ nhập âm cố dă. C282
270 Thương hàn tam nhật, tam dương vi tận, tam âm đương thụ tà. Kỳ nhân phản năng thực nhi bất ẩu, thử vi tam âm bất thụ tà dă. C283
Ba điều này nói về Thiếu dương chủ xu (trục xoay), một là trục xoay của biểu lư, là trục xoay của âm dương, v́ thế nó bị bệnh bất luận là do bệnh tà ở biểu hay ở lư đều được, rời dương nhập vào âm cũng được, thường có quan hệ với vận động then chốt (xu cơ) không thuận lợi, vận động then chốt (xu cơ) gây bệnh của Thiếu dương. V́ thế chúng ta là những thày thuốc lâm sàng, phải chú ư các vấn đề này, làm thế nào để khiến vận động then chốt (xu cơ) của Thiếu dương thuận lợi, khiến tà khí không thể từ dương nhập âm, làm sao để chữa trị tam dương hợp bệnh từ Thiếu dương để giải trừ bệnh tà phức tạp của tam dương.
“Tam dương hợp bệnh”chính là giảng về hợp bệnh. Chỉ giảng hợp bệnh ở kinh dương, không giảng hợp bệnh ở kinh âm. Thái dương và Dương minh hợp bệnh, “suyễn nhi hung măn giả” (喘而胸满者) suyễn ngực đầy trướng, dùng thang Ma hoàng; Tam dương hợp bệnh “Thân trọng, đoản khí, phúc măn, hăn xuất” (身重,短气,腹满,汗出) thân thể nặng nề, thở ngắn, đầy bụng, xuất mồ hôi dùng thang Bạch hổ gia Nhân sâm. Một thang trị Thái dương, một thang trị Dương minh, trị Thái dương là bệnh tà nghiêng về biểu (bên ngoài), tuy nhiên chính là Thái dương Dương minh hợp bệnh, nhưng v́ thiên (lệch) ra biểu nên có thể dùng thang Ma hoàng. Tam dương hợp bệnh xuất hăn, khát nước, nặng về nhiệt ở Dương minh, được dùng thang Bạch hổ gia Nhân sâm, cho nên hợp bệnh có phép phát hăn, có phép thanh giải, thanh nhiệt sinh tân dịch.
“Tam dương hợp bệnh, mạch phù đại, thượng quan thượng, đăn dục miên thuỵ, mục hợp tắc hăn” (三阳合病,脉浮大,上关上,但欲眠睡,目合则汗). Tam dương hợp bệnh, mạch phù đại ở mạch quan, nhưng buồn ngủ, nhắm mắt th́ xuất hăn.
Điều văn này không nói đến chứng mà nói đến mạch, dùng mạch thay cho chứng, mạch phù là mạch của Thái dương, mạch đại (lớn) là mạch của Dương minh, “thượng quan thượng” (上关上) chính là mạch quan. V́ Trương Trọng Cảnh luận về mạch khác với hậu thế, ông gọi mạch thốn là thốn khẩu, mạch quan là quan thượng, mạch xích là xích trung. Khi tà dương nhiệt mạnh th́ mạch phù đại, thấy ở quan thượng, là mạch thốn và mạch quan khá rơ rệt, nhất là mạch quan thượng càng rơ hơn. V́ tà dương nhiệt mạnh và bị tắc nghẽn, mạch thốn và quan thiên về vị trí dương, xích mạch thiên về vị trí âm. Có những nhà chú giải cho rằng mạch quan thuộc về Thiếu dương, mạch quan thuộc về đảm, mạch quan đại biểu cho Thiếu dương.
Trên thực tế, “tam dương hợp bệnh, mạch phù đại, thượng quan thượng”( 三阳合病,脉浮大,上关上) là có ư nói dương nhiệt rất mạnh, tà nhiệt của tam dương rất mạnh, cho nên mạch phù lại đại, nhất là lại phản ảnh rất rơ ràng ở quan thượng.
Nhiệt mạnh sẽ phát sinh thần trí hôn ám, v́ thế chỉ muốn ngủ. Thiếu âm bệnh chính là “Mạch vi tế, đăn dục mị dă” (脉微细,但欲寐也)mạch nhỏ bé và muốn ngủ, mạch vi tế chính là dương hư mà âm thịnh. Đây chính là mạch phù đại lại thấy xuất hiện ở quan thượng, càng rơ rệt hơn ở quan thượng, đây chính là dương mạch, thuộc nhiệt bị nghẹt tắc mà thần trí hôn ám, hoàn toàn khác biệt với chứng dương hư.
“Mục hợp tắc hăn” (目合则汗) nhắm mắt v́ muốn ngủ, hai mắt nhắm nghiền, toàn thân xuất hăn, đây không phải là tự hăn, gọi là đạo hăn, trong khi ngủ mà xuất hăn th́ gọi là đạo hăn (mô hôi trộm), tại sao? “Dương gia vu âm vị chi hăn” (阳加于阴谓之汗) dương thêm vào âm gọi là mồ hôi, dương khí thịnh, nhất là khí của Thiếu dương tướng hoả uất bách, càng có nhiều khả năng tổn thương âm, âm không thể nhập, bức bách mồ hôi xuất ra ngoài, là xuất hiện đạo hăn. Đây chính là có bệnh. Người viết trong một lần khám bệnh trong y viện Hoà B́nh, có một bé gái khoảng hơn 10 tuổi, em bị chứng đạo hăn (xuất mồ hôi khi ngủ), điều trị nhiều nơi mà không khỏi, có các chứng trạng như miệng đắng, phân khô, đầy trướng ở dưới tim, khó chịu, tâm lư buồn bực, kinh nguyệt trễ kỳ, v́ thế người viết cho uống thang Đại sài hồ gia Mẫu đan b́, uống vào mọi chứng trạng đều tốt. Xuất hăn của Thiếu dương khí uất hoá hoả khác với chứng tự hăn của Dương minh bệnh. Phần trên đă giảng về Thái dương và Dương minh hợp bệnh, suyễn và tức ngực “Dữ Ma hoàng thang” (与麻黄汤) dùng thang Ma hoàng, chính là không xuất mồ hôi, tam dương hợp bệnh “Thân trọng, nan dĩ chuyển trắc, khẩu bất nhân” (三阳合病‚身重,难以转侧,口不仁) Ba kinh dương hợp bệnh, thân thể nặng nề, khó xoay người, miệng tê dại thuộc về Dương minh, không phải là đạo hăn, chính là tự hăn. Đến kinh Thiếu dương, tam dương hợp bệnh, nhiệt khí mạnh và tắc nghẽn, phải hiển thị đặc điểm của Thiếu dương, “hợp mục tắc hăn” (合目则汗)ngủ là xuất hăn, chính là đạo hăn. Đă là như vậy, có được dùng thang Bạch hổ không? Không được, Vưu Tại Kính nói, e rằng không thể dùng thang Bạch hổ để trị bệnh này. V́ đây là đạo hăn, ư nói đây là tam dương hợp bệnh, trị bệnh ở kinh Thiếu dương th́ cần phải thanh giải nhiệt của Thiếu dương.
V́ thế, tam dương hợp bệnh có phép phát hăn, phép thanh nhiệt, c̣n có phép thanh thấu nhiệt của Thiếu dương, khi hoả bị uất th́ dùng phương pháp thông đạt (hoả uất tắc đạt chi) (hoả uất th́ dùng phép thông đạt). Nội khoa có bệnh lao, là bệnh hư lao, cũng chính là bệnh lao phổi hiện nay, nhiều bệnh nhân có chứng nóng trong tận xương, đạo hăn ban đêm, trong thuốc đều gia thêm vị Sài hồ, như Sài hồ thanh cốt tán. “Sài cốt chưng cửu bất thuyên, nhiệt thịnh thanh chi diệu hồ liên, Miết giáp Thanh hao Sài địa cốt” (柴骨蒸久不痊,热盛清之炒胡连,鳖甲青蒿柴地骨) Chứng nóng trong xương lâu ngày, thanh nhiệt mạnh dùng các vị Hồ liên Miết giáp Thanh hao Sài hồ Địa cốt b́, nên gia Thanh hao, Sài hồ, v́ đều là chứng hoả uất gây tổn thương âm, tướng hoả của Thiếu dương bị uất, v́ thế nên gia thuốc thanh thấu (thông thấu để giải uất), sơ thông mộc khí uất bách của Thiếu dương, lại gia thêm thuốc tư âm để có hiệu quả. Sài hồ thanh cốt tán, Sài hồ Miết giáp thang, dùng Sài hồ, Thanh hao, là những vị thuốc thẩm thấu Thiếu dương, khiến khí không bị uất trệ, tướng hoả thông đạt, sẽ không tụ thành khối, từ đó đạt được mục đích trị liệu.
Điều C282 chính là thương hàn ngoại cảm bệnh, nếu như tà khí ở biểu, c̣n phát nhiệt, người này không quá nóng, nhưng không phải một chút nhiệt cũng không có. “Thương hàn lục thất thiên” (伤寒六七天) thương hàn 6,7 ngày, nếu bệnh tà c̣n ở kinh Thái dương th́ c̣n phát sốt, hiện tại phát sốt không quá tệ, chính là không quá nóng, “kỳ nhân táo phiền”, xuất hiện nóng nảy bực bội bất an, đứng ngồi không yên, tâm phiền thân thể bực bội, đă 6,7 ngày không sốt mà xuất hiện nóng nảy bực bội. Ở đây có lư do ǵ? “Thử vi dương khứ nhập âm dă” (此为阳去入阴也), Trương Trọng Cảnh cho chúng ta biết, đây là dương khứ, đúng là dương tà, là biểu tà của Thái dương, “khứ” là đi, từ một kinh đi đến một kinh khác, “khứ nhập âm”, âm là lư (bên trong), là từ biểu nhập lư (từ bên ngoài đi vào bên trong), có khả năng là đến Dương minh. “Âm” này có thể không phải là kinh âm mà âm dương ở đây là chỉ về biểu lư, “dương khứ nhập âm” là bệnh tà từ biểu nhập vào lư, từ biểu của Thái dương nhập vào lư của Dương minh. Đây là thời kỳ quá độ (chuyển giao), biểu nhiệt của Thái dương nhỏ yếu, nhập vào Dương minh nhưng chưa gây ra đủ để bế tắc, đầy, khô, cứng, đặc.
Điều C282 có quan hệ ǵ với kinh Thiếu dương? Ở một vài nơi trong{Thương Hàn Luận} có hàm ư sâu xa (ư tại ngôn ngoại). Kinh Thái dương chủ về biểu, kinh Dương minh chủ lư, kinh Thiếu dương là trục vận dộng của biểu lư.
Nếu khí của Thiếu dường bất lợi, sẽ có khả năng Thiếu dương giống như một cây cầu, một con đường để cho dương khí và bệnh tà ở biểu sẽ thông qua cây cầu này của kinh Thiếu dương để đi vào kinh Dương minh, vào bên trong (lư). Nói cách khác, nếu trục vận động Thiếu dương rất thuận lợi, khi bệnh tà đi vào trong, nó có tác dụng vận động trục quay, có thể khiến cho bệnh tà không xâm nhập vào được bên trong, như vậy không tốt sao? V́ thế phần trên đây là giảng về tam dương hợp bệnh, hợp bệnh là cùng phát bệnh, ở đây có vấn đề Thiếu dương có nhiệt. Phần dưới của điều này là bệnh ở kinh Thái dương truyền vào kinh Dương minh, có đường vào của Thái dương, có đường đi của Thiếu dương, ở giữa có quan hệ với Thiếu dương hay không? Cũng có quan hệ với Thiếu dương.
Ở đây bao gồm cả Thiếu dương xu cơ (vận động trục quay) không tốt, Thiếu dương xu cơ không thể đề kháng ngoại tà xuất ra ngoài, v́ thế tà khí liền thông qua Thiếu dương mà truyền đến Dương minh, xuất hiện hội chứng phiền táo (bực bội nóng nảy) ở đây có hàm nghĩa, biểu, lư, trung, có biểu, có lư, có trung gian, trung gian là vấn đề của Thiếu dương.
Lấy điều C283 làm thí dụ, tỉ dụ bệnh thương hàn đă ba ngày, bệnh ở ba kinh dương được tính là đă truyền hết, ba kinh âm đương thụ bệnh tà, kinh đầu tiên là Thái âm, Thái âm đang thụ tà. “Kỳ nhân phản năng thực nhi bất ẩu, thử vi tam âm bất thụ tà dă”( 其人反能食而不呕,此为三阴不受邪也) Bệnh nhân có thể ăn mà không ẩu, đó là ba kinh âm không thụ tà, nếu như bệnh nhân này lại có thể ăn, đồng thời ăn rồi cũng không lợm giọng, không ẩu thổ, chính là khí của tỳ vị c̣n rất tốt, khí bên trong c̣n hoà. Lúc này tà khí vẫn c̣n ở các kinh dương, chưa thể xâm nhập vào các kinh âm. Là ba kinh âm không thụ tà, đặt nó ở thiên Thiếu dương có ư nghĩa ǵ? Thái dương, Dương minh, Thiếu dương, sau Thiếu dương là Thái âm, v́ thế Thiếu dương lại chính là trục quay của âm dương, tà khí đến Thiếu dương, Thiếu dương đề kháng không được. Liền chuyển tiếp đến Thái âm. Nếu khí cơ Thiếu dương tốt bệnh không phát triển đến kinh âm, trước đây đă giảng qua, Thiếu dương bệnh có âm chứng là có cơ hội thay đổi t́nh thế, nói về thang Sài hồ Quế chi Can khương, bụng trướng đầy, tiết tả, đă xuất hiện các dấu hiệu của Thái âm bệnh. Nếu như Thiếu dương có sức mạnh, dương khí có thể đề kháng bệnh tà, ngăn chặn bệnh tà xâm nhập vào Thái âm. Hai điều này cho thày thuốc biết rằng, bệnh từ biểu vào lư cũng được, từ dương nhập vào âm cũng được, luôn luôn là khi điều trị Thiếu dương bệnh không hiệu quả, công năng kháng bệnh của Thiếu dương không tốt mà xuất hiện. Trong điều trị nên chú ư vấn đề này. Tại sao? Ở phần trước đă nói về việc này, Thiếu dương bệnh sau khi phát hăn, bệnh nhân lại nói nhảm, mê sảng, “thử thuộc vị, vị hoà tắc dũ, vị bất hoà tắc phiền nhi táo” (此属胃,胃和则愈,胃不和则烦而躁) Đó là thuộc vị, vị khí hoà th́ khỏi bệnh, vị bất hoà nên bực bội và nóng nảy. Tại sao bn bực bội nóng nảy? Trị Thiếu dương bệnh không trị đúng, tà khí liền từ biểu nhập lư, rồi đến vị. Thiếu dương bệnh điều trị không tốt, sẽ ảnh hưởng đến công năng kháng bệnh của Thiếu dương, bệnh sẽ từ dương nhập vào âm. V́ thế Thiếu dương là trục xoay của biểu lư, là trục xoay của âm dương. Hai điều này là nói về vấn đề bệnh của ba kinh dương cũng được, với âm dương th́ bệnh tà của kinh dương chuyển tiếp đến kinh âm cũng được, tất cả đều là có quan hệ với Thiếu dương. V́ thế khi điều trị bệnh ở Thiếu dương, không nên phạm vào những cấm kỵ của Thiếu dương, để Thiếu dương không bị bất cứ tổn thất nào, như vậy sẽ bảo đảm bệnh tà không truyền vào trong, không truyền biến vào trong âm. Ngoài ra, đối với việc điều trị Thiếu dương bệnh, đă có vấn đề hoà giải biểu lư, cũng có vấn đề hoà giải âm dương. V́ bản thân kinh Thiếu dương cũng có đủ các đặc điểm như vậy.
271伤寒三日,少阳脉小者,欲已也。 C284
272少阳病,欲解时,从寅至辰上。 C285
271 Thương hàn tam nhật, Thiếu dương mạch tiểu giả, dục dĩ dă. C284
272 Thiếu dương bệnh, dục giải thời, ṭng dần chí th́n thượng. C285
Hai điều này tŕnh bày về tiên lượng của Thiếu dương bệnh.
“Thương hàn tam nhật” (伤寒三日) chính là cách nói vay mượn. Thương hàn đă ba ngày, nếu như bệnh truyền vào kinh Thiếu dương, hăy thiết mạch cho anh ta, “thiếu dương mạch tiểu giả”( 少阳脉小者) chữ tiểu ở đây giảng là chữ “tế”, Thiếu dương bệnh mạch tế mà không huyền, Thiếu dương bệnh chính là “mạch huyền tế”, Thiếu dương mạch tiểu nói lên điều ǵ? Là đảm nhiệt đă suy, bệnh tà của Thiếu dương đă suy, mạch không huyền khẩn, huyền cấp, huyền sác, chính là mạch tiểu, đây là phản ảnh của tà khí suy mà chính khí khôi phục. Thiếu dương, chính là khí tiểu dương, v́ thế mạch của nó là huyền tế, nếu như mạch tiểu, không phải như vậy là mạch đă rất huyền, không phải huyền cấp, mạch rất tế tiểu, như vậy là tà khí đă suy. Tà khí đă suy, th́ chính khí hồi phục, và bệnh sẽ biến chuyển tích cực, “Dục dĩ dă” (欲已也)muốn ngừng lại, đúng là tốt, dĩ là ngừng lại, bệnh không phát triển. Đây chính là một hiện tương tốt đẹp. {Mạch quyết}cũng viết như vậy “Đại tắc bệnh tiến, tiểu tắc bệnh thoái”(大则病进,小则病退), phàm bệnh thấy mạch đại, chính là bệnh tiến triển, mạch tiểu là bệnh sẽ thoái lui, điều này cũng thích ứng với các bệnh.
Nếu như điều kiện hợp thành th́ sẽ khỏi bệnh, “ṭng dần chí thần thượng” (从寅至辰上) từ giờ dần đến giờ th́n, dần, măo, th́n, mặt trời mọc vào giờ măo, trước giờ Măo 2 giờ là giờ Dần, lúc này là khí nhất dương, dương khí, mộc khí, khí Thiếu dương vừa lên, vào lúc này đối với thân thể là có lợi cho Đảm, nó có khả năng hỗ trợ chính khí, v́ thế ở thời điểm này khí vượng, th́ chính khí mạnh mẽ và tà khí suy thoái, điều này tạo thành một điều kiện tốt, khi Thiếu dương bệnh biến chuyển tốt, tức là muốn giải trừ bệnh th́ cần có điều kiện là vào đúng thời gian của Thiếu dương chính khí vượng. Có người tranh luận, về việc “Dục giải thời” (thời điểm dễ giải trừ bệnh) có thể nói về nó không? Khi Thiếu dương bị bệnh, không uống thang Tiểu sài hồ mà lại chờ đợi đến giờ Dần đến giờ Măo cho tốt ư? Lăo Nhân gia Trương Trọng Cảnh cũng không nói như vậy. Thời gian thuận lợi cho việc giải trừ bệnh, dục ở đây có ư là cân nhắc, không thể nói như là một việc tất nhiên sẽ giải trừ được bệnh, khi có đầy đủ điều kiện rồi, bệnh này sẽ có chiều hướng thuận lợi để b́nh phục, con người và tự nhiên giới có liên hệ nội tại (bên trong) với nhau, có ảnh hưởng hỗ tương, thời điểm công năng của Thiếu dương tốt nhất, chính khí được đầy đủ nhất, theo quan sát của người xưa là vào giờ th́n và giờ măo, là b́nh minh, là lúc khí bắt đầu đến.
Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-08 20:58:23
BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ MẠCH & CHỨNG CỦA BỆNH Ở KINH THÁI ÂM
[Khái thuyết]
Thái âm bệnh là giai đoạn bắt đầu của tam âm bệnh, hàm ư là tà khí đă phát triển từ lục phủ sang ngũ tạng. V́ ba kinh dương thuộc về bệnh của lục phủ, ba kinh âm thuộc về bệnh của ngũ tạng, bệnh của ngũ tạng nghiêm trọng hơn so với bệnh của lục phủ. Thái âm chủ yếu biểu hiện ở tạng tỳ và vị, công năng của tỳ vị suy yếu, dương khí không đầy đủ, chính là tỳ dương hư suy, công năng thăng giáng không tốt, đồng thời c̣n có hàn thấp chưa được giải trừ, đây chính là bộ phận bệnh lư của nó. Hội chứng biểu hiện chủ yếu là bụng trướng đầy, ẩu thổ, không thể ăn uống, tiết tả, có lúc c̣n đau bụng, v́ thế biểu hiện hội chứng của bệnh và biến hoá bệnh lư đều nhất trí (thống nhất), phản ảnh được đặc điểm của tỳ dương hư suy, hàn thấp gây tổn thương cho tạng tỳ.
Nguyên nhân bệnh của Thái âm bệnh gồm hai phương diện. Một phương diện là có khi trực tiếp xuất hiện Thái âm bệnh, không trải qua quá tŕnh truyền biến của các kinh khác, chúng ta gọi là Thái âm bệnh nguyên phát. Trên phương diện khác, là do bệnh từ Thiếu dương truyền nhập Thái âm, “dương khứ nhập âm cố dă” (阳去入阴故也) từ dương nhập vào âm, có khi Thái dương bệnh ngộ trị, dùng nhầm phép phát hăn, tả hạ, gây tổn thương cho Thái âm tỳ dương mà xuất hiện Thái âm bệnh. Truyền kinh cũng được, ngộ trị cũng được, những trường hợp này đều gọi là Thái âm bệnh kế phát. Thái âm bệnh cũng chính là hai loại này, một gọi là kinh chứng, một gọi là tạng chứng. Kinh chứng có mạch phù, tứ chi buồn bực và đau, điều trị dùng thang Quế chi. Tạng chứng chủ yếu phản ảnh tạng tỳ thụ lạnh tỳ dương hư suy, đau bụng, trướng bụng, tiết tả nhưng không khát, nên dùng ôn pháp thuộc thế hệ Tứ nghịch “Tứ nghịch bối” (四逆辈) thế hệ tứ nghịch như thang Tứ nghịch, thang Lư trung để điều trị. Ngoài ra cũng có một loại tỳ bệnh, không phải hàn chứng cũng không phải nhiệt chứng, mà chính là bản thân tạng tỳ âm dương khí huyết bất hoà xuất hiện đầy bụng đau bụng, điều trị bệnh này dùng thang Quế chi gia Thược dược.
Thái âm và Dương minh có quan hệ biểu lư, tỳ và vị liên hệ với nhau. “hư tắc Thái âm, thực tắc Dương minh” (虚则太阴, 实则阳明)Hư chứng thuộc Thái âm, thực chứng thuộc Dương minh, v́ thế Thái âm bệnh bên trong cũng xuất hiện hội chứng bức bách Dương minh bên ngoài. V́ sao gọi là bức bách Dương minh bên ngoài? V́ Thái âm là thuộc bên trong, Dương minh thuộc bên ngoài, dương ở ngoài, âm ở trong, v́ thế các nhà chú giải gọi là bên ngoài bức bách Dương minh. Ngoại bách Dương minh sẽ xuất hiện bụng trướng đầy, đau bụng hơn, nguyên văn là đại thực, đại măn, đại thống (trướng, đầy và đau hơn) đau hơn một chút so với chứng tỳ hư hàn, đồng thời c̣n không đại tiện, nên dùng thang Quế chi gia Thược dược hoặc gia Đại hoàng để điều trị. Thái âm bệnh xuất hiện đầy trướng và đau nhiều, cũng có thể dùng Đại hoàng để tả hạ. Đây là nói về vấn đề quan hệ của Thái âm và Dương minh, khi phát bệnh có một vấn đề ảnh hưởng vào biểu lư.
Thái âm bệnh c̣n có một loại bệnh thấp nhiệt. Thái âm chủ thấp, chứng hàn thấp dùng Tứ nghịch bối (thế hệ Tứ nghịch).
Thấp nhiệt sau 7,8 ngày, nếu như xuất hiện chứng trạng phiền muộn và tiết tả, là phản ảnh tỳ dương khá mạnh, cũng thấp nhiệt đấu tranh với nhau, v́ thế phát bực bội, không cần điều trị, thấp nhiệt sẽ bị chính khí của tạng tỳ đề kháng, không thể lưu lại trong cơ thể mà theo tiết tả bài xuất ra ngoài, đây cũng là cơ hội để giải trừ bệnh. Để giải trừ tam dương bệnh có chiến hăn, đến âm kinh có hạ lợi để giải trừ bệnh, đưa những vật bẩn thỉu nhơ nhớp ra khỏi ruột, bệnh sẽ mau lành.
273 太阴之为病,腹满而吐,食不下,自利益甚,时腹自痛。若下之,必胸下结硬。 C286
273 Thái âm chi vi bệnh, phúc măn nhi thổ, thực bất hạ, tự lợi ích thậm, thời phúc tự thống. Nhược hạ chi, tất hung hạ kết ngạnh. C286
Điều văn này là đề cương chứng của Thái âm bệnh.
Thái âm bệnh là chứng lư hư, nói cụ thể là chứng tỳ hư hàn, có thể nói là chứng tạng hàn. Tỳ hư c̣n có hàn, hư là chính khí hư, hàn là có bệnh tà, v́ thế bụng trướng đầy. V́ sao bụng trướng đầy? V́ có hàn, hàn là âm tà, gây tổn thương cho khí của tỳ dương, tỳ dương hư rồi mà tam tiêu lại có hàn tà nên tỳ khí không thuận lợi, vận chuyển kém, v́ thế bụng trướng đầy, tỳ là bộ máy thăng giáng của trung tiêu, hiện tại tỳ hư lại hàn, tỳ khí không vận chuyển được nhiều, hàn khí lại ngưng tụ, v́ thế bụng trướng đầy, tạng tỳ không thể tưới ra chung quanh, công năng vận chuyển của tạng tỳ bị trở ngại.
{Tố vấn*Ngọc cơ chân tạng luận}: “Tỳ vi cô tạng, trung ương thổ dĩ quán tứ bàng” (脾为孤脏,中央土以灌四傍) là tạng tỳ không chủ riêng về mùa nào như bốn tạng nên gọi là cô tạng (Tâm chủ về mùa hạ, can chủ về mùa xuân, phế mùa thu và thận mùa đông) Tỳ chủ về 15 ngày cuối của mỗi mùa, có tác dụng trung gian hoà giải, hiện tại công năng vận động gặp trở ngại, lại có hàn tà, bụng sẽ bị trướng đầy, tất nhiên sẽ dẫn đến khí cơ thăng giáng không thuận lợi.
Tỳ khí hư hàn, thanh dương không thăng lên, sẽ xuất hiện “tự lợi” Tại sao gọi là tự lợi? Là hạ lợi tự phát, không phải là thày thuốc dùng thuốc tả hạ. Thanh dương không thăng nên trọc âm không hạ, vị khí không hạ xuống nên sẽ “nhi thổ” (而吐) ẩu thổ.Trung tiêu hư hàn, vị khí không thể làm ngấu chín thực phẩm, tỳ không thể vận chuyển mạnh mẽ, nên sẽ “thực bất hạ” (thực phẩm không tiêu). Tại sao “Tự lợi ích thậm”? (tiết tả càng nhiều) Ở đây có một số ư nghĩa. Thứ nhất, đây là một bệnh thượng thổ hạ tả (trên nôn. dưới đi tả). So sánh mà nói, Thái âm bệnh tiết tả càng nhiều, như Tứ nghịch thang và Lư trung thang chứng; Dương minh bệnh với chủ yếu là ẩu thổ, như ở thiên Dương minh bệnh với Ngô thù du thang chứng “ẩm thực tắc thổ” (ăn uống th́ ẩu thổ). Thứ hai, bụng trướng đầy có hai t́nh huống hư trướng và thực trướng, bụng trướng đầy của dương minh bệnh vị gia thực thường kèm theo phân khô cứng, thuộc thực trướng; Bụng trướng đầy của Thái âm bệnh tỳ gia hư thường kèm theo chứng tiết tả càng nhiều, thuộc hư (trướng đầy).
Thứ ba, bụng trướng đầy phần lớn sẽ giảm nhẹ sau khi trung tiện hoặc đại tiện, nhưng chứng bụng trướng đầy của Thái âm bệnh th́ không như vậy, là tự đi tả và càng trướng đầy nhiều hơn. V́ thế, “ích thậm” (益甚) là càng nhiều đă bao gồm sự so sánh giữa tự lợi (tự tiết tả) và ẩu thổ, cũng bao gồm chứng trướng bụng, mà càng tiết tả th́ chứng đầy bụng càng tệ hại, đây là một hội chứng hư hàn được khắc hoạ rất rơ ràng của chứng tỳ khí không thể thăng thanh.
“Thời phúc tự thống” (时腹自痛) có lúc đau bụng, là đặc điểm của đau do hư hàn. Không những bụng trướng đầy mà c̣n bị đau, thường khi bụng được ấm áp th́ chứng đau bụng giảm, bị lạnh th́ đau tăng lên. Do đó có thể thấy, dương hư ở trung tiêu, tỳ khí không chuyển vận ở hai bên, chung quanh, thăng giáng ở trên và ở dưới cũng không thể hoà giải được, v́ thế lại thổ lại tả, bụng lại trướng, có lúc bụng c̣n bị đau. “Nhược hạ chi, tất hung hạ kết ngạnh”( 若下之,必胸下结硬) nếu công hạ, sẽ kết cứng ở dưới ngực, bệnh này bụng trướng đầy và đau, nếu như nhận nhầm là thực chứng, sử dụng một số thuốc tả hạ, sẽ làm cho bệnh càng hư thêm. “Bệnh phát vu âm, nhi phản hạ chi, nhân tác bĩ dă” (病发于阴,而反下之,因作痞也) bệnh phát ở âm mà lại công hạ, là nguyên nhân gây bĩ ngạnh (bĩ cứng), chính là âm chứng, hàn chứng, hư chứng, mà lại dùng thuốc tả hạ. Chẳng phải sẽ làm cho tỳ khí hư tổn hơn sao?, chẳng phải sẽ làm cho hàn tà ngưng kết hơn ư? Cho nên sẽ tạo thành chứng kết ngạnh ở trong ngực, khí càng nghịch và hàn tệ hơn. Vị trí của dưới lồng ngực cao hơn dưới tim một chút, khí bị bế tắc, dương khí cũng thông thể ôn thông, đây chính là hậu quả.
274 太阴中风,四肢烦疼,阳微阴涩而长者,为欲愈。 C287
276太阴病脉浮者,可发汗,宜桂枝汤。 C289
274 Thái âm trúng phong, tứ chi phiền đông, dương vi âm sáp nhi trường giả, vi dục dũ. C287
276 Thái âm bệnh mạch phù giả, khả phát hăn, nghi Quế chi thang. C289
Điều C287. “Thái âm trúng phong, tứ chi phiền đông” (太阴中风,四肢烦疼) nên tiếp theo điều C289 “Mạch phù giả, khả phát hăn, nghi Quế chi thang” (脉浮者,可发汗,宜桂枝汤); Điều C289 “Thái âm bệnh” (太阴病) nên tiếp sau “Dương vi âm sáp nhi trường giả, vi dục dũ”. (阳微阴涩而长者,为欲愈)mạch dương vi, mạch âm sáp mà trường là bệnh muốn khỏi. Như thế là kết hợp lâm sàng và hiểu rơ hơn văn bản gốc, {Y Tông Kim Giám}và Kha Vận Bá đều mạnh dạn thay đổi văn bản gốc. Hai điều này cũng nên sửa đổi.
“Thái âm trúng phong”, trúng phong không phải là trúng hàn, trúng phong chính là trúng phong của Thái âm, phạm vi thuộc về kinh Thái âm, cũng không phải là Thái dương hay Dương minh, cũng không phải là Thiếu dương. Đặc điểm của Thái âm trúng phong, chính là tứ chi phiền đông (烦疼), phiền đông có nghĩa là rất đau, đau tệ hại.
V́ tạng tỳ chủ tứ chi, phong dẫn mạt cấp (phong dẫn ra ngọn rất nhanh) tứ chi là phần ngoài cùng của cơ thể (mạt tiêu), v́ thế phong tà trúng Thái âm, phản ảnh vào vị trí tứ chi, tứ chi đau đớn tệ hại, cổ nhân gọi đây là hội chứng kinh biểu của Thái âm. “Mạch phù giả” (脉浮者) mạch phù là bệnh tà không xâm nhập vào trong, thí dụ như ở hội chứng cương lĩnh điều thứ nhất, đều thấy mạch trầm tŕ, trầm sáp, không thấy mạch phù. Ở đây thấy mạch phù, là chứng Thái âm trúng phong. Thái dương bệnh thụ hàn có thể xuất hiện mạch phù, Thái âm bệnh thụ hàn không thể thấy mạch phù.
Thái âm trúng phong, tứ chi đau tệ hại, đây là đặc điểm của phong tà ở tứ chi, tạng tỳ chủ tứ chi, gọi là trúng phong của Thái âm tỳ, phong tà lại khiến tứ chi bị đau, đây là quy luật của nó. Thời cổ đại nói là “Phong dẫn mạt cấp” (风引末急) phong nhanh chóng dẫn ra đầu ngoài cùng, là sách vở đă ghi chép lại. Mạch lại phù, tại sao vậy? “khả phát hăn, nghi Quế chi thang” (可发汗,宜桂枝汤) có thể phát hăn, nên dùng thang Quế chi. Tại sao không dùng thang ma hoàng? Thang Ma hoàng phát hăn rất mạnh, dễ tổn thương chính khí của cơ thể. Ngoài ra, thang Quế chi cũng có ư nghĩa của thang Tiểu kiến trung, cũng có thể giải cơ, trị tứ chi đau tệ hại, lại có thể điều hoà tỳ khí của Thái âm, cho nên thang Quế chi có những điểm phù hợp tốt đối với Thái âm, bất luận là biểu tà cũng được, lư khí cũng được, dùng thang Quế chi đều thích hợp. Thang Quế chi điều hoà doanh vệ, điều hoà khí huyết, điều hoà tỳ vị, v́ thế chứng Thái âm trúng phong sử dụng thang Quế chi là thích hợp. Kết hợp với lâm sàng, xuất hiện chứng trạng tứ chi bị đau, mạch phù là nhữnhg bệnh chứng thường gặp trên lâm sàng. Cảm thụ phong tà, tứ chi bị đau, mạch phù, Quế chi có lợi cho xương khớp, sở trường về điều trị đau ở tứ chi, thông dương mà điều hoà doanh vệ, chúng ta dùng điều này làm hội chứng kinh biểu của Thái âm.
Thái âm bệnh “phúc măn nhi thổ, thực bất hạ, tự lợi ích thậm” (腹满而吐,食不下,自利益甚) Đầy bụng ẩu thổ, không ăn được, tự lợi (tiết tả) càng nhiều, nếu như thấy “dương vi âm sáp”( 阳微阴涩), mạch dương vi, án mạch nhẹ tay thấy mạch vi vô lực, ấn mạnh tay (trầm thủ) lại thấy mạch sáp (rít), mạch sáp cũng là mạch tŕ, mạch sáp “Tế tŕ văng lai nan”( 细迟往来难) mạch tế tŕ (nhỏ chậm qua lại khó khăn), mạch ngắn và tán. Đây chính là h́nh tượng mạch của tỳ khí, trung dương (dương ở trung tiêu) hư suy lại có h́nh tượng mạch hàn thấp. Nếu như mạch biến ra như vậy, biến thành “nhi trường” (mạch dài) theo kinh nghiệm của người viết không nhất thiết phải là mạch trường, đột nhiên trở thành mạch trường, là quá nhanh. Là mạch dương vi, âm sáp biến đổi dần dần, dương vi không phải là vi ngay như thế, mạch sáp không phải là sáp rít ngay như vậy. Mạch tượng dần dần triển khai (mở rộng), phương diện chuyển biến của mạch sáp từ âm chuyển sang dương, từ vô lực hướng sang hữu lực. “Dục dũ dă” (欲愈也) là bệnh có những diễn biến tốt, đang hồi phục. Tốt ở điểm nào? Tà khí thoái mà chính khí hồi phục, âm chứng mà xuất hiện dương mạch. Đây là cách người viết đă trải nghiệm, và cũng đă thay đổi cách đặt vấn đề một chút để mọi người cùng tham khảo học tập.
275太阴病欲解时,从亥至丑上。 C288
275 Thái âm bệnh dục giải thời, ṭng hợi chí sửu thượng. C288
Điều văn này thảo luận về thời gian thuận lợi để giải trừ bệnh ở kinh thái âm. Từ giờ Hợi đến giờ Sửu, là nửa đêm, theo lư thuyết là thời gian âm thịnh, nhưng chính là khi đến giờ Tư, giờ Tư là giờ Dương thứ nhất, âm cực độ th́ dương thăng; Giờ Sửu thuộc thổ, tỳ là tạng thuộc thổ, thịnh vượng ở thời gian cuối của bốn mùa, tính theo năm cũng được, theo giờ cũng được. là 4 giờ gồm th́n tuất sửu mùi, đan xen vào các thời gian. Ư kiến của các nhà chú thích không tương đồng, có thuyết cho rằng Thái âm bệnh là thuộc chí âm, là âm cực thịnh, nửa đêm âm khí cũng thịnh, với âm khí thịnh khi được thụ hưởng âm khí nên khỏi bệnh. Người viết cho rằng lư thuyết này không hợp lư, v́ được âm mà khỏi bệnh th́ không dễ để giải thích. Ư kiến của người viết là giờ Hợi, âm khí tuy thịnh nhưng dương khí đă lên, âm cực dương thăng, dương khí thăng, nên âm khí thoái lui. V́ Thái âm bệnh là chứng trúng hàn, đắc dương sẽ tốt lành, đắc âm th́ xấu. Giải thích như vậy có thoả đáng không? Xin tham khảo cùng các bạn. Đây chính là thời gian thuận lợi để giải trừ bệnh cho Thái âm bệnh, điều kiện thời gian, chính là thời gian có lợi đối với tạng khí của Thái âm bệnh, là thời cơ để giải trừ bệnh.
277 自利不渴者,属太阴,以其藏有寒故也。当温之,宜服四逆辈。 C290
277 Tự lợi bất khát giả, thuộc Thái âm, dĩ kỳ tàng hữu hàn cố dă. Đương ôn chi, nghi phục Tứ nghịch bối. C290
Điều văn này thảo luận về chứng trạng và trị liệu của Thái âm bệnh hư hàn hạ lợi và sự khác biệt với chứng hạ lợi của Thiếu âm.
Tự lợi là chứng tiết tả tự phát, và là chứng tiết tả rất tệ hại, là tiết tả tăng nặng, nếu như “bất khát” không khát th́ “thuộc Thái âm” bệnh thuộc chứng trung tiêu tiết tả, thuộc Thái âm, mà không thuộc Thiếu âm. Trong tam âm bệnh đều có tiết tả, Thái âm tiết tả, Thiếu âm tiết tả, Quyết âm tiết tả nên có sự phân biệt, Theo Trương Trọng Cảnh tiết tả mà không khát th́ bệnh thuộc Thái âm, là chứng tiết tả do trung tiêu hư hàn. Hàm ư là, nếu như tiết tả mà khát nước là bệnh thuộc Thiếu âm, là chứng tiết tả của hạ tiêu hư hàn. V́ sao chứng tiết tả do trung tiêu hư hàn lại không khát, mà tiết tả do hạ tiêu hư hàn lại khát? V́ hạ tiêu tiết tả chính là chứng tiết tả của Thiếu âm thận dương hư có hàn, thận dương đă hư suy, thận dương có tác dụng khí hoá tân dịch, dương khí hư nên không thể chưng hoá tân dịch, một bên là tiết tả, một bên là khát nước, đă ảnh hưởng đến công năng khí hoá.
Chứng tiết tả của Thái âm chính là càng tiết tả bụng càng trướng, chính là tỳ khí càng hạ lợi càng hư tổn, không giống như Thiếu âm, có biểu hiện là tiết tả nhưng không khát. Tiết tả do hàn thấp, càng tiết tả bụng càng trướng, nhưng không khát, như vậy bệnh thuộc trung tiêu, cũng thuộc Thái âm. Nguyên nhân của chứng tiết tả là “Dĩ kỳ tạng hữu hàn cố dă” (以其脏有寒故也) là trong tạng có hàn, Tạng tỳ có hàn, cộng thêm tỳ dương lại bị hư suy, thăng giáng không điều hoà, tỳ khí không vận chuyển, v́ thế bụng bị trướng, đau bụng, tiết tả. Như vậy nên “Đương ôn chi” (当温之), phép trị liệu là sử dụng ôn dược để ấm áp Thái âm tỳ, nên dùng Tứ nghịch bối (thế hệ Tứ nghịch). Nên uống các thuốc loại h́nh thang Tứ nghịch bao gồm như thang Lư trung, Tứ nghịch. Tại sao Trọng Cảnh không nói cụ thể? Nói dùng Lư trung cũng được, dùng thang Tứ nghịch cũng được, tại sao đây là một điều đặc thù mà lại dùng các từ khái quát chung chung như vậy? V́ chứng Thái âm tiết tả của trung tiêu và chứng Thiếu âm tiết tả của hạ tiêu không phải là không thể vượt qua. Chứng tiết tả đă nặng, sẽ h́nh thành chứng tiết tả của hạ tiêu, chứng hàn tả nặng (tiết tả v́ lạnh) của Thái âm, sẽ dẫn đến thận dương hư suy. Đồng thời thày thuốc rất khó nắm được thời gian, bệnh nhân có đến khám bệnh đúng vào lúc bị trung tiêu tiết tả không? Cũng có thể có một chút chậm trễ về thời gian. Trọng Cảnh cho rằng cần căn cứ theo t́nh huống, nếu như là tiết tả của Thái âm bệnh, chứng tiết tả không khát của trung tiêu tiết tả, trước khi chưa ảnh hưởng đến hạ tiêu thận mà dẫn đến thận dương hư suy, th́ thời điểm này bệnh nhân có thể uống thang Lư trung.
Nếu thời gian bệnh tiết tả kéo dài, không những tỳ dương bị hư tổn, thậm chí tỳ thận dương cũng hư tổn, tiết tả ra cả thực phẩm chưa tiêu hoá, hoả không thể sinh thổ, thận dương không thể sinh tỳ thổ, thời điểm này được dùng phụ tử tễ, dùng thang Tứ nghịch, nhưng không được dùng thang Lư trung.
“Lư trung giả, lư trung tiêu, thử lợi tại hạ tiêu” (理中者,理中焦,此利在下焦) thang Lư trung là thang dược có tác dụng điều chỉnh trung tiêu, chứng hạ lợi này ở hạ tiêu, phải gia thêm Phụ tử, v́ thế Trương Trọng Cảnh đă cảnh báo, nên căn cứ theo nhu cầu của t́nh trạng bệnh, châm chước t́nh huống, dùng thang Lư trung ở trung tiêu, bệnh tại hạ tiêu thuộc thận dương hư hàn th́ dùng thang Tứ nghịch. Hiện tại v́ sao có thang Phụ tử lư trung hoàn? Chính là thang Lư trung căn bản là điều trị chứng trung tiêu tiết tả, hiện tại phương này gia thêm vị Phụ tử, chính là có thể điều trị chứng tiết tả ở cả trung tiêu và hạ tiêu, như thế có phạm vi điều trị bệnh mở rộng hơn, đây là sự phát triển của hậu thế. Ở trên có liên quan đến chứng ẩu thổ, tiết tả của Thái âm tạng tỳ hư hàn, đồng thời chỉ ra một phương pháp trị liệu, cần phải dùng ôn dược (thuốc có tính ấm), nên uống Tứ nghịch bối (loại h́nh Tứ nghịch) Bổ sung một số tài liệu trên lâm sàng. Thứ nhất, nếu bệnh nhân ẩu thổ tệ hại, trung tiêu hàn lănh, có ẩu thổ có tiết tả, thang Lư trung nên gia thêm Đinh hương và Ngô thù, gọi là thang Đinh Du Lư trung, có tác dụng tăng cường giáng nghịch trị ẩu thổ. Thứ hai, tiết tả ở trung tiêu, khí Thái âm là thấp, hàn thấp tiết tả, nếu chứng tiết tả đối với hai bên eo lưng có cảm giác đau buốt (lănh thống), mông nặng nề, xương cụt đau ê ẩm, thang Lư trung nên gia thêm vị Thương truật và Phụ tử, gọi là Thương Phụ Lư trung thang, tăng cường tác dụng khứ hàn trừ thấp. Thứ 3, hàn thấp tiết tả có lúc kèm theo tiểu tiện ít, thấp là bệnh tà có tính dính nhờn, là âm tà, v́ thế tiểu tiện ít, đă có thấp là tam tiêu sẽ bất lợi, trong thang Lư trung nên gia Phục linh và Trạch tả, gọi là thang Linh tả Lư trung, tăng cường tác dụng ấm tạng tỳ lợi thấp. Thang Lư trung c̣n có một tên khác là thang Nhân sâm.
278 伤寒脉浮而缓,手足自温者,系在太阴。太阴当发身黄;若小便自利者,不能发黄。至七八日,虽暴烦,下利日十余行,必自止,以脾家实,腐秽去故也。 C291
278 Thương hàn mạch phù nhi hoăn, thủ túc tự ôn giả, hệ tại Thái âm. Thái âm đương phát thân hoàng; Nhược tiểu tiện tự lợi giả, bất năng phát hoàng. Chí thất bát nhật, tuy bạo phiền, hạ lợi thập nhật dư hành, tất tự chỉ, dĩ tỳ gia thực, hủ uế khứ cố dă. C291
Điều văn này thảo luận về hai loại kết cục của Thái âm bệnh, một là thấp tà gây chứng vàng da, hai là tỳ dương khôi phục, chính khí thắng, tà khí thoái lui. Điều văn C291 nên kết hợp với điều văn C199 ở thiên Thái dương “Thương hàn mạch phù nhi hoăn, thủ túc tự ôn giả, thị vi hệ tại Thái âm. Thái âm đương phát thân hoàng; Nhược tiểu tiện tự lợi giả, bất năng phát hoàng” (伤寒脉浮而缓,手足自温者,是为系在太阴。太阴当发身黄;若小便自利者,不能发黄。至七八日,虽大便硬者,为阳明病也) để xem xét, hai bài này cần hỗ tương đối chiếu xem, để có thể t́m được ngọn nguồn, t́m được bố cục và sự phối hợp của hai bài vừa nêu.
Sự khác biệt của bài C199 và bài này là, phân cứng là biểu hiện của thấp đă trừ khứ hết mà nhiệt th́ chưa được khứ trừ, hoá theo táo (phân cứng) là đă biến thành Dương minh bệnh, v́ Thái âm và Dương minh là biểu lư, nhiệt của Thái âm bức bách vào Dương minh mà hoá táo (khô), và thành phân cứng. Đây là một bài khác biệt, “bạo phiền, hạ lợi thập nhật dư hành” (暴烦,下利日十余行) Rất phiền muộn, hạ lợi hơn 10 lần một ngày, “tỳ gia thực, hủ uế đương khứ” (脾家实,腐秽当去).
Thương hàn mạch không khẩn, đă biến thành mạch hoăn, như vậy hàn tà đă được trừ bỏ, ư nghĩa là có nhiệt, nên mạch hoăn. “Thủ túc tự ôn” ôn là phát nhiệt, v́ tạng tỳ chủ tứ chi, tay chân phát nhiệt, là tà của Thái dương đă ảnh hưởng đến Thái âm. Phát nhiệt của Dương minh bệnh không phải là vấn đề của thủ túc tự ôn, mà là nóng toàn thân, không chỉ là chân tay, toàn thân tất cả đều phát nhiệt, nhiệt của dương minh là nhiệt chưng chưng (nóng bừng). Khi Thái âm có nhiệt tà th́ chân tay nóng mà toàn thân không nóng. Đây chính là một phân biệt.
“Hệ tại Thái âm” là ǵ? Thái âm có nhiệt, Thái âm lại chủ về thấp, thấp nhiệt ngưng kết lại với nhau, v́ thế “Đương thân phát hoàng”, nên xuất hiện chứng vàng da (hoàng đản). nếu như tiểu tiện tự lợi (tự thuận lợi), thấp có đường xuất ra khỏi cơ thể, v́ thế không phát bệnh vàng da. Nếu đă trừ được thấp mà nhiệt c̣n lưu lại, phân sẽ bị cứng, liền biến thành Dương minh bệnh.
Hiện tại đă 7,8 ngày, “chí thất bát nhật đại tiện ngạnh” (至七八日大便硬) đến 7,8 ngày đại tiện phân cứng là thấp nhiệt vẫn c̣n, không phải thấp nhiệt đă bị loại bỏ hoàn toàn, đến 7,8 ngày rồi, đột nhiên xuất hiện khó chịu dữ dội, đầu tiên là khó chịu, khó chịu đến rất đột nhiên, rất mănh liệt, sau đó là đại tiện phân lỏng, là tiết tả. Tiết tả bao nhiêu lần? 3 lần hay 5 lần? Tiết tả nghiêm trọng, “Nhật thập dư hành” (日十余行) là tiết tả hơn 10 lần trong 1 ngày. Lư do cho điều này là ǵ? Trương Trọng Cảnh dùng câu ở trong ngoặc “Dĩ tỳ gia thực, hủ uế đương khứ cố dă” (以脾家实,腐秽当去故也) chính là tỳ khí đang khôi phục, dương khí của tạng tỳ sung thực, thực phẩm hư hỏng thối nát trong ruột chịu ảnh hưởng của tỳ khí sung măn, với h́nh thức tiết tả, được bài tiết ra ngoài.
Đây là hiện tượng tốt, giống như chiến hăn của Túc thái dương bệnh (rét run rồi xuất hăn gọi là chiến hăn). Bệnh tại kinh dương sẽ phát sinh chiến hăn, tà chính tranh đấu với nhau phát sinh chiến hăn, c̣n bệnh này ở âm phận, cũng là chính tà tranh đấu, là phát phiền (khó chịu) đột nhiên phát phiền dữ dội là biểu hiện của chính khí thúc đẩy bệnh tà xuất ra ngoài, là phản ảnh của chính tà tương tranh. Đến khi tiết tả hơn 10 lần, là tà khí đă ra ngoài hết không c̣n lưu lại trong cơ thể, bị tỳ khí trục xuất, theo đại tiện bài tiết ra ngoài, v́ thế xuất hiện t́nh huống tiết tả để giải trừ bệnh như trên.
Bản thân Thái âm bệnh có chứng tiết tả, kèm theo đau bụng đầy bụng. Loại tiết tả này là bệnh tiết tả, khi phát bệnh, bệnh có hàn tà, nên càng tiết tả th́ bụng càng trướng tệ hại. Đây là bài nói về chứng tiết tả là phản ảnh của việc loại trừ bệnh tà ra khỏi cơ thể là một hiện tượng tốt, chính là tỳ khí thực,
bụng sẽ hết trướng①, chính là giải trướng khí, ở đây không có hàn, mà chính là tỳ gia thực. Cơ thể con người vốn có thấp nhiệt, hoặc trong ruột có vật uế trọc không thể bài xuất ra ngoài, mượn tỳ gia thực bài tiện, một lần không thể bài xuất hết, phải bài tiết hơn 10 lần mới có thể xuất khứ hết uế trọc trong ruột ra ngoài, không cần dùng thuốc uống, chứng tiết tả có thể tự hết.
T́nh huống này có thể gặp thường xuyên, người viết cũng trải qua kinh nghiệm này, thí dụ như sau mỗi lần ăn phải thực phẩm không tốt nào đó, đau bụng liên tục, cấp tốc phải vào nhà vệ sinh sau 5,6 lần, không cần uống thuốc th́ cũng hết đau bụng.
T́nh huống vừa nêu cho thấy khi khí của tỳ vị đầy đủ, tỳ khí thực, th́ các thực phẩm hư nát dơ bẩn không thể lưu lại trong ruột, chính khí sẽ khu trừ bệnh tà ra ngoài. Không như kinh dương có thể nhờ vào phép phát hăn, đây là bệnh ở tỳ tràng vị, theo đại tiện bài xuất ra ngoài.
“Nhược tiểu tiện tự lợi giả, bất năng phát hoàng” (若小便自利者,不能发黄) Nếu tiểu tiện tự lợi th́ không phát bệnh vàng da, cũng có thấp nhiệt ngưng kết ở ruột và dạ dày, 7,8 ngày sau xuất

(“Bụng lại hết trướng” nghi là “Xú uế đang thải ra” ghi chú của Lưu phu).
hiện bạo phiền tiết tả, tỳ khí sung thực, xú uế xuất ra ngoài, đây là hiện tượng tốt.
V́ chân tay ấm là hiện tượng nhiệt không phải là hiện tượng hàn, phản ảnh khí Thái âm c̣n đầy đủ, không hư suy. Từ bài này đưa ra một gợi ư, Thái âm bệnh ưa thích dương khí, tỳ khí đầy đủ th́ có khả năng khu trừ bệnh tà ra ngoài cơ thể. Nếu hư hàn th́ tiết tả, v́ hàn thấp và thấp nhiệt tuy đều là bệnh tà, nếu thuộc nhiệt tính, tỳ khí thực, sẽ có tác dụng khứ trừ bệnh tà ra ngoài, điều này cho thấy {Thương hàn luận} Thái âm bệnh ưa thích dương khí sung măn. Ngoài ra, hai loại t́nh huống tiết tả này là khác nhau, một loại là chính khí khôi phục, chứng tiết tả của bệnh tà thoái khứ; Loại khác là chính khí hư hàn, chứng tiết tả của bệnh tà không được giải trừ.
279 本太阳病,医反下之,因而腹满时痛者,属太阴也,桂枝加芍药汤主之。 C292
279 Bản Thái dương bệnh, y phản hạ chi, nhân nhi phúc măn thời thống giả, thuộc Thái âm dă, Quế chi gia Thược dược thang chủ chi. C292
Phương thang Quế chi gia Thược dược
Quế chi bội Thược chuyển thâu tỳ
Thấp măn thăng tà chỉ thống nghi
Đại thực thống nhân phản hạ ngộ
Gia Đại nhất lạng hạ vô nghi
Trong phương thang Quế chi, gia thêm Thược dược 3 lạng, tuỳ theo trước đó tổng cộng là 6 lạng, c̣n lại theo như phép của thang Quế chi.
279大实痛者,桂枝加大黄汤主之。 C293
279 Đại thực thống giả, Quế chi gia Đại hoàng thang chủ chi. C293
Phương thang Quế chi gia Đại hoàng
Quế chi 3 lạng, bỏ vỏ Đại hoàng 1 lạng Thược dược 6 lạng Sinh khương 3 lạng, thái mỏng Cam thảo 2 lạng, nướng Đại táo 12 quả, bổ ra.
6 vị trên, dùng 7 thăng nước, nấu cạn c̣n 3 thăng, bỏ bă, uống lúc ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần.
Hai điều văn này giới thiệu chứng trạng và trị liệu âm dương khí huyết bất hoà của bản thân Thái âm tỳ.
Nguồn gốc của bệnh này chính là biểu tà của Thái dương bệnh không được giải trừ, thày thuốc điều trị sai lầm, dùng phép công hạ để trị liệu. Sau khi ngộ hạ xuất hiện trướng bụng, có lúc đau bụng, đây là thuộc về Thái âm bệnh, điều trị dùng thang Quế chi gia Thược dược. Bệnh này là do sau khi ngộ hạ Thái dương bệnh, tà khí hăm vào Thái âm, nên bản thân khí huyết của Thái âm v́ thế bất hoà, khí bất hoà gây trướng bụng, huyết bất hoà nên có lúc đau. V́ thế, đầy bụng và có lúc đau là do bản thân khí huyết của tạng tỳ bất hoà gây ra, nguồn gốc của bệnh là do sau khi ngộ hạ tạo thành, nhưng khi gặp loại t́nh huống này trên lâm sàng, không nên chỉ giới hạn ở loại t́nh huống “Bản Thái dương bệnh, y phản hạ chi” (本太阳病,医反下之) nguồn gốc bệnh ở kinh Thái dương, thày thuốc ngộ hạ, mà chỉ cần xuất hiện bệnh chứng (bụng đầy có lúc đau) là có thể dùng thang Quế chi gia Thược dược. Không nhất định là phải sau khi ngộ hạ, không ngộ hạ cũng có thể xuất hiện hội chứng đầy bụng và có lúc đau.
Tại sao nói rằng đây chính là tỳ gia khí huyết bất lợi? V́ bệnh này đă loại trừ được hai vấn đề: Một là chứng đầy bụng và đau của nó khác với tổng cương của Thái âm bệnh “Thái âm chi vi bệnh, phúc măn nhi thổ, thực bất hạ, tự lợi ích thậm” (太阴之为病,腹满而吐,食不下,自利益甚)Thái âm bệnh, đầy bụng ẩu thổ, ăn không được, chứng tự tiết tả càng nhiều, bệnh đó dùng các phương dược ôn trung (làm ấm) như loại h́nh thang Tứ nghịch, mà bệnh này th́ dùng phương Quế chi gia Thược dược. Xét theo chứng trạng th́ có những điểm tương tự, nhưng cũng có những điểm bất đồng: Ở điều này không ẩu thổ, không tự tiết tả tệ hơn, không tiết tả, đă không ẩu thổ lại không tiết tả. Rơ ràng chứng đầy bụng đau bụng không thuộc tỳ hư mà do có hàn thấp. Ngoài ra, nó không thuộc Thái âm bệnh có thấp nhiệt. V́ nó không liên quan đến tiểu tiện bất lợi, tay chân ấm áp, v́ thế không phải là thấp nhiệt. Đă không phải là hàn thấp, cũng không phải là thấp nhiệt, nguyên nhân gây ra chứng đầy bụng có lúc đau ở đây là ǵ? Các nhà chú giải cũng rất phân vân. Đối với việc trị liệu bằng thang Quế chi gia Thược dược, các nhà chú giải cũng có ư kiến riêng. Có nhà chú giải cho rằng đây là bệnh tà hăm xuống ở Thái dương bệnh, cho nên dùng thang Quế chi gia Thược dược để nâng bệnh tà bị hăm xuống ở Thái dương bệnh, nó có ư nghĩa phát tán; Gia Thược dược để hoà tỳ, trị chứng đau bụng.
Chú giải như vậy v́ trong điều này có câu “Bản Thái dương bệnh, y phản hạ chi” (本太阳病,医反下之) nguồn gốc bệnh ở kinh Thái dương, thày thuốc ngộ hạ.
Người viết không đồng ư với loại giải thích này. V́ ở đây không có biểu chứng, trên lâm sàng cũng không hoàn toàn v́ Thái dương bệnh sau khi ngộ hạ mà xuất hiện vấn đề này, loại lư thuyết này kết hợp với lâm sàng là không hiện thực. Thang Quế chi gia Thược dược là thuốc thường dùng trên lâm sàng. Trong thang Quế chi gia thêm Thược dược, trong thang Quế chi đă có sắn vị Thược dược, hiện tại Thược dược từ 3 lạng gia thành 6 lạng. Thược dược là thuốc của huyết phận, với lượng dùng của Quế chi với tỉ lệ 6:3, v́ Thược dược có vị chua, tính thu liễm, ở đây dùng đến 6 lạng Thược dược nên phương thang này không thể có công dụng phát tán. V́ thế, lư thuyết chứng này có biểu tà là không thể thành lập. Rất nhiều người giữ cách nh́n này, cá nhân người viết không đồng ư với quan điểm này. Mấu chốt của loại bệnh này là khi đầy bụng th́ có lúc đau, bụng trướng đầy th́ thuộc Thái âm bệnh. Thái âm bệnh có chứng trạng đầy bụng và có lúc đau, điều này cho thấy đây không phải là thực chứng, không phải là chứng bụng trướng đầy và đau của Dương minh bệnh, chứng đầy bụng không giảm, chứng đau bụng không giảm. Bệnh này và Dương minh bệnh có sự khác biệt. V́ thế, bệnh này đă không phải là chứng hư hàn cũng không phải là chứng Dương minh thực nhiệt, chứng hư hàn với chứng táo măn thực nhiệt đều có thể loại bỏ ra ngoài. Chứng đầy bụng có lúc đau thuộc tỳ vị sau khi chịu ảnh hưởng nhất định, bản thân âm dương khí huyết của tỳ vị bất hoà. Tỳ là tạng âm, với huyết làm chủ, khi bản thân khí huyết của tạng tỳ bất hoà sẽ xuất hiện chứng trạng đầy bụng, đau bụng. V́ không ẩu thổ, không tiết tả mà dùng thang Lư trung, Tứ nghịch th́ không có tính phù hợp mục tiêu (châm đối tính), lại v́ không có phân khô nên không thể sử dụng phép tả hạ để giải trừ chứng đầy bụng đau bụng. Đây chỉ là bụng đầy trướng, có lúc đau bụng, không lạnh không nóng, mà chính là chứng khí huyết bất hoà ở bản thân tỳ gia.
Ở đây có hay không vấn đề tỳ vị bất hoà? Người viết cho rằng có vấn đề này. “Kiến can chi bệnh, tri can truyền tỳ” (见肝之病,知肝传脾) thấy bệnh ở tạng can, biết can sẽ truyền bệnh cho tạng tỳ, bệnh ở tạng Can chủ yếu ảnh hưởng đến tạng tỳ. Đông thời nếu tạng tỳ có bệnh, cũng sẽ khiến tạng can v́ thế bất hoà. Theo tạng can để điều trị tạng tỳ, c̣n có theo tạng tỳ điều trị tạng can, đều chính là t́m hiểu liên hệ nội tại của hai tạng can và tỳ. Cả hai một là có bất hoà, sẽ xuất hiện đối nghịch nhau, hỗ tương nhau không nhịp nhàng. Trên lâm sàng điều trị chứng đầy bụng có lúc đau bụng, làm sao để biết bệnh thuộc khí huyết bất hoà? Và tại sao nó không thuộc chứng đầy bụng của tỳ khí hư? Thí dụ như chứng trạng của Hậu phác Sinh khương Bán hạ Cam thảo Nhân sâm thang, cũng có chứng trạng bụng trướng đầy, với chứng này có ǵ khác biệt? Làm sao để biết nó c̣n có vấn đề về huyết? Xét thử bài văn trên rất khó để nói rơ về những vấn đề này. Trên lâm sàng chứng này với chứng trạng của Hậu Khương Bán Cam thang khác nhau trên hai phương diện. Thứ nhất, nó có trướng bụng đau bụng, mà chứng trạng chủ yếu của Hậu Khương Bán Cam thang là trướng bụng, thông qua trung tiện, sôi bụng, chứng trướng bụng này có thể được hoăn giải. Chứng trạng trướng bụng của thang Quế chi Thược dược có lúc bị đau, khác biệt với chứng trạng của thang Hậu Khương bán Sâm, v́ thế nó không những có khí phận bất hoà, c̣n có huyết mạch bất hoà. Thứ hai, mạch huyền là chỉ thị khách quan của việc dùng thang Quế chi gia Thược dược trên lâm sàng: Một là bụng trướng đầy, có lúc đau bụng; Hai là mạch huyền tế. Mạch huyền là biểu hiện tạng can có vấn đề, mạch tế là biểu hiện vấn đề của huyết, v́ thế chạm vào mạch này giống như chạm vào lưỡi dao, rất mỏng rất tinh xảo, nhưng mạnh mẽ. Xét theo h́nh tượng lưỡi, chất lưỡi thiên về màu hồng, rêu lưỡi trắng mỏng. mạch huyền tế, bụng trướng đầy có lúc đau, chất lưỡi thiên về màu hồng là biểu hiện của tỳ huyết bất hoà, giữa hai tạng can và tỳ, huyết mạch cũng không thuận lợi, phương này gia Thược dược, đă hoà tỳ âm, lại phát can mộc, là phép tả Mộc trong Thổ. Gia thêm Quế chi, Sinh khương, Đại táo để có tác dụng thông khí, lư khí nhất định, v́ Quế chi và Sinh khương có công hiệu ôn thông.
Thang Quế chi gia Bạch thược là thang Tiểu kiến trung khứ vị đường mạch nha, thang Tiểu kiến trung trị chứng đau bụng do hư lao, cũng chính là phương thang trị chứng đau bụng. Trong thang Quế chi gia Thược dược không có đường mạch nha, cho thấy nó không giống chứng đau của thang Tiểu kiến trung, nó c̣n chính là bản thân của giai đoạn khí huyết bất hoà. Chẳng qua, lư thuyết này chính là quan điểm của người viết. Bản thân khí huyết bất hoà của tạng tỳ có quan hệ với tạng can, v́ thế phương thang này dùng đến 6 lạng Thược dược. Thược dược là vị thuốc điều trị chứng đầy bụng, đau bụng, có thể b́nh can, có thể khiến cho huyết mạch bị co thắt được hoăn giải, điều này cho thấy bệnh này chính là bệnh của huyết phận. Thược dược có thể bổ máu, hoà mạch, b́nh can, trị đau, hoà tỳ, vị Thược dược trong thang Tiểu kiến trung có thể cam toan (ngọt chua) hoá âm. Dùng vị Thược dược trong phương này chính là để điều hoà huyết mạch của tạng can và tạng tỳ, đă có thể trị chứng đau bụng, cũng có thể trị chứng đầy bụng. Trong phương c̣n có Quế chi, Sinh khương, Đại táo, Cam thảo là những vị thuốc cay ngọt (tân cam), là đi vào khí phận; Sinh khương, Quế chi tốt cho dạ dày, điều hoà khí phận, có lợi đối với việc điều trị chứng đầy bụng. Ư nghĩa thành phần của phương thang chính là điều hoà tỳ vị khí huyết âm dương, không như thang Quế chi điều hoà doanh vệ, điều hoà cơ biểu (các tổ chức ở bên ngoài cơ thể), v́ gia nhiều vị Thược dược, Thược dược là vị thuốc thuộc lư, thuộc Thái âm. Trên lâm sàng thấy bụng trướng đầy, có lúc đau bụng, mạch huyền mà tế, chất lưỡi thiên về màu hồng, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch huyền tế là phản ảnh của khí huyết bất hoà, không thể dùng các vị thuốc của khí phận như Hậu phác, Sinh khương, nên dùng thang Quế chi gia Thược dược của ngài Trọng Cảnh.
Thang Tiểu kiến trung khứ vị đường mạch nha có hiệu quả rất tốt. Loại bệnh này trên lâm sàng nam hay nữ đều có, không phải là chứng tỳ hư hàn, cũng không phải là chứng vị táo nhiệt, mà chính là tự thân khí huyết bất hoà.
Đương nhiên cũng có tương quan với tỳ khí hư, v́ thang Quế chi gia Thược dược cũng có ư nghĩa kiến trung (bồi bổ trung tiêu).
V́ phương thang này có thể điều hoà huyết mạch của can và tỳ, khiến huyết mạch không bị co thắt, nên có thể trị chứng đau bụng.
Trong phương thang có Quế chi, Sinh khương, Đại táo có thể thông dương lư khí, có thể trị chứng bụng đầy trướng. Người viết không cho rằng thang Quế chi gia Thược dược c̣n trị được biểu chứng của Thái dương, ngoại tiết kỳ biểu (Phát tiết ra ngoài), nội hoà Thái dương, mà chỉ là điều hoà Thái âm, và không có nhiều quan hệ với Thái dương. Chứng đầy bụng có lúc đau bụng có hai loại t́nh huống phát triển, bài văn bên trên chỉ nói về một loại, tức là “Gia Đại hoàng”, c̣n một loại nữa chính là gia đường mạch nha. Nếu như khí đă hư tổn, có các chứng trạng như đau bụng, hoảng hốt, tim đập nhanh, mạch vô lực, sắc mặt trắng xanh, khi đau bụng th́ đau lan vào trong, khi điều trị nên gia thêm vị đường mạch nha, là thang Tiểu kiến trung. Điều này được thảo luận khá chi tiết trong {Kim Quỹ Yếu Lược}, trong {Thương Hàn Luận} cũng đề cập: “Thương hàn nhị tam nhật, tâm trung quư nhi phiền giả, Tiểu kiến trung thang chủ chi.” (伤寒二三日,心中悸而烦者,小建中汤主之。) Thương hàn 2,3 ngày, trong ḷng hồi hộp bực bội, thang Tiểu kiến trung trị bệnh này) “Thương hàn dương mạch sáp, âm mạch huyền, pháp đương phúc trung cấp thống, tiên dữ Tiểu kiến trung thang; bất sái giả, Tiểu sài hồ thang chủ chi.” (伤寒阳脉涩,阴脉弦,法当腹中急痛,先与小建中汤;不差者,小柴胡汤主之。) Thương hàn dương mạch sáp, âm mạch huyền, đang trị chứng đau bụng cấp, đầu tiên dùng thang Tiểu kiến trung, không khỏi, thang Tiểu sài hồ trị bệnh này, Nếu tỳ khí hư, thang Quế chi gia Thược dược nên gia thêm vị Di đường, là thang Tiểu kiến trung, trị chứng đau bụng do hư lao. Nếu như “Đại thực thống giả”, người này đại tiện táo bón, đau bụng và đau tệ hại, tỳ vị khí huyết, âm dương bất hoà, lại có chứng phủ khí Dương minh bất lợi. Đầy cứng bụng (đại măn), đau bụng tệ hại , phủ khí bất lợi, dùng phương này gia Đại hoàng. V́ đây chính là bệnh của Thái âm bên ngoài va chạm với Dương minh, Dương minh là biểu của Thái âm, tạng tỳ thụ bệnh, khiến cho Dương minh phủ khí bất lợi, v́ thế bệnh này không phải là chứng tỳ thực, mà chính là khí Dương minh bất lợi, nên “Đại thực thống” (大实痛) là bụng đau trướng không thích ấn nắn, đại tiện bí kết, nên gia vị Đại hoàng để dễ đại tiện, sau khi đại tiện thuận lợi vấn đề có thể được giải quyết.
Nói chung, bản thân tỳ vị bất hoà, không hư cũng không thực, dùng thang Quế chi gia Thược dược; Nếu tỳ khí hư, đau bụng, hoảng hốt, tim đập mạnh, tâm phiền, không có sức, mặt trắng xanh, dùng thang Tiểu kiến trung; Nếu Đại thực thống, nhiều ngày đại tiện bất lợi, gia vị Đại hoàng để tả hạ.
Người viết từng dùng Quế chi gia Đại hoàng để điều trị bệnh nhân được Tây y chẩn đoán là bị bệnh lao ruột, có các chứng trạng như : Bụng trướng đầy và đau, đại tiện như bị bệnh kiết lỵ, bài tiện không thư sướng, trong phân có máu mủ nhưng lượng không nhiều, mạch huyền. Căn cứ mạch huyền, bụng trướng đầy và đau, cho thấy đây là biểu hiện của can tỳ bất hoà, liền dùng Quế chi gia Thược dược thang. Thược dược có thể trị đau, tiêu đầy trướng, lại có thể điều hoà can tỳ.
Đại tiện hậu trọng, gia thêm Đại hoàng, dùng phương Quế chi gia Đại hoàng, sau khi uống một số thang, đại tiện thoải mái, không c̣n cảm giác nặng, bụng trướng đầy giảm nhẹ, không c̣n cảm giác lư cấp hậu trọng*, phương pháp này ổn thoả hơn so với thang Tiểu thừa khí, thang Điều vị thừa khí, ổn thoả hơn v́ nó có Đại táo, Cam thảo, Quế chi, tuy có gia thêm vị Đại hoàng, nhưng lực tả hạ cũng không quá mạnh, thích hợp với bệnh nhân trong ruột có máu mủ ngưng trệ, lại thêm chính khí không quá đầy đủ, tốt hơn so với thang Tiểu thừa khí v́ có tác dụng điều hoà tỳ vị và nuôi dưỡng chính khí. Thang Quế chi gia Đại hoàng chính là phép điều trị kết hợp giữa điều hoà Thái âm lại bài tiết Dương minh, nó khác với thang Đại thừa khí là phép chuyên về bài tiết của Dương minh. Mà bụng trướng có lúc đau không phải là chứng táo thực của Dương minh bệnh, bệnh nhân không triều nhiệt cũng không nói nhảm, không bốc nóng, đây là thuộc khí huyết bất hoà của Thái âm, kinh Dương minh cũng có thực tà nhất định, v́ thế trong phương có vị Đại hoàng. Căn cứ vào quan điểm này, trên lâm sàng điều trị chứng kiết lỵ, lư cấp hậu trọng, đồng thời tạng tỳ không điều hoà th́ có thể dùng phương này.
280 太阴为病脉弱,其人续自便利,设当行大黄芍药者,宜减之,以其人胃气弱,易动故也。 C294
280 Thái âm vi bệnh mạch nhược, kỳ nhân tục tự tiện lợi, thiết đương hành Đại hoàng Thược dược giả, nghi giảm chi, dĩ kỳ nhân vị khí nhược, dị động cố dă. C294
Điều văn này nên kết hợp với điều văn trên, thảo luận khí của tỳ vị yếu nhược nên cẩn thận khi dùng thuốc hàn lương (lạnh mát).
Một là Quế chi thang gia Đại hoàng, phương này trị liệu Thái âm bệnh nên chú ư, Thái âm bệnh với Dương minh bệnh mạch trầm thực khác nhau. “Kỳ nhân tục tự tiện lợi” (其人续自便利) là đại tiện không táo bón, thuận lợi dễ dàng. Giả thiết là người này đầy bụng, đau bụng, mạch nhược, dùng Đại hoàng, Thược dược, nên giảm.
Những nhà chú giải thế hệ sau có ư kiến khác nhau về việc giảm thuốc ǵ: Theo Thành Vô Kỷ nên giảm phân lượng của cả hai vị Đại hoàng và Thược dược; Có rất nhiều quan điểm cho rằng vẫn nên dùng vị Đại hoàng nhưng nên giảm lượng của nó. Người viết cho rằng câu “nghi giảm chi” (宜减之) là dành riêng cho vị Đại hoàng. V́ trong bài văn trước viết: “Thái dương bệnh, y phản hạ chi” (太阳病,医反下之), v́ vậy chứng đầy bụng có khi đau thuộc về Thái âm, thang Quế chi gia Thược chủ trị về bệnh này. Phương thang thứ nhất là gia vị Thược dược, phương thang thứ hai là gia vị Đại hoàng, thứ ba lại viết là “nghi giảm chi”, người viết cho rằng chính là nên giảm vị Đại hoàng. Nếu người bệnh này có “mạch nhược, kỳ nhân tục tự tiện lợi” (脉弱,其人续自便利) mạch yếu và đại tiện dễ dàng, khác với đại tiện bất lợi của thang Quế chi gia Đại hoàng đă nói ở phía trước. Đại tiện đă thuận lợi, tuy đầy bụng đau bụng, nhưng “nghi giảm chi”, là giảm vị Đại hoàng, dùng thang Quế chi gia Thược dược là phù hợp. V́ thế người viết cho rằng chính là bỏ vị Đại hoàng, mà không phải là giảm lượng để uống. V́ các vị thuốc như Quế chi, Thược dược, Sinh khương, Đại táo, chích Cam thảo không gây nhiều trở ngại với vị khí, vị Đại hoàng có thể gột rửa tạng phủ, là thuốc để thay cũ đổi mới, nếu dùng vị Đại hoàng th́ vị khí “dị động cố dă” (易动故也) dễ ảnh hưởng đến vị khí, v́ thế nên giảm vị Đại hoàng, dùng thang Quế chi gia Thược dược để điều trị chứng đầy bụng đau bụng. Trọng Cảnh nói với chúng ta, những t́nh huống sử dụng vị Đại hoàng là đại thực, đại măn và đại tiện bất lợi, nếu không có những t́nh huống nêu trên, th́ nên dùng thang Quế chi gia Thược dược, mà không cần dùng vị Đại hoàng.
Chín bài ở thiên Thái âm bệnh, chủ yếu giảng về hàn thấp. Kinh chứng “ Thái âm trúng phong, tứ chi phiền đông, mạch phù giả, nghi Quế chi thang” (太阴中风,四肢烦疼,脉浮者,宜桂枝汤) Thái âm trúng phong, tứ chi đau tệ hại, mạch phù, nên dùng thang Quế chi, và c̣n đa phần là dễ giải thích; Thấp nhiệt gây bệnh “Bạo phiền hạ lợi nhật thập dư hành, tất tự chỉ” (暴烦下利日十余行,必自止) chứng tiết tả do thấp nhiệt hơn 10 lần ngày sẽ tự hết, cũng dễ giải thích; Trường hợp khó là không lạnh không nóng, mà thuộc khí huyết bất hoà của tạng tỳ gây ra chứng đầy bụng có lúc đau, rất nhiều nhà chú giải chưa h́nh dung ra được rơ ràng. Đây chính là vấn đề khí huyết bất hoà của bản thân tạng tỳ, sự phát triển của nó có hai phương diện, hư th́ dùng thang Tiểu kiến trung, thực th́ dùng thang Đại hoàng, không hư không thực th́ dùng thang Quế chi gia Thược dược. Bụng trướng đầy, có lúc đau bụng, bệnh lư chính là Thái âm khí huyết bất hoà, lại có quan hệ với tạng can. Bệnh của tỳ có thể ảnh hưởng đến tạng can, bệnh tạng can cũng có thể ảnh hưởng đến tạng tỳ. Theo quan sát lâm sàng của người viết, mạch này nên là mạch huyền, mà thường là mạch huyền tế. Đối với thang Quế chi gia Thược dược, các nhà chú giải đều có ư kiến khác biệt, đối với bệnh lư, nhận thức về phép trị liệu không đầy đủ. Ở Thái dương bệnh th́ cho rằng thang Quế chi có thể điều hoà doanh vệ, điều hoà khí huyết, điều hoà âm dương, điều hoà tỳ vị. Thang Quế chi vượt trội hơn thang Ma hoàng, ở chỗ có thể trị ngoại cảm lại có thể trị tạp bệnh, chính là phương đứng đầu trong các phương, có thể điều hoà âm dương, tỳ vị, đối với hội chứng đầy bụng có lúc đau của Thái âm bệnh dùng thang Quế chi gia Thược dược th́ rất dễ lư giải. Thái âm bệnh là bệnh của tạng tỳ, trên thực tế là hư chứng của tỳ vị. Táo nhiệt thực tính thành thực chứng của tỳ vị bệnh, thực chứng ở Dương minh; Thái âm bệnh có tính hư hàn, hư chứng tại Thái âm. Tỳ và vị có quan hệ biểu lư, mà phát bệnh th́ có ảnh hưởng hỗ tương. V́ thế. Trọng Cảnh trong thiên Thái âm bệnh với hư hàn hạ lợi làm chủ, đầy bụng có lúc đau, tự lợi ích thậm (tự tiết tả càng nhiều), có lúc bụng đau, đây chính là đề cương của Thái âm bệnh. Nếu như chứng đầy bụng có lúc đau, thuộc về bản thân khí huyết bất hoà ở Thái âm th́ bệnh không hư hàn cũng không táo thực, dạng phương thang thuộc thế hệ Tứ nghịch, thế hệ Thừa khí đều không được sử dụng trong trường hợp này, tuy nhiên đă có thang Quế chi gia Thược dược.
Phương Quế chi gia vị có thang Quế chi gia Quế để trị chứng khí Bôn đồn, vị Quế chi gia thành 5 lạng để trị chứng khí thượng xung của khí bôn đồn; Có Quế chi gia Thược dược Sinh khương đều 1 lạng Nhân sâm 3 lạng tân gia thang, Quế chi gia Sinh khương để tăng cường lực ngoại tán, trong {Kim Quỹ Yếu Lược} có thang Hoàng kỳ ngũ vật thang, đây là thang Quế chi khứ Cam thảo bội Sinh khương gia Hoàng kỳ. Tại sao phải tăng lượng sinh khương? V́ Sinh khương có thể hỗ trợ Quế chi đi ra thể biểu, Quế chi gia Sinh khương có công hiệu đi ra ngoài; Nếu thang Quế chi gia Quế chi, khí có thể đi xuống dưới. Trong thang Quế chi tăng lượng Thược dược th́ có tác dụng đi vào bên trong, chủ yếu là điều hoà tỳ vị, điều hoà can tỳ.
Chứng đầy bụng có lúc đau do khí huyết bất hoà ở Thái âm bệnh, không có hiện tượng hàn lănh rơ rệt, cũng không có hiện tượng nhiệt rơ rệt, dùng lương dược (thuốc mát) hoặc nhiệt dược (thuốc nóng) đều không tốt, nên dùng thang Quế chi gia Thược dược. Nếu trung khí bị hư tổn, gia thêm vị đường mạch nha thành thang Tiểu kiến trung; Nếu như bên ngoài ảnh hưởng đến kinh Dương minh, đại thực thống, gia vị Đại hoàng chính là 2 phương diện của một vấn đề. Bản thân thang Quế chi gia Thược dược là một phương thuốc để điều hoà tỳ vị âm dương khí huyết.
**Lư cấp hậu trọng: Là thuật ngữ y học, một loại chứng trạng h́nh dung chứng táo bón, người bệnh có cảm giác rất muốn đại tiện nhưng không thể bài xuất phân ra ngoài dễ dàng: Có thể khái quát bằng 16 chữ sau: “Phúc thống quẫn bách, thời thời dục tiện, giang môn trọng truỵ, tiện xuất bất sảng” (腹痛窘迫,时时欲便。 肛门重坠,便出不爽) Đau bụng khốn khổ, liên tục muốn đại tiện, giang môn truỵ nặng, phân bài xuất không thoải mái.
Lương y Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-09 18:40:14
Từ điều 281 đến điều 296
Biện mạch chứng và điều trị bệnh ở kinh Thiếu âm
[Khái thuyết]
Thiên Thiếu âm trong bệnh của ba kinh âm có một vị trí rất quan trọng, v́ bên ngoài nó có các chứng trạng hạ lợi của Thái âm bệnh, bên trong có thể hợp với các chứng trạng tay chân quyết lănh của Quyết âm bệnh, bệnh của kinh Thiếu âm có thể đại biểu cho 3 kinh âm. V́ thế: “Học thương hàn, Thái dương bệnh thiên ứng học hảo; Tam âm thiên, ứng cai tương Thiếu âm thiên học hảo ” (学伤寒,太阳病篇应学好;三阴篇,应该将少阴篇学好.) Học Thương hàn luận, nên học thật tốt thiên Thái dương bệnh; Ba kinh âm nên học thật tốt thiên Thiếu âm) Thái dương và Thiếu âm, một kinh dương, một kinh âm, là hai kinh trọng yếu trong biện chứng lục kinh, rất có tính đại biểu.
Túc thiếu âm thận là tạng của thuỷ hoả. Thuỷ là âm, hoả là dương, v́ thế thận là căn bản của âm dương, là nơi liên hệ với khí của tiên thiên. Trung y giảng về tiên thiên và hậu thiên, tiên thiên giảng âm dương, hậu thiên giảng khí huyết. Tiên thiên nhận từ cha mẹ, hậu thiên nhận từ thuỷ cốc (ẩm thực). Nếu như tà khí khách vu (ở nhờ) thiếu âm, thận khí sẽ bị tổn thương, sẽ xuất hiện âm dương không thăng bằng, sản sinh hội chứng hàn của dương hư hoặc hội chứng nhiệt của âm hư, một khi bệnh phát triển, khả năng sẽ xuất hiện âm dương li quyết (rời nhau). “Âm dương li quyết, tinh khí năi tuyệt” (阴阳离决,精气乃绝) Âm dương rời nhau, tinh khí sẽ hết) Khi đó sự sống của cơ thể sẽ nguy hiểm. V́ thế Thiếu âm bệnh có tiên lượng không tốt là chứng chết (những chứng trạng của sự sống không khôi phục).
Bệnh của kinh Thiếu âm cũng có hai loại: Nguyên phát và kế phát, bệnh nguyên phát thường thấy ở người cao tuổi, hoặc là dương hư yếu, sau khi bị cảm hàn có thể trực trúng (trúng trực tiếp) vào kinh Thiếu âm, hoặc do ngộ hạ, ngộ trị dùng lương dược (do hạ nhầm, trị nhầm bằng vị thuốc mát lạnh) gây tổn thương dương khí của Thiếu âm. Người xưa nói: “Lăo phạ thương hàn, thiểu phạ lao” (老怕伤寒少怕痨) Già sợ thương hàn, trẻ sợ lao.
Tại sao người lớn tuổi sợ thương hàn? V́ người già dương hư, hàn tà gây tổn thương dương, bệnh dễ trúng thẳng vào kinh Thiếu âm. Đây chính là Thiếu âm bệnh nguyên phát. Thiếu âm bệnh kế phát, một là do bệnh ở kinh Thái âm truyền vào, tỉ như bệnh tiết tả của Thái âm, đến một mức độ nhất định sau đó sẽ truyền vào Thiếu âm, chứng tiết tả của trung tiêu có thể biến thành chứng hư hàn của hạ tiêu. Thái âm là b́nh phong che chắn của ba kinh âm. Nếu khí của tỳ vị mạnh mẽ, sau khi cảm bệnh tà sẽ không phát sinh âm chứng, mà chỉ đột phá b́nh phong như hạ lỵ, ẩu thổ, sau khi tỳ vị hư hàn sẽ xuất hiện Thiếu âm bệnh, Quyết âm bệnh. Một là do ngộ trị, sử dụng thuốc đắng lạnh, thuốc phát hăn gây tổn thương âm dương của kinh Thiếu âm, nhất là dương khí của Thiếu âm, sẽ xuất hiện Thiếu âm bệnh. C̣n có Thiếu âm bệnh chính là từ Thái dương truyền vào, v́ hai kinh Thái dương và Thiếu âm có quan hệ biểu lư, bàng quang và thận có liên hệ hỗ tương, v́ thế bệnh tà ở bàng quang có thể trực tiếp truyền vào Thiếu âm, đây chính là truyền từ biểu vào lư. Đương nhiên, loại t́nh huống thứ ba cũng chính là nguyên do bản thân dương khí của Thiếu âm hư hàn. V́ Thái dương và Thiếu âm là quan hệ âm dương biểu lư, thường khi bệnh tà xuất hiện tại kinh Thái dương là đă nối liền vào trong kinh Thiếu âm; Khi hàn trúng Thiếu âm, cũng có t́nh huống nối ra bên ngoài với Thái dương.
Thiếu âm bệnh dương hư, không thể ức chế thuỷ, khí không thể hoá thành tân dịch, sẽ xuất hiện các chứng trạng như tiểu tiện bất lợi, thuỷ khí lan tràn; Nếu là âm hư dương kháng, thuỷ suy hoả vượng, sẽ xuất hiện các chứng trạng tâm thận bất giao, tâm hoả gây bệnh, tâm phiền mất ngủ. Tại sao lại xuất hiện thuỷ chứng, hoả chứng? Điều này và Thiếu âm chủ thuỷ hoả không thể tách rời. Từ biện chứng lục kinh xem xét Thiếu âm bệnh, nói về hai phương diện âm dương, nhưng trọng điểm ở dương hư âm hàn chứng. V́ thế, đề cương của Thiếu âm bệnh chính là “Mạch vi tế, đăn dục mị” (脉微细,但欲寐) mạch vi tế, nhưng muốn ngủ, đă được dùng làm tiền đề (điều kiện đầu tiên).
Liên quan đến vấn đề tiên lượng của Thiếu âm bệnh. Nếu như Thiếu âm bệnh xuất hiện sợ lạnh, thân thể mỏi mệt hoặc hạ lợi mà chân tay ấm áp, hoặc giả phát sốt muốn bỏ bớt y phục là hiện tượng của dương khí khôi phục, đây là phản ảnh dương khí của Thiếu âm khôi phục, có thể cứu trị. Chân tay ấm áp, phát nhiệt, muốn bỏ chăn áo là hiện tượng tốt của âm khí thoái, dương khí khôi phục, chính là Thiếu âm bệnh thoái lui, mà không phải là bệnh tăng lên. Nếu Thiếu âm bệnh, thân thể bệnh nhân mỏi mệt, chân tay quyết lănh (lạnh ngược đến khuỷu), hạ lợi, mạch bất chí (thốn, xích không đến quan (bộ), âm dương tuyệt), là tiên lượng xấu, đây là dấu hiệu của dương khí vong.
Phép điều trị bệnh ở kinh Thiếu âm: Chứng âm hàn chủ yếu là phù dương tiêu âm, ích hoả chi nguyên dĩ tiêu âm ế (che lấp)(益火之源以消阴翳)bổ dương để thoái âm, phương đại biểu là thang Tứ nghịch; Chứng Dương nhiệt chủ yếu dùng tư âm tiết hoả, tráng thuỷ chi chủ để chế dương quang (壮水之主以制阳光) Tư âm tráng thuỷ để ức chế dương kháng hoả thịnh, phương đại biểu là thang Hoàng liên A giao.
281少阴之为病,脉微细,但欲寐也。 C295
281 Thiếu âm chi vi bệnh, mạch vi tế, đăn dục mị dă. C295
Điều văn này là đề cương các hội chứng của bệnh ở kinh Thiếu âm, đề cương này có sự khác biệt với những đề cương của các kinh khác, không những đề xuất được h́nh tượng mạch của Thiếu âm bệnh, mà c̣n đề xuất một đặc điểm của tinh thần con người “đăn dục mị” (nhưng muốn ngủ ngon).
Túc thiếu âm là thận, thủ thiếu âm là tâm, Thiếu âm bị bệnh là thuộc chính khí hư tổn. Bệnh ở ba kinh âm chủ yếu là chính khí hư, bệnh ở ba kinh dương chủ yếu là tà khí thực. Chính khí hư khi liên quan đến Thiếu âm th́ âm dương thuỷ hoả không đầy đủ, âm dương đều hư nên mạch vi tế. Mạch vi là dương hư, mạch tế là âm hư, v́ mạch vi tế phản ảnh âm dương của Thiếu âm đều bị hư tổn, mà chủ yếu là dương hư. Gọi là “Đăn dục mị”, là chỉ về buồn ngủ, nhưng không thể ngủ rất ngon, ngủ rất sâu. Tại sao lại “Đăn dục mị”? Chú thích của Thành Vô Kỷ: “Vệ khí hành vu dương nhi ngộ, hành vu âm nhi mị”.( 卫气行于阳而寤,行于阴而寐) Vệ khí đi vào dương th́ thức, đi vào âm th́ ngủ. Người b́nh thường ban ngày làm việc, học tập th́ thức, ban đêm ngủ th́ ngủ ngon.
Tà khí truyền vào Thiếu âm, dương khí của Thiếu âm bị hư tổn, âm khí lại thịnh. Dương hư âm thịnh, thời gian vệ khí đi vào dương đạo là dài. Dương chủ mạnh mẽ, chủ sinh cơ (sức sống) của con người; Âm chủ về tiêu cực, chủ thuỵ miên (ngủ). Cho nên bệnh nhân không thể phấn chấn tinh thần, mà chỉ muốn ngủ.
“Đăn dục mị”(但欲寐) chỉ muốn ngủ, là h́nh dung đặc điểm dương hư âm thịnh của bệnh ở kinh Thiếu âm. Người ta giảng về tinh thần, thày thuốc giảng về tinh khí thần. Thận chủ tàng tinh, tâm chủ tàng thần. Tâm và thận tốt th́ con người có tinh thần, sẽ khoẻ mạnh. Mà Thiếu âm bị bệnh, mạch vi tế, không có tinh hoa của thuỷ hoả, con người sẽ không có tinh thần. Ai cũng có kinh nghiệm là khi làm việc, học tập mệt mỏi bạn sẽ ngáp dài, cảm thấy mệt mỏi và muốn ngủ, tức là “Đăn dục mị”, đây là biểu hiện của việc quá mệt mỏi, làm việc quá sức của năo bộ, là thể hiện tiết chế của tinh thần.
“Đăn dục mị” (但欲寐) chỉ muốn ngủ c̣n phản ảnh t́nh trạng âm dương không đầy đủ của Thiếu âm. Người lớn tuổi thường hay ngủ gật. Là do tuổi già, thận khí suy kém, âm dương đều đă hư yếu. “Đăn dục mị” chính là phản ảnh tinh lực không c̣n đầy đủ, nên thích ngủ, khác với giấc ngủ của người b́nh thường. Người b́nh thường sau khi ngủ, tinh thần được khôi phục, mà “Đăn dục mị” (Muốn ngủ ngon) không giải trừ được mỏi mệt. “Đăn dục mị” là dương hư âm thịnh, thuỷ hoả tinh khí không đầy đủ, chính là t́nh huống bệnh lư. Tại sao Trương Trọng Cảnh lại lấy “Đăn dục mị” (Chỉ muốn ngủ) làm đề cương cho Thiếu âm bệnh? Trên lâm sàng có thể thấy, những bệnh nhân “Đăn dục mị”, là biết đây chính là chứng trạng âm thịnh dương hư của Thiếu âm bệnh, thường gặp ở người lớn tuổi.
282 少阴病,欲吐不吐,心烦,但欲寐,五六日,自利而渴者,属少阴也,虚故引水自救。若小便色白者,少阴病形悉具。小便白者,以下焦虚有寒,不能制水,故令色白也。 C296
282 Thiếu âm bệnh, dục thổ bất thổ, tâm phiền, đăn dục mị, ngũ lục nhật, tự lợi nhi khát giả, thuộc Thiếu âm dă, hư cố dẫn thuỷ tự cầu. Nhược tiểu tiện sắc bạch giả, Thiếu âm bệnh h́nh tất cụ. Tiểu tiện bạch giả, dĩ hạ tiêu hư hữu hàn, bất năng chế thuỷ, cố linh sắc bạch dă. C296
Đây là bài thảo luận về hội chứng dương hư thuỷ hoả bất tế “不济” không thăng bằng của bệnh ở kinh Thiếu âm, từ đó có thể nhận ra tư tưởng biện chứng của Trương Trọng Cảnh.
Bệnh này đă giống nhiệt chứng lại giống hàn chứng, “dục thổ bất thổ, tâm phiền, tự lợi nhi khát” (欲吐不吐,心烦,自利而渴) buồn nôn mà không nôn, bực bội, tự tiết tả mà khát nước, rất giống nhiệt chứng, nhưng nó không phải là nhiệt chứng, chính là một chứng hư hàn của Thiếu âm bệnh. Phần cuối của bài văn với màu sắc nước tiểu được dùng để xác định hàn nhiệt, có tác dụng then chốt giải quyết dứt khoát đối với biện chứng hàn nhiệt. “tiểu tiện sắc bạch giả, Thiếu âm bệnh h́nh tất cụ” (小便色白者,少阴病形悉具). Với nước tiểu màu trắng là biết đây là hàn chứng của Thiếu âm bệnh. Thiếu âm không có lực đề kháng bệnh tà, xuất hiện t́nh h́nh, không cam chịu mà cũng không có năng lực kháng cự, th́ sẽ “dục thổ bất thổ, thả tâm phiền” (欲吐不吐,且心烦)buồn nôn mà không nôn, và bực bội. “Đăn dục mị” (Chỉ muốn ngủ), những chứng trạng này phản ảnh được bản chất của bệnh ở kinh Thiếu âm. Dương khí hư, dùng âm khí, nhiều âm ít dương. Lúc này, có thể thấy chứng trạng chủ yếu của bệnh ở kinh Thiếu âm: “Thiếu âm chi vi bệnh, mạch vi tế, đăn dục mị dă” (少阴之为病,脉微细,但欲寐也) Bệnh ở kinh Thiếu âm, mạch vi tế (nhỏ bé) chỉ muốn ngủ.Thấy chủ chứng như vậy, dùng thang Tứ nghịch để ôn dương, phù dương để tiêu âm.
Trên lâm sàng thấy, “dục thổ bất thổ, tâm phiền, đăn dục mị” (欲吐不吐,心烦,但欲寐)Muốn thổ không thổ, bực bội, chỉ muốn ngủ, không rơ là âm hay dương, hàn hay nhiệt, v́ thế không kịp thời điều trị, sẽ khiến bệnh bị tŕ hoăn dây dưa.
Khi mới bệnh, “dục thổ bất thổ, tâm phiền”, có nghĩa là chính khí c̣n lực đề kháng bệnh, đến 5,6 ngày, dương khí ngày càng hư tổn, hàn tà ngày càng thịnh, nên “Tự lợi nhi khát” (tiết tả mà khát nước). “Tự lợi” là chứng tiết tả tự phát, Thiếu âm có hàn, th́ bên trong lạnh Thiếu âm hoả suy, hàn thịnh ở trong, xuất hiện tiết tả. V́ sao mà khát? Tiết tả tự phát mà không khát là thuộc Thái âm, tiết tả tự phát mà khát th́ thuộc Thiếu âm. Thiếu âm chủ hạ tiêu, thận dương ở hạ tiêu, thận dương có tác dụng khí hoá (气的运行变化) vận hành biến hoá của khí, tân dịch, thận dương hư suy, không thể khí hoá tân dịch, khiến cho tân dịch bị thiếu hụt, phát sinh khát nước. Thiếu âm bệnh kéo dài 5,6 ngày, bệnh tà càng mạnh, Thiếu âm chính khí càng suy. Thận chủ thuỷ, tâm chủ hoả. Thiếu âm dương hư ở dưới, hoả không có dương để ấm áp, liền xuất hiện tiết tả.
Thận thuỷ không có dương khí để chưng hoá tân dịch, không thể thăng lên, liền xuất hiện khát nước, cần dùng nước để tự cứu, nước uống vào nhưng v́ Thiếu âm dương hư không hoá được, nên không thể biến thành tân dịch b́nh thường.
Xét các chứng trạng như tâm phiền, miệng khát, tựa như có dương nhiệt, nhưng xét theo các chứng như tiết tả hạ lợi, muốn ngủ gật, người này lại có chứng trạng hư hàn. Trọng Cảnh đưa ra chứng trạng then chốt: Tiểu tiện có sắc trắng là đầy đủ h́nh dạng của bệnh ở kinh Thiếu âm. Phàm tiểu tiện không có màu vàng, màu đỏ, mà có màu trắng, là biểu hiện của Thiếu âm hư có hàn, không thể chế thuỷ. Bệnh này tiết tả, muốn ngủ gật, tiểu tiện sắc trắng, đây chính là Thiếu âm hàn chứng. Tâm phiền, buồn nôn mà không nôn, miệng khát, đều là Thiếu âm dương hư khí hoá không thuận lợi, Thiếu âm muốn đề kháng bệnh tà nhưng không có lực, ở đây thực tế là phản ảnh của Thiếu âm dương hư. Điều này đă được học ở điều C57: “Thương hàn, bất đại tiện lục thất nhật, đầu thống hữu nhiệt giả, dữ Thừa khí thang, kỳ tiểu tiện thanh giả, tri bất tại lư, nhưng tại biểu dă, đương tu phát hăn; Nhược đầu thống giả, tất nục, nghi Quế chi thang.” (伤寒,不大便六七日,头痛有热者,与承气汤,其小便清者,知不在里,仍在表也,当须发汗;若头痛者,必衄,宜桂枝汤) Chính là với màu nước tiểu trong để phân biểu chứng hay lư chứng. Ở bài này tiểu tiện trong, sắc trắng, thuộc Thiếu âm bệnh. Chúng ta dựa vào tiểu tiện có thể biện chứng, phân rơ biểu, lư, hàn, nhiệt. “Thập vấn ca” của Trương Cảnh Nhạc là hỏi về t́nh huống của đại tiểu tiện.
Bài C296 nói về bệnh của kinh Thiếu âm ở t́nh huống dương hư xuất hiện một số giả nhiệt, thực tế là không phải nhiệt. Bài C295 dựa theo mạch, dựa theo chứng để thuyết minh bệnh ở kinh Thiếu âm, bài C296 dựa theo hàn nhiệt để phân tích bệnh ở kinh Thiếu âm. Những điều này đều phản ảnh bản chất của Thiếu âm tạng hàn.
283 病人脉阴阳俱紧,反汗出者, 亡阳也,此属少阴,法当咽痛,而复吐利。 C297
283 Bệnh nhân mạch âm dương câu khẩn, phản hăn xuất giả, vong dương dă, thử thuộc Thiếu âm, pháp đương yết thống, nhi phục thổ lợi. C297
Điều văn này thảo luận về mạch chứng của hàn thịnh vong dương, nên xem xét kết hợp với thiên bệnh ở kinh Thái dương.
Thái dương với Thiếu âm là quan hệ biểu lư, môi hở răng lạnh. Kinh Thái dương thụ bệnh, mạch âm dương của bệnh nhân đều khẩn, mạch khẩn chủ về hàn chứng, về thực chứng. Mạch âm dương đều khẩn, cần phải không có mồ hôi. Thái dương bệnh không có mồ hôi mà suyễn, chủ yếu dùng thang Ma hoàng để điều trị bệnh. Nếu như lại xuất mồ hôi “Vong dương dă”, có hội chứng xuất mồ hôi, chính là do vong dương. Vong dương thuộc bệnh ở kinh Thiếu âm. Chính khí không hư tổn, tà khí lại thực, đây thuộc về bệnh ở kinh Thái dương. Trong Thiếu âm bệnh có dương hư âm thịnh vong dương, mạch trầm vi; Có hàn thịnh vong dương, mạch khẩn. Thái dương bị bệnh, Thiếu âm không có lực mà xuất mồ hôi, đó là bệnh tà của kinh Thái dương bay qua Thiếu âm. Thực chứng tại kinh Thái dương, hư chứng tại kinh Thiếu âm. Do đó có thể thấy, Ma hoàng thang chứng của {Thương hàn luận}, không những tà khí thực, Thiếu âm cũng không hư tổn, cho nên “Vô hăn nhi suyễn” (无汗而喘) không có mồ hôi mà suyễn. Nếu Thiếu âm đă hư tổn, th́ sẽ “phản hăn xuất, vong dương dă” (反汗出,亡阳也)Lại xuất mồ hôi là vong dương, đây chính là bệnh ở kinh Thiếu âm. Kinh Thiếu âm thụ hàn tà gây đau họng, Tạng Thiếu âm thụ hàn tà lại thổ lợi (thổ tả). Đó là hàn tính dương hư vong dương, thấy mạch khẩn.
284少阴病,咳而下利谵语者,被火气劫故也,小便必难,以强责少阴汗也。 C298
285少阴病,脉细沉数,病为在里,不可发汗。C299
286 少阴病,脉微,不可发汗,亡阳故也。阳已虚,尺脉弱涩者,复不可下之。 C300
284 Thiếu âm bệnh, khái nhi hạ lợi chiêm ngữ giả, bị hoả khí kiếp cố dă, tiểu tiện tất nan, dĩ cường trách Thiếu âm hăn dă. C298
285 Thiếu âm bệnh, mạch tế trầm sác, bệnh vi tại lư, bất khả phát hăn. C299
286 Thiếu âm bệnh, mạch vi, bất khả phát hăn, vong dương cố dă. Dương dĩ hư, xích mạch nhược sáp giả, phục bất khả hạ chi. C300
Ba điều văn này là dựa theo các góc độ khác nhau để tŕnh bày về những trường hợp Thiếu âm bệnh không thể phát hăn.
Trong Thiếu âm bệnh ho và tiết tả là thuộc về hàn chứng của kinh Thiếu âm , hàn tà nghịch lên th́ ho, bệnh tà rót xuống th́ tiết tả. Có nhà chú giải cho rằng, ho mà tiết tả là chứng trạng của thang Chân vơ.
Xuất hiện bệnh nhân nói mê sảng là do thày thuốc dùng hoả khí kiếp hăn của Thiếu âm mà ra. Kiếp, là cưỡng bách phát hăn, dùng hoả cưỡng bách phát hăn, sẽ gây tổn thương âm của Thiếu âm, khiến tiểu tiện khó khăn. Hoả tà lưu lại bên trong, có thể khiến vị khô khan tổn thương tân dịch, xuất hiện bệnh nhân nói mê sảng là biểu hiện của hoả tà công kích ở bên trong. Những chứng trạng không tốt nêu trên, là do việc cưỡng bách mồ hôi của Thiếu âm gây ra. Âm dương của kinh Thiếu âm đều đă bị hư tổn, lại c̣n cưỡng bách phát hăn để tổn thương chính khí, sẽ gây ra những chứng trạng xấu (hoại chứng) vừa nêu. Thiếu âm bệnh là hàn chứng, khi xuất hiện ho và tiết tả, cũng không thể dùng hoả liệu (liệu pháp bằng lửa). Nếu dùng hoả liệu, tổn thương âm, tổn thương chính khí tân dịch, th́ tiểu tiện sẽ khó khăn, hoả khí gây tổn thương nên bệnh nhân nói nhảm, bài văn cũng chỉ ra chính là “Cường trách Thiếu âm hăn dă.” (强责少阴汗也) Cưỡng cầu mồ hôi ở Thiếu âm.
Điều C299 chính là để so sánh với điều C300. Mạch tế trầm sác là âm hư.
Thiếu âm âm hư với dương hư đều không thể phát hăn. Vậy tại sao Thiếu âm bệnh bỏ phát hăn? Hàm ư của Trọng Cảnh là v́ bệnh tại kinh Thiếu âm mà bên ngoài có liên quan đến kinh Thái dương, bệnh tại kinh Thái dương mà bên trong có liên quan đến kinh Thiếu âm, nếu bệnh ở kinhThiếu âm mà bên ngoài liên quan đến kinh Thái dương th́ có thể có biểu chứng, thang Ma hoàng phụ tử tế tân, thang Ma hoàng phụ tử cam thảo đều có thể phát hăn, nếu bệnh ở kinh Thiếu âm đă thuyên giảm th́ không dùng những phương phát hăn này, nếu phát hăn sẽ bị vong dương. Mạch trầm sác, âm khí của Thiếu âm đă hư tổn, nếu phát hăn sẽ làm cho tân dịch và âm bị tổn thương nhiều hơn. V́ thế, bài C299, bài C300 chính là xem xét dựa theo ngoài biểu có những chứng trạng có thể phát hăn, nhưng xét theo chính khí, xét theo Thiếu âm mà nói th́ âm dương hư của kinh Thiếu âm là không thể phát hăn. Các thày thuốc hậu thế dùng thuốc tư âm trong phép phát hăn để giải biểu, phù trợ dương khí để giải biểu, chính là chiếu cố đến t́nh trạng hư tổn bên trong của kinh Thiếu âm. V́ thế, khi Thiếu âm bệnh mà âm dương đều hư tổn th́ nhất thiết không thể phát hăn, nếu phát hăn th́ dương khí bị diệt vong có thể dẫn đến chết người.
“Mạch tế trầm sác”, người viết dựa theo âm hư để giảng bài này, khác biệt với một số nhà chú giải.
Một số nhà chú giải cho rằng đây cũng chính là dương hư. Trong {Thương hàn luận} sự quan hệ giữa chính và tà, là một thày thuốc liệu có thể khứ trừ bệnh để tốt cho sức khoẻ. Nếu khứ trừ bệnh mà làm hại sức khoẻ th́ Trương Trọng Cảnh không làm. Trừ khứ bệnh tà mà không gây tổn thương chính khí, chính là tinh thần xuyên suốt trong {Thương hàn luận}.
Căn bản của điều trị bệnh là phải bảo tồn chính khí, nếu không bảo tồn được chính khí th́ không đạt được mục đích của điều trị bệnh.
Học {Thương hàn luận}, là phải t́m hiểu tư tưởng của nó để nâng cao sự hiểu biết của chúng ta. Ba bài vừa nêu rất có ư nghĩa trên lâm sàng, âm hư hoặc dương hư đều không thể phát hăn, và đây chính là lời cảnh báo của Trọng Cảnh gửi đến chúng ta.
287少阴病脉紧,至七八日,自下利,脉暴微,手足反温,脉紧反去者,为欲解也。虽烦下利,必自愈。 C301
287 Thiếu âm bệnh mạch khẩn, chí thất bát nhật, tự hạ lợi, mạch bạo vi, thủ túc phản ôn, mạch khẩn phản khứ giả, vi dục giải dă, tuy phiền hạ lợi, tất tự dũ. C301
Điều văn này phân tích mạch chứng của quá tŕnh hàn bị trừ khứ, dương hồi phục và bệnh ở kinh Thiếu âm tự khỏi.
“Vô nhiệt ố hàn giả, phát vu âm dă.”(无热恶寒者,发于阴也.)Không sốt, ghét lạnh là bệnh phát ở âm. Ghét lạnh, chân tay lạnh, mạch khẩn, thuộc về hàn thực chứng của kinh Thiếu âm . Nếu như 7,8 ngày hàn tà bên trong đă suy yếu, công năng của chính khí đă thắng bệnh tà, sẽ xuất hiện hạ lợi tự phát, mạch từ khẩn biến thành mạch vi, có nghĩa là hàn tà không mạnh, tay chân đang quyết lănh (lạnh đến khuỷu) chuyển thành ấm áp. Lúc này mạch không c̣n khẩn, là bệnh được giải trừ. V́ thế, tuy lúc này hạ lợi có kèm theo tâm phiền, nhưng dương khí có thể tranh đấu với hàn tà, hàn tà thuận theo phân ra ngoài. Đây là quá tŕnh tự khỏi của bệnh ở kinh Thiếu âm. Nếu khi hàn tà chiếm thượng phong, ghét lạnh, tay chân quyết lănh, mạch khẩn, lại xuất hiện mạch vi, tay châm ấm, hạ lợi, đây là biểu hiện bệnh biến chuyển tốt hơn. Do đó có thể thấy, quan hệ tiêu trưởng của chính khí với tà khí.
288 少阴病,下利,若利自止,恶寒而蜷卧,手足温者,可治。 C302
288 Thiếu âm bệnh, hạ lợi, nhược lợi tự chỉ, ố hàn nhi quyện ngoạ, thủ túc ôn giả, khả trị. C302
Bài này tŕnh bày các chứng trạng có thể điều trị được của bệnh ở kinh Thiếu âm là dương khí trở lại khiến tay chân ấm áp.
Đây là một câu đảo trang (phép đảo, một h́nh thức tu từ), đúng ra nên viết “ Thiếu âm bệnh, hạ lợi, ố hàn nhi quyện ngoạ, nhược lợi tự chỉ, thủ túc ôn giả khả trị” (少阴病,下利,恶寒而蜷卧,若利自止,手足温者可治). Chứng hạ lợi của Thiếu âm bệnh là chứng hạ lợi do dương hư, dương hư âm thịnh nên bn ghét lạnh, quyện là cuộn khúc. Nằm co, có ư là dương khí toàn thân không c̣n, toàn là âm hàn, là chứng trạng của sự chết. Nếu như bên ngoài nằm co, bên trong hạ lợi, đây là biểu hiện dương khí của Thiếu âm sẽ tiêu vong, rất nguy hiểm. Nhưng nếu tay chân lại ấm áp, th́ có thể điều trị. Tứ chi là căn bản của dương, nếu chân tay ấm áp, là biểu hiện của dương khí tồn tại, nên nhanh chóng dùng thang Tứ nghịch, thang Bạch thông để điều trị bệnh, v́ bệnh này c̣n có thể điều trị. V́ thế, bài nay nói về Thiếu âm bệnh sợ vong dương.
289 少阴病,恶寒而蜷,时自烦,欲去衣被者可治。 C303
289 Thiếu âm bệnh, ố hàn nhi quyện, thời tự phiền, dục khứ y bị giả khả trị. C303
Bài này tŕnh bày các chứng trạng khi dương khí trở lại như phiền nóng muốn bỏ mền áo, là những biểu hiện có thể điều trị của bệnh ở kinh Thiếu âm.
Bệnh ở kinh Thiếu âm ghét lạnh và nằm co người lại, là Thiếu âm bệnh dương hư nghiêm trọng. Nếu luôn luôn bực bội, muốn bỏ mền áo là biểu hiện của dương khí có thể trở lại, là chứng trạng có thể điều trị bệnh. Nếu t́m hiểu biện chứng, bệnh ở kinh Thiếu âm, ghét lạnh nằm co quắp, không bực bội, không muốn bỏ áo mền, lại hạ lợi, tay chân quyết lănh, là biểu hiện của bệnh nghiêm trọng.
290少阴中风,脉阳微阴浮者,为欲愈。 C304
290 Thiếu âm trúng phong, mạch dương vi âm phù giả, vi dục dũ. C304
Bài này tŕnh bày hội chứng sắp khỏi bệnh của Thiếu âm dựa theo h́nh tượng mạch.
Thiếu âm bị trúng phong tà, “mạch dương vi” là thốn mạch vi. Phong tà gây tổn thương kinh Thiếu âm, mạch thốn không nên vi, nên phù. Nếu mạch thốn vi, cho thấy kinh Thiếu âm trúng tà đă suy. “Âm phù” là mạch bộ xích là thấy dương mạch, là biểu hiện của dương khí trở lại, điều này cho thấy bệnh sẽ tốt lên. Đó là “Âm chứng nhi kiến dương mạch giả thuộc vu thuận” (阴证而见阳脉者属于顺) Âm chứng mà thấy dương mạch là thuận.
291少阴病欲解时,从子至寅上。 C305
291 Thiếu âm bệnh dục giải thời, ṭng tư chí dần thượng. C305
Bài này phân tích thời gian thuận lợi để giải trừ bệnh ở kinh Thiếu âm.
Từ giờ Tư đến giờ Dần là dương khí đă thăng, mà Thiếu âm bệnh thích hợp với thế thăng trưởng của dương khí, điều này có tác dụng giúp đỡ đối với Thiếu âm hàn chứng. V́ thế, thời gian từ giờ Tư đến giờ Dần là thời gian thuận lợi để Thiếu âm bệnh được giải trừ.
Phần trên đă giới thiệu các vấn đề như tiên lượng, có thể trị, không thể trị của Thiếu âm bệnh, điểm then chốt là sự thịnh suy của dương khí. Dương khí khôi phục và tà khí thoái lui là bệnh có thể điều trị khỏi; Nếu tà khí mạnh, dương khí diệt vong th́ bệnh nguy hiểm. Có thể do biện chứng thấy được sự quan hệ giữa dương khí với tà khí, phán đoán trên những chứng trạng cụ thể như tay chân ấm áp, tự ngừng hạ lợi v.v…
292 少阴病,吐利,手足不逆冷,反发热者,不死。脉不至者,灸少阴七壮。 C306
292 Thiếu âm bệnh, thổ lợi, thủ túc bất nghịch lănh, phản phát nhiệt giả, bất tử. Mạch bất chí giả, cứu Thiếu âm thất tráng. C306
Điều văn này tŕnh bày chứng trạng dương khí trở lại và tiên lượng của bệnh ở kinh Thiếu âm.
Bệnh ở kinh Thiếu âm là một bệnh nghiêm trọng, mà mấu chốt là sự tồn vong của dương khí. Dương khí tồn tại th́ khỏi bệnh; Nếu Dương khí tiêu vong, th́ tiên lượng bệnh không tốt. Việc phán đoán dương khí tồn vong phải căn cứ theo hội chứng khách quan. Thiếu âm bệnh thổ lợi (ẩu thổ và hạ lợi) là hội chứng hàn hoá của kinh Thiếu âm . Căn bản dương khí của lục phủ ngũ tạng đều ở thận, khi thận dương suy yếu, các tạng phủ đều lạnh (hàn). Chứng thổ lợi của lư hàn (lạnh bên trong), là do dương hư làm cho chân tay nghịch lănh (lạnh đến khuỷu), nhưng “Nhược thủ túc bất nghịch lănh, phản phát nhiệt” (若手足不逆冷,反发热) nếu chân tay không lạnh mà lại ấm áp, chân tay là gốc của dương, chân tay không nghịch lănh (lạnh ngược lên) là biểu hiện của dương khí tồn tại, lại ấm áp là phản ảnh thân thể có mặt dương nhiệt tích cực, là Thiếu âm bệnh không chết (bất tử). Thiếu âm bệnh phát nhiệt lúc này nên phân tích một cách cụ thể: Có khi do dương khí chưa mất, cũng có trường hợp do hàn thịnh cách dương. Nếu phát nhiệt ở trường hợp sau là sự việc không tốt, đây là t́nh trạng âm thịnh vong dương. Hiện tại là tay chân không nghịch lănh (lạnh ngược lên đến khuỷu), ngược lại lại phát nhiệt, đây là nhiệt có gốc, phân biệt với chứng âm thịnh cách dương, là chứng phát nhiệt do dương khí phù việt gây ra.
Kinh Thiếu âm hàn thịnh (quá lạnh) thổ tả (ẩu thổ hạ lợi) th́ khí huyết tân dịch bị tổn thất rất lớn làm cho mạch bất chí (không đến) là t́nh trạng bệnh nghiêm trọng. Nhưng phải phân tích cụ thể về “mạch bất chí” (脉不至)
Mạch là phản ảnh động lực của sự sống, hiện mạch bất chí (không đến), là t́nh trạng bệnh nghiêm trọng. Nhưng “Mạch bất chí” nên phân tích cụ thể. Bài C312 “Thiếu âm bệnh, tứ nghịch ố hàn nhi thân quyện, mạch bất chí”, mạch bất chí là chứng nguy hiểm, là chân khí không thể tiếp tục, dương khí đă mất, là chứng chết. Nếu như bệnh nhân sau khi đột nhiên thổ lợi, mạch nhất thời không tiếp tục, mạch bất chí, th́ đây không phải là do chân khí bị đứt đoạn, mà là t́nh trạng c̣n có thể cứu được. Lúc này, uống thuốc th́ không kịp, nên cứu Thiếu âm 7 tráng. Dùng Ngải hoả cứu Thiếu âm huyệt đạo 7 tráng để phù trợ dương khí của Thiếu dương, thông huyết mạch Thiếu âm, trừ khứ tà khí của Thiếu âm. Nếu sau khi cứu đă xuất hiện mạch, th́ có thể dùng thang Thông mạch tứ nghịch v.v… Sẽ khỏi bệnh; Nếu sau khi cứu một ngày một đêm mà mạch vẫn không đến, Trọng Cảnh cũng không c̣n phép ǵ khác. Cứu Thiếu âm 7 tráng là cứu các huyệt nào? Nên chiếu theo các huyệt để cứu của kinh Thiếu âm, mà nên cứu 7 tráng. Có nhà chú thích cho rằng cần cứu huyệt Thái khê. Trên lâm sàng khi thày thuốc bất ngờ gặp loại mạch này (bất chí mạch) th́ không nên bó tay không có biện pháp, cần phải cứu huyệt, rồi cho bệnh nhân uống thang Thông mạch tứ nghịch v.v…Đây chính là loại bệnh âm dương li quyết (tách rời nhanh chóng) trọng yếu. “Âm b́nh dương bí, tinh thần năi chí, âm dương ly quyết, tinh khí năi tuyệt”(阴平阳秘,精神乃至,阴阳离决,精气乃绝) Âm b́nh dương bí, tinh thần sẽ đến, âm dương tách rời, tinh khí sẽ hết, v́ thế phải điều trị tích cực, không nên coi thường.
(Âm và dương đối kháng, chế ước, bài xích (loại trừ) để đạt được sự thống nhất, thu được động thái thăng bằng tương đối giữa âm dương, cái đó gọi là “âm b́nh dương bí”)
293 少阴病,八九日,一身手足尽热者,以热在膀胱,必便血也。 C307
293 Thiếu âm bệnh, bát cửu nhật, nhất thân thủ túc tận nhiệt giả, dĩ nhiệt tại bàng quang, tất tiện huyết dă. C307
Điều văn này tŕnh bày hội chứng do âm chuyển dương mà di chuyển nhiệt về bàng quang của bệnh ở kinh Thiếu âm.
Khi bệnh ở kinh Thiếu âm đă 8,9 ngày, là có thể thấy xuất hiện một biến hoá bệnh lư của Thiếu âm bệnh, một số vấn đề cụ thể có thể được phơi bày ra. Nếu bệnh ở kinh Thiếu âm luôn phát triển về phương diện âm hàn, sẽ xuất hiện hội chứng vong dương; Tay chân quyết nghịch (lạnh đến khuỷu), thổ tả, nằm co, đây chính là những biểu hiện hướng về phương diện phát triển hiểm ác của bệnh. Cũng có những trường hợp Thiếu âm bệnh sau 8,9 ngày, chính khí được khôi phục, bệnh phát triển theo hướng tích cực, trong đó một loại là từ tạng xuất sang phủ, từ âm xuất sang dương chuyển biến hoá nhiệt. Căn bản của Thiếu dương hàn chứng là cách dương*, toàn thân nóng nhưng tay chân lạnh, đây là chứng giả nhiệt. Nhưng Trọng Cảnh sợ mọi người nhầm với chứng Thiếu âm cách dương, mà viết “Nhất thân thủ túc tận nhiệt” (nóng tất cả người kể cả tay chân), có thể ngoại trừ chứng âm thịnh cách dương. “Nhất thân thủ túc tận nhiệt, dĩ nhiệt tại bàng quang” (一身手足尽热,以热在膀胱) nóng toàn thân kể cả chân tay, với nhiệt tại bàng quang, Trọng Cảnh chỉ ra rằng nhiệt đă từ Thiếu âm trở lại Thái dương.
Thái dương và Thiếu âm có quan hệ biểu lư, lúc này chính khí đă khôi phục, tà khí thoái lui, tà khí từ bên trong hướng ra bên ngoài, từ hàn hoá nhiệt, nhiệt đến bàng quang. Bệnh tà ở kinh Bàng quang, th́ toàn thân và tay chân đều nóng, đây là hiện tượng tốt. Chuyển tà nhiệt của Thiếu âm đến bàng quang, tổn thương âm lạc dẫn đến đại tiện ra máu, tiểu tiện xuất ra từ bàng quang, th́ đó là tiểu tiện và đại tiện ra máu (?) Các nhà chú giải có tranh biện ở vấn đề này. Phương Hữu Chấp với Du Gia Ngôn cho rằng đây chính là tiểu tiện đại tiện ra máu, nhưng có nhà chú giải cho rằng nhiệt ở bàng quang, tiện huyết có thể theo đại tiện ra ngoài. Đan Ba Nguyên nói một đơn giản: “Khủng vị tất ṭng tiểu tiện xuất”(Sợ rằng không hẳn đă theo tiểu tiện xuất ra ngoài). Liên quan đến việc tiêu ra máu có hai loại ư kiến: Tiểu tiện ra máu hoặc đại tiện ra máu.
Chúng ta không thể kết luận đối với việc này, mà cần căn cứ theo lâm sàng để xác định. Những bệnh này sẽ điều trị như thế nào?
Đa số các nhà chú thích đều cho rằng dùng thang Trư linh trị liệu bệnh tiện huyết do nhiệt ở bàng quang. Thang Trư linh có thể thanh nhiệt tư âm cầm máu. Hai chứng phát nhiệt ở trên, một là “Thiếu âm bệnh, thổ lợi, thủ túc bất quyết lănh, phản phát nhiệt gỉa” (少阴病,吐利,手足不厥冷,反发热者) Thiếu âm bệnh, thổ tả, tay chân quyết lănh, lại phát sốt, hai là “Thiếu âm bệnh, bát cửu nhật, nhất thân thủ túc tận nhiệt giả, dĩ nhiệt tại bàng quang” (少阴病,八九日,一身手足尽热者,以热在膀胱) Thiếu âm bệnh, 8,9 ngày, toàn thân tay chân đều nóng, với nhiệt ở bàng quang, hai bài này đối chiếu hỗ tương, là Thiếu âm do hàn chuyển nhiệt, là chứng thuận, không phải là chứng nghịch. Có một bài xuất huyết ở phần sau, là bệnh khó trị.
294少阴病,但厥无汗,而强发之,必动其血,未知从何道出,或从口鼻,或从目出,是名下厥上竭,为难治。 C308
294 Thiếu âm bệnh. Đăn quyết vô hăn, nhi cường phát chi, tất động kỳ huyết, vị tri ṭng hà đạo xuất, hoặc ṭng khẩu tỵ, hoặc ṭng mục xuất, thị danh hạ quyết thượng kiệt, vi nan trị. C308
Điều văn này tŕnh bày chứng hạ quyết thượng kiệt là chứng khó trị của Thiếu âm bệnh. Chứng hàn hoá của Thiếu âm bệnh, tay chân quyết lănh (lạnh ngược đến khuỷu tay, đến đầu gối), mà không có mồ hôi. Thiếu âm dương hư không có lực bốc hơi nên không có mồ hôi, nếu lúc này thày thuốc cưỡng bách phát hăn th́ không chỉ tổn thương dương mà c̣n động huyết. Dương không nhiếp âm, huyết dịch vọng hành (đi sai đường), “Bất tri ṭng hà đạo xuất, hoặc ṭng khẩu tỵ, hoặc ṭng mục xuất” (không biết đường nào ra, hoặc theo miệng mũi, hoặc ra theo mắt), chỉ có Thiếu âm sẽ xuất huyết như vậy. Âm dương của Thiếu âm đều hư tổn, nếu tái phát hăn, th́ sẽ động huyết, huyết theo lên trên mà xuất ra ngoài. “Thị danh hạ quyết thượng kiệt, vi nan trị” (是名下厥上竭,为难治)chứng này có tên là hạ quyết thượng kiệt (dưới quyết lănh, bên trên suy kiệt) là chứng khó chữa. Dương đă tuyệt ở dưới, âm lại suy kiệt ở trên, là hạ quyết thượng kiệt, là bệnh khó trị.
Năm 1963, khi người viết làm thực tập sinh ở Thái nguyên, có một lần hội chẩn một bệnh nhân viêm cầu thận mạn tính, đản bạch niệu, không nước tiểu, thường xuyên chảy máu mũi, lợm giọng, nôn ra máu, bàn tay, cánh tay, đùi, bàn chân và ống chân lạnh, phù toàn thân, mạch trầm như muốn mất mạch, chất lưỡi béo và lưỡi trắng. Đây chính là chứng hạ quyết thượng kiệt ở {Thương hàn luận}. Tay chân bệnh nhân lạnh, mạch trầm vi là dương khí hư, mũi chảy máu, là dương không nhiếp (giữ) huyết, là thượng kiệt. Tây y gọi đây là bệnh thận đến giai đoạn niệu độc chứng. Hạ quyết thượng kiệt trên lâm sàng có thể thấy ở chứng viêm thận và bần huyết có tính tái sinh chướng ngại, xuất huyết cũng có thể thấy ở xuất huyết toàn thân, sớm nhất có thể thấy ban ứ ở trên lưỡi. Khi chúng ta điều trị Thiếu âm bệnh nên có thái độ thật tích cực, tránh để bệnh phát triển đến giai đoạn này.
295 少阴病,恶寒身蜷而利,手足逆冷者,不治。 C309
295 Thiếu âm bệnh, ố hàn thân quyện nhi lợi, thủ túc nghịch lănh giả, bất trị. C309
Điều văn này tŕnh bày về thuần âm vô dương là hội chứng nghiêm trọng của bệnh ở kinh Thiếu âm.
Bài này nên so sánh với bài C302: “Thiếu âm bệnh, hạ lợi, nhược lợi tự chỉ, ố hàn nhi quyện ngoạ, thủ túc ôn giả khả trị” (少阴病,下利,若利自止,恶寒而蜷卧,手足温者可治) Thiếu âm bệnh, hạ lợi, nếu hạ lợi không ngừng, sợ lạnh nằm co, tay chân ấm áp có thể điều trị. So với,bệnh dương hư hàn chứng ở kinh Thiếu âm , ghét lạnh đến nỗi nằm co, hạ lợi đến tay chân lạnh ngược, là h́nh tượng của phái âm hàn, âm thịnh dương tuyệt, thuần vô dương, là chứng không thể điều trị.
296少阴病,吐利,躁烦,四逆者死。 C310
296 Thiếu âm bệnh, thổ lợi, táo phiền, tứ nghịch giả tử. C310
Điều văn này tŕnh bày âm thịnh dương tuyệt là chứng chết của Thiếu âm bệnh.
Chứng dương hư của kinh Thiếu âm, bên trong hàn tà rất mạnh gây ra trên thổ dưới tả. Phiền là phiền trong tâm, là tinh thần, táo là chi thể không chịu được bực bội. Phiền táo thường chủ yếu là nhiệt, như chứng trạng của thang Bạch hổ, phản ảnh dương khí có thừa. Táo phiền với chủ yếu là chi thể táo động bất an, phản ảnh âm thịnh mà dương muốn tuyệt (hết). Âm dương đối lập nhưng thống nhất, âm với dương là phối ngẫu, nếu chỉ có âm mà không có phối ngẫu, th́ sẽ dẫn đến dương thịnh mà phiền (phiền muộn) hoặc âm thịnh mà táo (vội vă). Thổ tả là dương hư bên trong lạnh (dương hư lư hàn), xuất hiện bực bội vội vă, là âm thịnh vô ngẫu. Tứ chi là căn bản của dương, tứ nghịch giả tử. Nếu đầu ngón tay lạnh, ḷng bàn tay ấm, th́ là nhiệt chứng. Nếu tay lạnh đến khuỷu, chân lạnh đến gối, là tứ nghịch, th́ bệnh không trị được. Bài văn này là biện chứng âm thịnh mà dương tuyệt. Trên lâm sàng, bệnh nhân trước tiên xuất hiện tay chân quyết lănh, sau đó xuất hiện bực bội vật vă, đó là dương khí có thể đấu tranh với âm, đó là hiện tượng tốt. Nếu đầu tiên là bực bội vật vă, sau đó xuất hiện tứ nghịch, đó là dương khí đă hết, chỉ c̣n âm khí, là bệnh không thể điều trị được là bệnh chết. Trên lâm sàng nên chú ư bệnh cơ, xem xét quan hệ của âm dương. Người viết trong thời gian công tác tại Thiên Đàn hoa bắc Nhân dân y viện khoa bệnh lao, quan sát thấy những bệnh nhân lao trước khi chết đứng ngồi không yên, rất vật vă. V́ thế bài văn này chính là có căn cứ lâm sàng.
*Cách dương. Chỉ về dương khí trong cơ thể hư tổn cực độ, dẫn đến khí âm hàn mạnh lên, đẩy dương ra bên ngoài, âm dương hàn nhiệt ngăn chống nhau, biểu hiện hội chứng bên trong hàn thật bên ngoài là giả nhiệt.
Lương y Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-10 20:36:30
Từ điều 297 đến điều 309
297 少阴病,下利止而头眩,时时自冒者死。C311
297 Thiếu âm bệnh, hạ lợi chỉ nhi đầu huyễn, thời thời tự mạo giả tử. C311
Bài này tŕnh bày về dương khí thượng thoát, âm dương ly tuyệt là tử chứng (chứng trạng chết) của Thiếu âm bệnh.
Thiếu âm bệnh chứng hạ lợi ngưng lại là một hiện tượng tốt, nếu vào lúc này chính khí khôi phục, bệnh tà được trừ khứ th́ khỏi bệnh. Nhưng trong bài văn này chỉ ra rằng chứng hạ lợi tuy ngừng lại nhưng đầu mắt lại huyễn vựng (hoa mắt váng đầu) giờ khắc nào cũng có hiện tượng thất thần vựng quyết, đó là chứng chết. “Hạ lợi chỉ”( 下利止) ngừng hạ lợi là không thể tiết tả, là âm khí đă hết, dương khí thoát lên trên dẫn đến huyễn mạo (hoa mắt). Dương khí thoát ở trên, âm khí tuyệt (hết) ở dưới, đây cũng chính là bệnh âm dương ly quyết* (chia ĺa), là bệnh khó chữa. Điều này không giới hạn ở Thiếu âm bệnh, trên lâm sàng bệnh nhân tiết tả đă lâu sau đó xuất hiện vựng đầu cũng không phải là hiện tượng tốt, v́ đầu là nơi tụ hội của thanh dương, bệnh nhân tiết tả lâu ngày mà xuất hiện vựng đầu (hoa mắt vựng đầu), chính là biểu hiện của tỳ khí hạ hăm. Thanh khí không thăng lên. Có phải là âm dương chia ĺa của Thiếu âm bệnh? Chứng hạ lợi ngừng là âm đă hết, lúc nào cũng mạo quyết là dương rời khỏi, đó là hiện tượng âm dương li quyết, tương tự với bài văn trước đó “thượng quyết hạ tuyệt”.
298 少阴病,四逆恶寒而身蜷,脉不至,不烦而躁者,死。 C312
298 Thiếu âm bệnh, tứ nghịch ố hàn nhi thân quyện, mạch bất chí, bất phiền nhi táo giả, tử. C312
Điều văn này tŕnh bày âm thịnh ở trong, dương nhiễu loạn bên ngoài, âm dương ly tuyệt là tử chứng (chứng chết) của Thiếu âm bệnh.
Thiếu âm bệnh tứ chi quyết nghịch, ghét lạnh, thân thể co cuộn lại, là âm hàn thịnh, dương khí hư tổn nặng, mà mạch bất chí (không đến bộ quan), đó là do trung khí không liền lạc, sinh khí đă hết. Không bực bội mà vội vă, là biểu hiện của âm thịnh dương tuyệt (hết), là chứng chết. V́ thế, bệnh nhân có âm chứng mà thấy nóng nảy vội vă, là hiện tượng bệnh nặng.
299少阴病,六七日,息高者,死。 C313
299 Thiếu âm bệnh, lục thất nhật, tức cao giả, tử. C313
Điều văn này tŕnh bày nguyên khí li căn là chứng chết của Thiếu âm bệnh.
Phế là ngọn (tiêu) của khí, Thận là gốc (căn) của khí, thở ra là do tâm phế, hít vào là thận và can.
Thận là tiên thiên, có công năng nạp khí. Hiện tại Thiếu âm bệnh không được điều trị, ngộ trị (điều trị nhầm) đă 6,7 ngày, hơi thở không xuống đến thận, hơi thở không sâu, hơi thở nông cạn. Hơi thở như vậy gọi là khí vô căn (không có gốc), người xưa gọi là “Du tức” (游息) là thở chơi. Trên lâm sàng, bệnh nhân trước khi chết cũng thở như vậy. Thiếu âm bệnh hơi thở trên cao (thở nông) là biểu hiện của thận không nạp khí, là chứng chết. Có một lần người viết khám bệnh ở Thuỷ Định môn, thấy một bệnh nhân bệnh suyễn, miệng bn tựa như miệng cá không thể ngậm miệng được, điều này đă được đề cập đến trong {Nội kinh}. Người viết có cảm giác là Thiếu âm thận của bệnh nhân không c̣n nạp được khí, bệnh đă không thể điều trị. Một thày thuốc khác khám bệnh cho bệnh nhân bị háo suyễn, cho bệnh nhân tiêm Ma hoàng tố, không lâu sau bệnh nhân đó tử vong. Trên lâm sàng thấy miệng bệnh nhân không ngậm lại được, bệnh nhân thở gấp bằng mũi nhưng hơi thở nông. Hơi thở nông (dân gian gọi là thở hắt ra) là biểu hiện bệnh không thể điều trị.
300 少阴病,脉微细沉,但欲卧,汗出不烦,自欲吐,至五六日,自利,复烦躁,不得卧寐者,死。 C314
300 Thiếu âm bệnh, mạch vi tế trầm, đăn dục ngoạ, hăn xuất bất phiền, tự dục thổ, chí ngũ lục nhật, tự lợi, phục phiền táo, bất đắc ngoạ mị giả, tử. C314
Điều văn này phân tích âm thịnh cách dương, chính không thắng tà là những tử chứng của Thiếu âm bệnh.
“Thiếu âm bệnh, mạch vi tế trầm , đăn dục ngoạ” (少阴病,脉微细沉,但欲卧)Thiếu âm bệnh, mạch rất nhỏ và trầm, chỉ muốn nằm, là chủ mạch chủ chứng của Thiếu âm, nên dùng thang Tứ nghịch. “Hăn xuất bất phiền” (汗出不烦) xuất mồ hôi và không bực bội, là biểu hiện của khí âm dương mất ở ngoài; “tự dục thổ”(buồn nôn), là âm tà nghịch lên, trên đây là một phái âm hàn, nên dùng thang Tứ nghịch để nhanh chóng ôn dưỡng Thiếu âm, phù dương cứu nghịch. “Chí ngũ lục nhật tự lợi, phục phiền táo, bất đắc ngoạ mị” (至五六日自利,复烦躁,不得卧寐) đến 5,6 ngày lại tăng thêm chứng trạng mới như tự hạ lợi, lại buồn bực không thể nằm ngủ, là không điều trị, điều trị sai, âm hàn thịnh, dương đă mất (vong).
Bài này phản ảnh giai đoạn dương hư hàn thịnh của thời gian bắt đầu bệnh, không trị liệu kịp thời, sau 5,6 ngày lại thêm bệnh mới, hàn khí ngày càng mạnh, dương khí ngày càng mất, bệnh này là tử chứng (chứng chết). “Dương minh bệnh cấp hạ, Thiếu âm bệnh cấp ôn”.( 阳明病急下,少阴病急温) Dương minh bệnh cần nhanh chóng công hạ, Thiếu âm bệnh cần nhanh chóng ôn dưỡng). Từ bài C295 đến bài C314 là cương lĩnh chung của Thiếu âm bệnh, thuộc bộ phận tổng luận.
301 少阴病,始得之,反发热,脉沉者,麻黄附子细辛汤主之。 C315
301 Thiếu âm bệnh, thuỷ đắc chi, phản phát nhiệt, mạch trầm giả, Ma hoàng phụ tử tế tân thang chủ chi. C315
Phương thang Ma hoàng phụ tử tế tân
Ma hoàng Tế tân nhị lạng đồng Phụ tử nhất mai lực tối hùng
Thuỷ đắc Thiếu âm phản phát nhiệt Mạch trầm đích chứng tấu kỳ công.
Ma hoàng 2 lạng, bỏ đốt Tế tân 2 lạng Phụ tử 1 củ, nướng, bỏ vỏ, cắt thành 8 lát.
Ba vị trên, dùng 1 đấu nước, đầu tiên sắc vị Ma hoàng, cạn bớt 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho thuốc vào hết, đun cạn c̣n 3 thăng, bỏ bă, uống mỗi lần 1 thăng lúc thuốc ấm, ngày 3 lần (uống sau ăn)
302 少阴病,得之二三日,麻黄附子甘草汤微发汗。以二三日无里证,故发微汗也。 C316
302 Thiếu âm bệnh, đắc chi nhị tam nhật, Ma hoàng Phụ tử Cam thảo thang vi phát hăn, dĩ nhị tam nhật vô lư chứng, cố phát vi hăn dă. C316
Phương thang Ma hoàng Phụ tử Cam thảo
Ma hoàng Cam thảo nhị lạng giai Nhất mai Phụ tử cố căn cai
Thiếu âm đắc bệnh nhị tam nhật Lư chứng toàn vô hăn khải cai
Ma hoàng 2 lạng, bỏ đối Cam thảo 2 lạng. Cứu Phụ tử, nướng, bỏ vỏ
3 vị thuốc trên, dùng 7 thăng nước, đầu tiên sắc vị Ma hoàng 1,2 phí (sôi trong khoảng 3 đến 5 phút là 1 phí), vớt bọt, cho các vị thuốc c̣n lại vào, đun c̣n lại 3 thăng, bỏ bă chia 3 lần uống trong ngày, nên uống lúc thuốc c̣n ấm, uống sau khi ăn.
Hai điều trên tŕnh bày chứng trạng và phương pháp trị liệu của Thiếu âm bệnh kèm theo biểu chứng.
“Thiếu âm bệnh, thuỷ đắc chi”là vừa bị bệnh, “Thiếu âm bệnh, đắc chi nhị tam nhật” là đă bị bệnh. Thiếu âm và Thái dương có quan hệ biểu lư, Thái dương chủ biểu, Thiếu âm chủ lư.
Thiên Thái dương bệnh điều C96: “Thái dương bệnh, phát nhiệt đầu thống, mạch phản trầm; Nhược bất sái, thân thể đông thống, đương cứu kỳ lư, nghi Tứ nghịch thang” (太阳病,发热头痛,脉反沉;若不差,身体疼痛,当救其里,宜四逆汤) Thái dương bệnh, phát sốt đau đầu, mạch phản trầm (mạch của Thiếu âm); Nếu không khỏi bệnh, thân thể đau, nên cứu lư, dùng thang Tứ nghịch. Nh́n từ góc độ của Thái dương, Thái dương bệnh lại thấy mạch của Thiếu âm “Mạch phản trầm” (脉反沉); C̣n nh́n từ góc độ của Thiếu âm, th́ với chứng trạng phát nhiệt là trái ngược với lẽ thường. Kết hợp bài C96 với bài C315 có thể nhận thấy: Người đó là Thái dương bệnh thụ tà, phát nhiệt, nếu dương khí của cơ thể tích cực, khí huyết sung túc th́ mạch sẽ phù, đó là Thái dương bệnh; Nhưng hiện tại lại thấy mạch trầm của Thiếu âm, mạch trầm chủ lư (bên trong), điều này phản ảnh dương khí của Thiếu âm không đủ mà hư hàn. Chứng là Thái dương biểu, mạch là mạch của Thiếu âm.
Thái dương tại biểu bệnh tà phong hàn không được giải trừ, mà dương trong Thiếu âm đă hư tổn, là Thái dương Thiếu âm cả hai cùng cảm thụ tà mà thành bệnh. V́ thế, Trọng Cảnh đề xuất trị pháp kiêm cố (đồng thời chiếu cố) dùng thang Ma hoàng Tế tân Phụ tử chủ trị bệnh này. Đó là phương pháp ôn kinh phát hăn, ôn kinh Thiếu âm, phát hăn kinh Thái dương, như vậy là có đầy đủ tác dụng giải trừ bệnh ở cả hai kinh. Xét theo thành phần của phương thang, Ma hoàng có tác dụng tuyên phát dương khí, trị biểu nhiệt ở kinh Thái dương; Phụ tử làm ấm bên trong của Thiếu âm lại hỗ trợ vị Ma hoàng để giải tán biểu hàn, hai vị Ma hoàng, Tế tân tẩu nhi bất thủ (đi khắp cơ thể không ở một nơi), có lực phát hăn mạnh mẽ. V́ thế, phương thang này thích hợp với Thiếu âm bệnh sơ phát. Nếu bệnh đă 2,3 ngày th́ không nên dùng thang Ma hoàng Tế tân Phụ tử, v́ Thiếu âm bệnh là Tạng dương hư hữu hàn của Thiếu âm, thời gian của Thiếu âm bệnh hơi dài, dương hư càng tệ, nên cần dùng Ma hoàng Tế tân Phụ tử thang để phát hăn nhẹ. Thiếu âm bệnh đă 2,3 ngày, chưa hạ lợi thanh cốc (tiết tả ra thực phẩm chưa tiêu hoá) là lư chứng hư hàn của Thiếu âm, thời điểm này có thể dùng thang Ma hoàng Phụ tử Cam thảo. Với Phụ tử phối với chích Cam thảo để ôn dương, phối Ma hoàng để phát hăn. Nếu uống 2 thang trở lên mà bệnh không giải, th́ căn cứ theo thiên Thái dương bệnh bài C96 để dùng thang Tứ nghịch.
Chúng ta xem xét thiên Thái dương bệnh điều C96: “Thái dương bệnh, phát nhiệt đầu thống? Mạch phản trầm; Nhược bất sái”, ở đây “Nhược bất sái”(Nếu không khỏi bệnh), ở đây là chỉ về việc nếu khi dùng thang Ma hoàng Phụ tử Tế tân, thang Ma hoàng Phụ tử Cam thảo vô hiệu, mà thân thể c̣n đau nhức th́ nên dùng thang Tứ nghịch, v́ thế hai bài này là chỉ về chứng ngoại cảm ở Thiếu âm, phong tà sơ khách (mới xâm nhập) Thiếu âm, dùng thang Ma hoàng Phụ tử Tế tân, thang Ma hoàng Phụ tử Cam thảo, thang Tứ nghịch, phân thành 3 giai đoạn để tiến hành điều trị. Là thể hiện được hệ thống âm dương biểu lư của lục kinh. Có nhà chú thích gọi đây là lưỡng cảm, cũng có người gọi là Thiếu âm thương hàn. Hai điều văn này là nói về giai đoạn bắt đầu của Thiếu âm, c̣n có thể dùng một số thuốc phát tán.
303 少阴病,得之二三日以上, 心中烦,不得卧,黄连阿胶汤主之。 C317
303 Thiếu âm bệnh, đắc chi nhị tam nhật dĩ thượng, tâm trung phiền, bất đắc ngoạ, Hoàng liên A giao thang chủ chi. C317
Phương thang Hoàng liên A giao
Tứ lạng Hoàng liên tam lạng Giao Nhị mai kê tử thủ hoàng xao
Nhất Cầm nhị Thược tâm phiền trị Cánh trị nan miên tiệp bất giao
Hoàng liên 4 lạng, Hoàng cầm 1 lạng, Thược dược 2 lạng, Kê tử hoàng 2 cái, A giao 3 lạng
5 vị thuốc trên dùng 5 thăng nước, sắc ba vị đầu, cạn c̣n 2 thăng, bỏ bă, cho A giao vào đợi cho tan hết, để hơi nguội, cho Kê tử hoang vào, khuấy đều, uống ấm 7 hợp, ngày uống ba lần.
Điều văn này thảo luận về chứng trạng và phương pháp điều trị Thiếu âm bệnh âm hư hữu hoả, có thể so sánh với chứng dương hư hữu thuỷ của thang Chân vơ để nhận thức rơ hơn.
Thiếu âm là tạng của thuỷ hoả, là căn bản của âm dương, bệnh của Thiếu âm phân thành chứng hàn hoá và chứng nhiệt hoá. Hàn hoá với nhiệt hoá ở Thiếu âm là thiên thịnh thiên suy của tự thân âm dương, âm hư rồi nhiệt hoá, v́ thế Thiếu âm bệnh được 2,3 ngày trở lên trong ḷng phiền muộn, phiền là h́nh tượng của hoả, mà mức độ phiền đến nỗi “bất đắc ngoạ” (不得卧)là không nằm được. Âm hư nên thuỷ không đủ, không thể chế ngự hoả, thận thuỷ không đủ, tâm hoả nổi lên, v́ thế trong ḷng phiền muộn, không nằm được, nên tả hoả để tư dưỡng âm, “tráng thuỷ chi chủ, dĩ chế dương quang” (壮水之主,以制阳光) Bổ thuỷ để chế ngự dương. Tả hoả nhiệt đồng thời cần tư bổ âm thuỷ, dùng thang Hoàng liên A giao.
Phương này có ảnh hưởng rất lớn đối với ôn bệnh học. Kết hợp với lâm sàng để làm phong phú nội dung bài văn:
Trên lâm sàng Thiếu âm bệnh âm hư hữu hoả, tâm hoả không xuống được, thận thuỷ không lên được, thuỷ hoả không thể kư tế (không thành công) chính là hiện tượng trạng thái bệnh cang (cao) mà không bị hạn chế. Bệnh nhân tâm phiền, càng về tối càng phiền muộn hơn, ban ngày là dương, chiều tối là âm, ban đêm th́ dương cần nhập vào âm.
Bệnh nhân dương thuỷ không đủ, âm hoả có thừa, nên không thể tiềm dương (tiềm dương là một trị pháp: Tư âm tiềm dương) v́ thế buổi chiều tối âm dương không thể tương giao, càng về chiều tối bệnh nhân càng phiền muộn hơn. Bệnh nhân không thể nằm, đi đi lại lại, trong ḷng bứt rứt, không thể yên tĩnh, cảm thấy rất tệ, muốn đi ra ngoài, nơi trống trải th́ có cảm giác thoải mái.
Trần Tu Viên nói: “Tứ lạng Hoàng liên tam lạng giao, nhị mai kê tử thủ hoàng xao, nhất cầm nhị thược tâm phiền trị, cánh trị nan miên tiệp bất giao” . Người viết từng khám bệnh cho một giáo viên, bị mất ngủ, tinh thần c̣n rất tốt, rất phấn khích và vội vă, sắc mặt đỏ biểu hiện của tâm hoả hữu dư, thận âm không đủ. Loại bệnh nhân này thường không có rêu lưỡi hoặc rêu lưỡi vàng mỏng, chất lưỡi hồng hoặc gai lưỡi nổi rơ và rất hồng, mạch tế sác. Đây là trường hợp ứng dụng thang Hoàng liên A giao để tả tâm tư âm. Hậu thế Lư Đông Viên sáng chế Chu sa an thần hoàn①, theo kinh nghiệm của người viết xuất từ Lư Đông Viên {Nội ngoại thương biện cảm luận}: Chu sa 5c (15g), nghiền riêng, thuỷ phi để làm áo, Hoàng liên bỏ lông, rửa bằng rượu 6c (18g) Chích Cam thảo (16,5g) Sinh địa hoàng 1,5c (4,5g) Đương quy 2,5c (7,5g)
Phương thang này dùng cho chứng tâm hoả nội nhiễu. Chu sa chất nặng tính hàn lănh, chuyên nhập vào đường kinh tâm, chất nặng có thể trấn áp sự khiếp sợ, tính hàn có thể thanh nhiệt, Hoàng liên vị đắng tính lạnh, thanh tâm hoả trừ phiền, phối hợp hai vị thuốc, một trấn (áp) một thanh (nhiệt), là trừ được phiền muộn và nhiệt quấy nhiễu, nên được dùng làm chủ dược.
Vị Đương quy dưỡng huyết, Sinh địa tư âm, một vị để bổ âm huyết bị tổn thương, một vị để tư bổ thận thuỷ, khiến cho tâm huyết đủ để hạ thừa (xuống nhận) với thận, phương Chu sa an thần hoàn là dựa theo thang Hoàng liên A giao kê hoàng phát triển thành.
Ư nghĩa của thang Hoàng liên a giao: Hoàng liên, Hoàng cầm vị đắng để tả tâm hoả, khiến tâm hoả hạ giáng, A giao, Kê tử hoàng là những dược phẩm huyết nhục hữu t́nh, có thể bổ âm của tâm thận, “dĩ hữu t́nh bổ hữu t́nh” (以有情补有情), gia Thược dược có thể tả hoả, lại có thể hoá âm, b́nh can. Thành Vô Kỷ viết: “Thược dược chi toan thu âm khí nhi tả tà dă”. (芍药之酸收阴气而泻邪也) Bạch thược vị chua, thu âm khí mà tả bệnh tà. Phương này trị người bực bội mất ngủ hiệu quả như thế nào?
Cô giáo cấp 2 nói trên, người viết kê đơn thuốc Hoàng liên A giao, uống thuốc xong cô giáo viên ngủ li b́ không dậy được là do tim - thận tương giao nên ngủ rất sâu và lâu. Khi sắc nên theo công thức: Ba vị Hoàng liên, Hoàng cầm, Thược dược được nấu trước , dùng 5 thăng nước nấu cạn c̣n 2 thăng th́ bỏ bă, cho vị A giao vào, chờ A giao tan hết, đợi thuốc hơi nguội th́ cho Kê tử hoàng vào, chia 3 lần uống trong ngày lúc thuốc c̣n ấm. Phải ghi nhớ phương pháp sắc và uống của thang này.
304 少阴病,得之一二日,口中和,其背恶寒者,当灸之,附子汤主之。 C318
304 Thiếu âm bệnh đắc chi nhất nhị nhật, khẩu trung hoà, kỳ bối ố hàn giả, đương cứu chi, Phụ tử thang chủ chi. C318
Phương thang Phụ tử
Sinh Phụ tam mai Phụ tử thang Truật nghi tứ lạng chủ tư phương
Linh Thược tam lạng Nhân sâm nhị Bối lănh mạch trầm thân thống dương
Phụ tử 3 củ, cắt làm 8, bỏ vỏ Phục linh 3 lạng Nhân sâm 2 lạng Bạch truật 4 lạng Thược dược 3 lạng
5 vị thuốc trên, dùng 8 thăng nước, đun cạn c̣n 3 thăng, bỏ bă, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.
305 少阴病,身体痛,手足寒,骨节痛,脉沉者,附子汤主之。 C319
305 Thiếu âm bệnh, thân thể thống, thủ túc hàn, cốt tiết thống, mạch trầm giả, Phụ tử thang chủ chi. C319
Thận âm đầy đủ th́ lên giao tiếp ở tâm, cộng thêm thuốc phụ trợ. Vị Cam thảo điều hoà các vị thuốc, hợp lại thành phương dược, có tác dụng một là tả hoả thiên thịnh, hai là bồi bổ âm huyết c̣n thiếu, để đạt dược tâm hoả hạ giáng và âm huyết thượng thừa (đưa lên), chính là phương dược có tác dụng trọng trấn an thần, chiếu cố cả tiêu và bản (gốc và ngọn).
Đây là hai điều văn tŕnh bày chứng trạng và trị liệu Phụ tử thang chứng của Thiếu âm hàn hoá
Thiếu âm dương hư hữu hàn khác với âm hư hữu nhiệt. “Thiếu âm bệnh đắc nhất nhị nhật” (少阴病,得之一二日) Thiếu âm bệnh thời gian thụ bệnh là 1,2 ngày, thời gian ở đây không dài. “Kỳ bối ố hàn”(mà lưng sợ lạnh) khá là nghiêm trọng, khác với Bạch hổ gia nhân sâm thang chứng “Bối vi ố hàn” (lưng hơi sợ lạnh), Bạch hổ gia Nhân sâm thang chứng chính là nhiệt gây tổn thương khí, khí âm cùng bị tổn thương, miệng khô khát. Lưng là nơi ở của dương, thang Phụ tử trị chứng dương hư sợ lạnh, miệng không bị khô. Chúng ta nên có thái độ trị liệu tích cực đối với Thiếu âm bệnh, v́ thế nên sử dụng phép cứu, thang Phụ tử chủ trị bệnh này. Tại sao cần dùng phép cứu? V́ đây là Thiếu âm bệnh rất nghiêm trọng, phải lập tức dùng phép cứu bổ dương khí để tránh t́nh trạng dương khí bị suy bại. Sau đó, tái sử dụng thang Phụ tử để điều trị. Đây chính là một chứng dùng hai phương, khi Thiếu âm bệnh mà lưng sợ lạnh là biểu hiện của dương khí đă bị hư tổn, cần lập tức sử dụng phép cứu để bổ dương tiêu trừ âm khí, cũng là để có thời gian điều trị bằng thang Phụ tử.
Điều văn này là lời cảnh báo của Trọng Cảnh với chúng ta: Khi Thiếu âm bệnh mà có chứng trạng lưng sợ lạnh là dương khí đă hư, cần phải kiến vi tri trứ (见微知著) là thấy mầm biết cây. Thầy thuốc cần có thái độ điều trị tích cực đối với Thiếu âm bệnh. Tham khảo các nhà chú giải, có thuyết cho rằng cứu huyệt Cách quan để khứ trừ tà âm hàn, cứu 5 tráng, có thuyết cho rằng nên cứu Quan nguyên để phù tŕ dương khí. Dùng phương Phụ tử thang gồm Thục Phụ tử, Phục linh, Nhân sâm, Bạch truật, Thược dược
Phục tử nướng, lượng dùng là 2 củ, đời sau có thang Sâm Phụ, là biến hoá của Phụ tử thang.
Phụ tử thang chủ yếu với Nhân sâm, Phụ tử, thục Phụ tử có tác dụng bổ dương xua tan mây mù (Bổ dương dĩ tiêu âm ế) (Thục phụ tử thiên về bổ, mà Sinh phụ tử th́ trong bổ có phát tán), Nhân sâm bổ khí phù trợ căn bản của hậu thiên, bồi bổ nguyên khí hư yếu. Dương hư âm thịnh sẽ động thuỷ sinh thấp nên trong phương có Bạch truật Phục linh để vận hoá thuỷ thấp và kiện tỳ. Quế chi khứ Quế gia thêm Phục linh Bạch truật để lợi thuỷ tà, thông đạt dương khí của Thái dương. Diệp Thiên Sĩ viết: “Phù dương bất tại ôn, nhi tại lợi tiểu tiện”.( 扶阳不在温,而在利小便) Phù trợ dương khí không phải tại ôn dược mà là do lợi tiểu. Phụ tử, Nhân sâm bổ khí tiên thiên, gia Phục linh, Bạch truật lợi thuỷ thấp, gia Thược dược để chế bớt tính mănh liệt của Phụ tử, đề pḥng Phụ tử gây tổn thương âm. Phương này chủ yếu là phù trợ chính khí.
Điều C319 là hội chứng thứ hai của thang Phụ tử. Sự khác biệt biện chứng của Thái dương và Thiếu âm có thể thấy từ điều văn này. Nếu đau thân thể, đau khớp xương, thấy bệnh nhân phát nhiệt mạch phù khẩn, là hội chứng của thang Ma hoàng. Hiện tại có thêm chân tay lạnh, mạch trầm, phản ảnh dương khí của kinh Thiếu âm bị hư tổn, âm hàn thịnh, âm hàn ngưng trệ, dương khí không thể đầy đủ đến cho thân thể tứ chi, nên thân thể xương khớp bị đau và tay chân lạnh. Những chứng trạng này với hội chứng Thái dương Ma hoàng thang có sự khác biệt về hư thực, sự phân biệt về biểu lư, v́ thế chứng này nên dùng thang Phụ tử bổ dương, bồi bổ chính khí đă hư suy, để trừ khứ hàn tà ngưng trệ.
{Thương hàn luận} giảng về một số cơn đau trên cơ thể, hội chứng thang Quế chi, hội chứng thang Ma hoàng đều có thể xuất hiện các cơn đau trên cơ thể, giải biểu phát hăn là có thể; Sau khi xuất hăn thân thể bị đau, mạch trầm tŕ, dùng Quế chi tân gia thang; Điều văn này thuộc Thiếu âm dương hư hữu hàn, hàn tà ngưng trệ, tay chân mát và mạch trầm, dùng thang Phụ tử; Nếu điều văn này có “Phản phát nhiệt” (反发热) trái lại c̣n phát nhiệt, th́ dùng Ma hoàng Tế tân Phụ tử thang, hoặc Ma hoàng Phụ tử Cam thảo thang.
Tất cả những đạo lư này cần được làm rơ, cái ǵ là biểu, cái ǵ là lư, cái ǵ là hàn, cái ǵ là nhiệt, cái ǵ là hư, cái ǵ là thực, cái ǵ thuộc âm, cái ǵ thuộc dương, có như vậy nhận thức mới rơ ràng. Đây chính là hai điều văn của thang Phụ tử, một là lưng sợ lạnh của chứng dương hư là chủ yếu, hai là tay chân lạnh, mạch ngược lại c̣n trầm, toàn thân đau nhức là chủ; Một là dùng nó (thang Phụ tử) để trị chứng sợ lạnh của dương hư, hai là dùng nó (thang Phụ tử) để trị chứng toàn thân đau nhức của âm hàn thịnh, dựa theo hai góc độ này để nói rơ về tác dụng và phạm vi trị liệu của thang Phụ tử.
306少阴病,下利便脓血者,桃花汤主之。C320
306 Thiếu âm bệnh, hạ lợi tiện nùng huyết giả, Đào hoa thang chủ chi. C320
Phương thang Đào hoa
Nhất cân Cánh mễ nhất cân chi Chi bán ma nghiên pháp diệc ky
Nhất lạng Can khương đồng tiễn phục Thiếu âm nùng huyết ẩm lai y
Xích thạch chi 1 cân, một nửa dùng, một nửa tán mạt Can khương 1 lạng Cánh mễ 1 cân
3 vị thuốc trên, dùng 7 thăng nước, nấu chín gạo, bỏ bă, uống 7 hợp, cho bột xích thạch chi vào, dùng muỗng canh (phương thốn chuỷ) ngày uống ba lần. Nếu uống 1 lần đă khỏi bệnh, c̣n dư lại không cần uống.
307 少阴病,二三日至四五日,腹痛,小便不利,下利不止便脓血者,桃花汤主之。 C321
308少阴病,下痢便脓血者,可刺。 C322
307 Thiếu âm bệnh, nhị tam nhật chí tứ ngũ nhật, phúc thống, tiểu tiện bất lợi, hạ lợi bất chỉ tiện nùng huyết giả, Đào hoa thang chủ chi. C321
308 Thiếu âm bệnh, hạ lỵ tiện nùng huyết giả, khả thích. C322
Ba bài này đều tŕnh bày chứng trạng và phương pháp trị liệu của chứng hạ lợi ra máu mủ ở Thiếu âm bệnh.
Thiếu âm bệnh có hạ lợi, chính là chứng lư hàn, Thiếu âm bệnh hạ lợi thanh cốc (thực phẩm chưa tiêu hoá), tự lợi mà khát th́ thuộc Thiếu âm, tự lợi mà không khát th́ thuộc Thái âm, cho thấy Thiếu âm bệnh có chứng hạ lợi. Nếu như hạ lợi mà phân có máu mủ, hạ lợi là hạ lợi, đại tiện ra máu mủ là đại tiện ra máu mủ, chứng hạ lợi cuối cùng thành ra đại tiện ra máu mủ, Là lư do ǵ? Thiếu âm bệnh hạ lợi, chúng ta có thể lư giải, v́ Thiếu âm lư hàn (bên trong lạnh) v́ thế hạ lợi, Tại sao c̣n có máu mủ? , sự việc là như vậy, dương hư liền liên quan đến âm, như khi khí bị bệnh sẽ liên quan đến huyết, Thiếu âm bệnh dương hư hạ lợi, đến một mức độ nhất định sẽ hạ huyết (ra máu) sẽ đại tiện ra máu mủ.
Chúng tôi đă gặp những trường hợp như vậy trên lâm sàng, lúc bắt đầu là đi tả, sau đó xuất hiện các chứng trạng hư nhiệt thăng lên như đau họng, vết lở trong miệng, cũng có khi trước đó không có máu mủ, sau đó hạ lợi trong phân có máu mủ, khống chế không tốt, có một vài trường hợp có chứng trạng hoạt thoát (đi tả quá nhiều không thể khống chế). Không phải là chứng phân có máu mủ của lư cấp hậu trọng (Cảm giác rất muốn đại tiện nhưng lại khó), có niêm dịch, là hội chứng hạ lỵ nhiệt tính của thang bạch đầu ông, hội chứng thang Hoàng cầm, mà chính là hạ lợi hư hàn của Thiếu âm, kế phát cuối cùng là phân có lẫn máu mủ, máu có sắc ảm đạm, đại tiện quá dễ không cầm lại được, đây là do hạ tiêu không ước chế mà bên trong th́ lạnh (lư hàn).
Vậy phải làm ǵ? Nên dùng thang Đào hoa để điều trị. Thang Đào hoa có thể trừ hư hàn, đồng thời có thể ngưng cố t́nh trạng hoạt thoát, chính là sáp tràng hoạt thoát (là một pp điều trị chứng tiết tả không cầm dược), đây chính là một phép điền bổ cho hạ tiêu. Xích thạch chi là một vị thuốc cố sáp, có thể trị chứng hoạt thoát phân có máu mủ ở hạ tiêu, v́ thế không giống với chứng hạ trọng nan thông, hạ trọng nan thông là không bài tiết được. Chứng hạ lợi có máu mủ này không được kiểm soát. Đồng thời, loại hạ lợi này thường thấy ở kế phát, đầu tiên là hạ lợi hàn tính, sau đó xuất hiện hạ lợi có kèm theo máu mủ, màu máu ảm đạm, đồng thời đại tiện có chút khuynh hướng hoạt thoát (quá dễ không thể kiểm soát), chứng này cần dùng thang Đào hoa để trị liệu.
Bài C321 Thiếu âm bệnh 2,3 ngày đến 4,5 ngày đau bụng, v́ sao bụng đau? V́ lạnh. V́ sao tiểu tiện bất lợi? V́ chứng tiết tả đă tổn thương tân dịch.
Chứng hạ lợi không cầm mà phân có lẫn máu mủ, hạ lợi không cầm gọi là hoạt thoát, hạ tiêu hoạt thoát không thể kiềm chế, không thể thu liễm, là việc đóng cửa không thuận lợi, v́ thế phân có máu mủ như vậy th́ gọi là hạ tiêu hạ lợi, cũng thuộc về bệnh thận của Thiếu âm, có thể dùng thang Đào hoa để trị bệnh này. Chứng hạ lợi trong hạ lợi hàn tính không ngoài ba điểm này, một là chứng hạ lợi hư hàn của trung tiêu, th́ dùng thang Lư trung; Hai là hạ lợi hư hàn của hạ tiêu, th́ dùng loại h́nh Tứ nghịch, thang Tứ nghịch; Nếu như là chứng hạ lợi hư hàn, hạ tiêu hạ lợi, mà c̣n kèm theo hoạt thoát, th́ dùng thang Đào hoa.
Người viết trên lâm sàng đă từng khám qua bệnh nhân hạ lợi hoạt thoát, nghiêm trọng đến mức không thể mặc quần, để kịp đại tiện. Đầu tiên cho bệnh nhân uống Ô mai hoàn, mới uống thuốc cũng có chút hiệu quả, sau đó th́ bệnh trở lại như cũ, khi đổi thành thang Đào hoa th́ cầm được chứng hạ lợi.

Đào hoa thang có Xích thạch chi 1 cân, dùng 1 nửa, một nửa tán mạt. “Can khương 1 lạng Cánh mễ 1 cân 3 vị thuốc trên, dùng 7 thăng nước, nấu chín gạo, bỏ bă, uống 7 hợp, cho bột xích thạch chi vào, dùng muỗng canh (phương thốn chuỷ) ngày uống ba lần,” Đây là điểm rất quan trọng.

V́ dùng 1 cân Xích thạch chi, trong thang dược dùng 0,5 cân, c̣n lại 0,5 cân tán thành bột mịn, trong nước thuốc c̣n hoà thêm bột mịn Xích thạch chi , sau đó lại uống. V́ chứng hạ lợi ở hạ tiêu, đại tràng không thể kiềm chế, nếu chỉ uống thuốc thang th́ không hiệu quả, Xích thạch chi là dạng bột, sau khi uống với nước thuốc, xích thạch chi vào đến ruột, có thể khiến cho phân lẫn máu mủ hoạt thoát cố sáp lại, có năng lực kiềm chế. Hiện tại tây y dùng bột than, có tác dụng hút, cũng chính là đạo lư này. Để bảo hộ niêm mạc ruột, trung y có lư luận gọi là sáp tràng cố thoát, Xích thạch chi tính ấm mà sáp rít, có 3 tác dụng, một là tác dụng ích khí, hai là tác dụng điều trung, ba là tác dụng cố hạ, cố là thu súc (co lại), kiên cố hạ tiêu. Chúng ta nói qua về Xích thạch hồ chỉ Vũ dư lương hoàn: “Xích thạch Dư lương các nhất cân, hạ tiêu hạ lợi thử thang hân” (赤石余粮各一斤,下焦下利此汤欣) , cũng chính là để điều trị chứng hạ tiêu hạ lợi. Trước đây người viết đă đọc qua một bản báo cáo về điều trị chứng thương hàn khi phân có máu mủ, niêm mạc thoát ra, dùng Xích thạch chi, thang Đào hoa cũng thu được hiệu quả trị liệu.
Danh y Du Gia Ngôn đời nhà Thanh viết trong y án {Ngụ ư thảo} dùng Xích thạch chi Vũ dư lương nghiền thành bột trộn vào cơm ăn để điều trị chứng hạ tiêu hạ lợi, đây là một bước phát triển. Tại sao cần ăn như vậy? V́ chứng hạ lợi ở hạ tiêu, ruột hoạt thoát (hạ lợi không cầm lại được). nếu như sử dụng lượng thuốc quá nhỏ, th́ không đạt được mục đích trị liệu, v́ thế cần phải ăn nhiều, nhất là khi trộn với cơm để ăn, th́ có khả năng phát huy tác dụng sáp tràng cố thoát.
Bài C322 là một loại văn so sánh (đối tỉ), giảng về chứng hạ lợi nhiệt tính ở Thiếu âm. V́ Thiếu âm bệnh hạ lợi đại tiện ra máu mủ, có tính lạnh, cũng có tính nhiệt, chứng đại tiện máu mủ hàn tính luôn luôn kế phát trong quá tŕnh hạ lợi, nhưng cũng chính là có nhiệt trong âm của Thiếu âm, mà xuất hiện chứng hạ lợi đại tiện có máu mủ. Loại hạ lợi đại tiện có máu mủ này khác với chứng hạ lợi lâu ngày mà xuất hiện đại tiện có máu mủ, nó thuộc nhiệt chứng, không phải là vấn đề của dương bệnh ảnh hưởng đến âm, khí bệnh ảnh hưởng đến huyết, nó chính là khi phát bệnh liền đại tiện có máu mủ, v́ thế chứng này thuộc nhiệt chứng mà không thuộc hàn chứng, là phục nhiệt của Thiếu âm gây tổn thương âm lạc của hạ tiêu. V́ thế, loại hạ lợi đại tiện ra máu mủ này có lư cấp hậu trọng (rất muốn đại tiện nhưng khó đại tiện), c̣n xuất hiện một loạt hội chứng nhiệt, thời điểm này không nên cho bệnh nhân uống thang Đào hoa.
Đối với việc điều trị, Trương Trọng Cảnh nói: “Khả thích”, thích (châm) là tả, cứu là bổ, v́ thế chứng hạ lợi nhiệt tính ở hạ tiêu cần phải châm, là tả, không được dùng phép bổ, cũng không được cho bệnh nhân dùng thuốc cố sáp. Nhưng liên quan đến việc châm ở đâu, châm như thế nào th́ không thấy bài văn ghi lại. Một số nhà chú giải đời sau cho rằng có thể châm U môn, châm Giao tín để tả nhiệt của Thiếu âm. Cũng có người chủ trương rằng, đă là chứng hạ lợi nhiệt tính th́ cũng có thể uống thang Bạch đầu ông trị chứng hạ lợi nhiệt tính. Đây đều là những ư kiến để tham khảo. Bài văn này không phải là hạ lợi hàn tính mà chính là hạ lợi nhiệt tính. Liên quan đến vấn đề hạ lợi có máu mủ ở Thiếu âm bệnh có phân thành hàn nhiệt, bổ tả khác nhau.
309 少阴病,吐利,手足厥冷,烦躁欲死者,吴茱萸汤主之。 C323
309 Thiếu âm bệnh, thổ lợi, thủ túc quyết lănh, phiền táo dục tử giả, Ngô thù du thang chủ chi. C323
Điều văn này tŕnh bày về chứng trạng và trị liệu chứng thổ tả của Thiếu âm bệnh, và rất giống với bài C310 “Thiếu âm bệnh, thổ lợi, táo phiền, tứ nghịch giả tử”( 少阴病,吐利,躁烦,四逆者死).
Thiếu âm bệnh tiên lượng không tốt, hàn thịnh nên bên trên th́ ẩu thổ, bên dưới th́ hạ lợi, đồng thời âm khí thịnh mà dương khí hư suy, v́ thế táo phiền, không phải là phiền táo, với táo là chủ; Dương chủ phiền, âm chủ táo, táo nhiều hơn phiền, đúng là người này chủ yếu là táo (vội vă), chi thể nhiễu loạn bất an, đứng ngồi không ổn định, phản ảnh âm hàn rất nhiều mà dương khí không thể điều tiết. Thổ lợi chính là hàn chứng, vội vă lại chính là biểu hiện của âm khí độc thịnh, nếu như lại xuất hiện tứ nghịch , không chỉ là thủ túc nghịch, mà chính là tay lạnh ngược lên quá khuỷu, chân lạnh ngược lên quá đầu gối, đây chính là biểu hiện của có âm không có dương, dương khí không thể liên tục, v́ thế chính là “Tử” chứng (chứng chết).
Điều C323 không phải là chứng chết, có thể dùng “Ngô thù du thang chủ chi”(thang Ngô thù du chủ trị bệnh này). So sánh hai bài này, cần phải phân tích cụ thể. Thiếu âm bệnh, nếu hàn tà xâm phạm tỳ vị, sẽ thấy ẩu thổ ở trên, tả hạ ở dưới, v́ thế mà tay chân quyết lănh. Tay chân quyết lănh khác với tứ nghịch, thủ túc là bàn tay và bàn chân, tứ nghịch th́ sâu rộng hơn, là từ chân đến đầu gối, từ tay lên đến cánh tay, là vấn đề của tứ chi, chỉ giớt hạn ở tay chân, v́ thế tuy là dương hư nhưng ở mức độ không nặng. Đồng thời, “phiền táo ” ở phía sau thổ lợi và tay chân quyết lănh, cũng có sự khác biệt. Cái nào ở trước, cái nào ở sau, bệnh cơ phản ảnh cũng chính là khác nhau. Tuy chính là lư hàn thổ lợi, dương hư tay chân quyết lănh “Táo phiền”, nhưng chính phiền là chủ, mức độ phiền táo nghiêm trọng như muốn chết, phản ảnh dương khí tương tranh với âm khí. Đó là “Táo phiền, tứ nghịch giả tử”, đây là “Thủ túc quyết lănh, phiền táo” Dương khí không tuyệt (hết), c̣n có thể tiến hành đấu tranh với âm hàn. Bởi v́, những chứng trạng này là nhẹ, có thể dùng thang Ngô thù để tán hàn giáng nghịch, ôn trung để phù trợ dương khí, bệnh này có thể biến chuyển tốt. Bài C310 chính là dương khí tuyệt rồi, độc âm vô dương (chỉ có âm mà không có dương) C̣n ở đây là dương khí tồn tại, c̣n có thể đấu tranh với tà âm hàn, Cho nên một bài chủ về sự sống và một bài chủ về sự chết.
Bài này tuy có ẩu thổ có hạ lợi, nhưng với thổ là chủ, làm ǵ để thấy được?Thiên Dương minh viết: “Thực cốc dục ẩu giả, Ngô thù du thang chủ chi.” (食谷欲呕者,吴茱萸汤主之。) Ăn thực phẩm mà muốn nôn, thang Ngô thù trị chứng này, ẩu chính là vị khí nghịch (trào ngược). Theo thiên Quyết âm “Can ẩu, thổ diên mạt, đầu thống giả, Ngô thù du thang chủ chi” (干呕,吐涎沫,头痛者,吴茱萸汤主之)Nôn khan, thổ ra bọt dăi, đau đầu, thang Ngô thù chủ trị hội chứng này)
Điều văn này là “Thiếu âm bệnh thổ lợi”, thổ là ở phía trước, thang Ngô thù du tuy trị chứng ẩu thổ nhưng cũng trị chứng hạ lợi, nhưng chứng trạng trọng điểm là ẩu thổ. Thang Ngô thù du chính là trị chứng ẩu thổ, thang Tứ nghịch, thang Lư trung là trị chứng hạ lợi, điểm thiên lệch khác nhau. Đời nhà Tống có một vị y gia gọi là Quách Ung, hiệu là Bạch Vân, viết một bộ sách có tên là {Bổ Vong Luận} Ông ta ứng dụng ba phương thang gồm thang Ngô thù du, thang Tứ nghịch và thang Thông mạch Tứ nghịch vào Thiếu âm bệnh để tiến hành tổng kết. Tổng kết này đối với chúng ta là một tấm gương rất tốt trong việc học tập chứng âm hàn và sử dụng ôn dược để phù trợ dương. Quách Ung cho rằng, chứng phong hàn hễ là thủ túc quyết lănh mà có chứng trạng phiền táo, không cần hỏi vấn đề khác, mà có thể cho bệnh nhân uống ngay thang Ngô thù. Nếu như chỉ có tay chân quyết lănh, mà không thấy phiền táo, th́ nên dùng thang tứ nghịch, mà không dùng thang Ngô thù du. Nếu như thủ túc quyết lănh mà lại hạ lợi, mạch bất xuất giả, th́ trước tiên nên dùng thang Thông mạch tứ nghịch.
“Thăng hứa Ngô du tam lạng Sâm, Sinh khương lục lạng cứu hàn xâm, Táo đầu thập nhị trung cung chủ, thổ lợi đầu thống phiền táo tầm”. Thang Ngô thù du với Ngô thù là chủ dược. Ngô thù du vị đắng mà cay, cay có thể tán hàn, đắng có thể giáng nghịch, vào can và vị, trị chứng hàn tà ở can vị có hiệu quả rất tốt, nhất là chứng hàn tà thượng nghịch gây ẩu thổ, trong phương c̣n gia thêm một lượng lớn Sinh khương, tán hàn hoá thuỷ, v́ thế thang Ngô thù du chuyên trị chứng vị hàn mà ẩu thổ có đàm và nước.

Ly Trường Xuân

Chú:
Các câu có dấu* đăng ở Đông y thuật ngữ.
“Thông dương bất tại ôn, nhi tại lợi tiểu tiện” (通阳不在温,而在利小便)Thông dương không phải do các vị thuốc ấm áp, mà do tác dụng lợi tiểu, đây là trị pháp mấu chốt của bệnh thấp ôn, thấp là âm tà, dễ gây trở ngại dương khí, chỉ có lợi tiểu, khiến bệnh tà xuất ra th́ dương khí được thông.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-11 13:42:52
Từ điều 310 đến điều 317
310 少阴病,下痢,咽痛,胸满心烦者,猪肤汤主之。 C324
310 Thiếu âm bệnh, hạ lợi, yết thống, hung măn tâm phiền giả, Trư phu thang chủ chi. C324
Phương thang Trư phu
Ngũ hợp bạch phấn nhất thăng mật Cân phu đấu thuỷ tiễn khứ bán
Khứ tể gia mật phấn ngao hương Phiền lợi yết thống hung măn thuyên
Trư phu 1 cân
Một vị trên, dùng 1 đấu nước, nấu c̣n 5 thăng nước, bỏ bă gia Bạch mật 1 thăng, bạch phấn 5 hợp, nấu cho có mùi thơm, tất cả hoà đều với nhau, phân thành 6 lần uống.
Từ bài C324 đến bài C327 đều tŕnh bày về bệnh trong cổ họng của Thiếu âm. Tại sao Thiếu âm bệnh lại xuất hiện hội chứng yết hầu? V́ kinh mạch của Thiếu âm đi qua vùng cổ họng (yết hầu).
Liên quan đến chú thích của thang Trư phu, Thành Vô Kỷ trong {Chú giải Thương hàn luận} sử dụng quan điểm kinh lạc tạng phủ của {Nội kinh}để giải thích. Ông ta nói: “Thiếu âm chi mạch ṭng thận thượng quán can cách, nhập phế trung, tầm hầu lung, kỳ chi biệt giả, ṭng phế xuất lạc tâm chú hung trung.” (少阴之脉从肾上贯肝膈,入肺中,寻喉咙,其支别者,从肺出络心注胸中。) Mạch của Thiếu âm, từ tạng thận thông lên gan và hoành cách mô, nhập vào phổi, vào cổ họng. Kinh mạch Thiếu âm chính là đi vào cổ họng, phân nhánh, từ phế vào lạc mạch của tâm rồi vào ngực.
Kinh mạch của Thiếu âm chính là đi vào cổ họng. Trong các trường hợp cấm phát hăn của thang Ma hoàng có “Yết hầu can táo giả, bất khả phát hăn” 咽喉干燥者,不可发汗) Cổ họng khô th́ không nên phát hăn, v́ kinh mạch của Thiếu âm là tưới nhuần cho cổ họng, yết hầu bị khô là do âm của thiếu âm bị hư tổn không thể tưới nhuần cổ họng. Nếu lại xuất hăn th́ chẳng phải là làm tổn thương âm hơn? Cổ họng và Thiếu âm có quan hệ rất mật thiết chúng ta đều biết quan hệ giữa phế và cổ họng, v́ mũi là ngoại khiếu (khiếu bên ngoài) của phế, cổ họng là nội khiếu (khiếu bên trong) của phế, nhưng cần biết sự quan hệ của nó với Thiếu âm, khi Thiếu âm bị bệnh sẽ phản ảnh lên yết hầu.
Sự vật không cố định bất biến, mà chính là biến hoá, phát triển, vận động. Bài C324 là chứng hạ lợi có tính hàn (tính lạnh) của Thiếu âm bệnh, nếu như hàn theo hạ lợi mà giảm, nhiệt theo hạ lợi mà sinh, sẽ phát sinh vấn đề tân dịch không đầy đủ, hư nhiệt hun nóng lên trên sẽ xuất hiện tức ngực tâm phiền, đau họng, nhưng loại nhiệt này lại khác với thực nhiệt thông thường, không thể giải quyết bằng thuốc đắng lạnh (khổ hàn). V́ chính là sau khi hạ lợi đă tổn thương đến âm của Thiếu âm, kinh mạch Thiếu âm bị nhiệt hun xông, v́ thế nếu dùng thuốc đắng lạnh chẳng những vô hiệu mà c̣n bị tổn hại. Đối với loại hư nhiệt được sản sinh trên cơ sở hạ lợi hàn tính, chúng ta gọi là âm nhiệt, âm hoả, hoả trong âm.
Liên quan đến việc điều trị, Trương Trọng Cảnh dùng “Trư phu thang chủ chi”. Trư phu là da lợn, trong thang Trư phu dùng 1 cân da lợn, “Dĩ thuỷ nhất đấu, chử thủ ngũ thăng” (以水一斗,煮取五升) dùng 1 đấu nước, nấu cạn c̣n 5 thăng, là nấu cạn c̣n lại một nửa, sau đó bỏ bă, thêm “Bạch mật nhất thăng”Bạch mật là mật ong tốt. “Bạch phấn ngũ hợp”, Bạch phấn là bột gạo trắng, “ngao hương” ngao là sao bột gạo cho thơm. “Hoà tương đắc”, là hoà đều nước da lợn với mật ong và bột gạo với nhau, “ôn phân lục phục” phân làm 6 lần uống lúc thuốc c̣n ấm.
Da lợn là thuốc ngọt lạnh, có tác dụng tư âm thanh nhiệt, có thể nuôi dưỡng phế âm, tư bổ thận âm, trừ khách nhiệt, trị chứng đau họng.
Bạch mật là mật ong tốt có màu trắng, nhuận táo (trị khô khan) dưỡng huyết, bạch mễ phấn là ngũ cốc hàng đầu, có thể nuôi dưỡng vị khí. V́ sau khi hạ lợi, tỳ vị không đầy đủ, v́ thế dùng bột gạo để bồi bổ những hư tổn sau khi hạ lợi. Phương này có nhiều khả năng nhuận phế, lại có thể tư bổ thận, thanh hư nhiệt, sinh tân dịch, c̣n có thể bồi bổ hư tổn của tỳ vị sau khi hạ lợi.
Người viết từng điều trị cho một nữ đồng học, người này ca hát rất hay. Một ngày đột nhiên người này bị khàn tiếng, họng bị khô và đau. Đă uống mạch môn đông, Bạn đại hải, Tàng thanh quả cũng không hiệu quả. Đúng lúc nhà trường muốn tổ chức buổi văn nghệ vào buổi tối và người bạn này phải tham dự. Cô liền vội vă t́m tôi, tôi khám và thấy đầu lưỡi đỏ và không có rêu. Học sinh ở trường học nên việc uống thuốc rất bất tiện, thế là người viết nghĩ đến thang Trư phu, cô uống liền có kết quả tốt.
Khi sử dụng thang Trư phu nên chú ư, chỉ nên dùng da lợn mà không nên dùng thịt, nhất là thịt mỡ, nếu không chú ư ăn thịt vào sẽ dễ bị hoạt tràng (tiết tả).
311 少阴病,二三日咽痛者,可与甘草汤;不差者,与桔梗汤。 C325
311 Thiếu âm bệnh, nhị tam nhật yết thống giả, khả dữ Cam thảo thang; Bất sai giả, dữ Cát cánh thang. C325
Phương Cam thảo thang
Cam thảo 2 lạng
Dùng một vị trên, với 3 thăng nước. nấu c̣n 1,5 thăng, bỏ bă uống lúc thuốc c̣n ấm 7 hợp, ngày uống 2 lần.
Phương thang Cát cánh
Cát cánh 1 lạng, Cam thảo 2 lạng
Hai vị trên, dùng 3 thăng nước, nấu c̣n 1 thăng, bỏ bă, phân hai lần uống.
Điều văn này tŕnh bày phương pháp trị liệu chứng đau họng do hư hoả của Thiếu âm nhiễu loạn lên trên gây ra.
Tại sao gọi là âm hoả? Âm hoả chính là tướng hoả. Vương Băng nói: “Tráng thuỷ chi chủ dĩ trị dương quang” (壮水之主以治阳光), (Bổ thuỷ để trị dương). Trong trị liệu không thể dùng thuốc hàn lương để chế phục bệnh, mà chính là dùng phép tư âm, bổ thuỷ, tăng dịch để điều trị chứng hoả ở trong âm (âm trung chi hoả).
Nếu như Thiếu âm có nhiệt, sẽ dễ dàng phản ảnh đến cổ họng.
Không phải do Vị hoả và Phế hoả, mà chính là hoả của Thiếu âm gây ra chứng đau họng. Không có các chứng trạng như: Sợ lạnh, phát sốt, đại tiện táo bón, ho, chỉ có cảm giác đau họng. Đối với loại đau họng do hư hoả thượng huân (bốc lên) này, không nên dùng thuốc khổ hàn (đắng lạnh), mà phải dùng thuốc cam hàn (ngọt lạnh). Thuốc cam hàn là ǵ? Dùng thang Cam thảo, ở những chỗ khác trong {Thương hàn luận}khi dùng Cam thảo th́ đều dùng Cam thảo nướng, chỉ trong thang Cam thảo th́ dùng Cam thảo sống. Cam thảo sống ngọt lạnh mà b́nh, có thể thanh hư nhiệt, trị hoả trong âm của kinh Thiếu âm. Các y gia sau này dùng Cam thảo nấu thành cao, gọi là cao Quốc lăo, Cam thảo c̣n có các tác dụng như giảm đau, hoăn cấp (tương trợ cần thiết) và giải độc.
Có một loại bệnh ngoại khoa “Hải để phát”, đó là tầng sinh môn bị sưng tấy, đau dữ dội, khi đại tiện th́ đau và khi đi tiểu cũng đau. Tầng sinh môn thuộc kinh âm, nhiệt độc thuộc âm phận, dùng thuốc ǵ chữa trị? Chỉ dùng cam thảo sống sắc đặc, tối thiểu hai lạng, tức 60g, sau khi uống sẽ có tác dụng, v́ sao? Cam thảo sống có thể giải trừ nhiệt độc ở Thiếu âm, v́ vậy nó được dùng để điều trị "Hải để phát" bên dưới, và bệnh viêm họng của Thiếu âm ở bên trên.
“Nhược bất sái giả”, Nếu uống hết thang Cam thảo mà bệnh chưa khỏi, là lực thuốc nhẹ không giải được nhiệt độc nặng, cần gia thêm Cát cánh. Cát cánh có vị đắng nhẹ, có tác dụng trị đau họng và giải độc. Hai vị Cam thảo và Cát cánh phối hợp với nhau, có thể trị đau họng, giải độc và tiêu viêm. Trên lâm sàng chứng đau họng của âm hoả Thiếu âm, đau rất nặng, không giống với chứng đau họng do dương nhiệt thông thường, cổ họng sung huyết tương đối nhẹ, thường thấy mạch tế sác, chất lưỡi hồng ít rêu lưỡi, tiểu tiện không thuận lợi, mà có một chút màu vàng. Dùng thang Cam thảo cũng được, thang Cát cánh cũng được, đều có ư nghĩa giải độc.
312 少阴病,咽中伤生疮,不能语言,声不出者,苦酒汤主之。 C326
312 Thiếu âm bệnh, yết trung thương sinh sang, bất năng ngữ ngôn, thanh bất xuất giả, Khổ tửu thang chủ chi. C326
Thang phương Khổ tửu
Sinh Hạ nhất mai thập tứ khai Kê thanh khổ tửu giảo nhi hồi
Đao hoàn bổng xác chử tam phí Yết thống tần thôn tuyệt diệu tai
Bán hạ rửa, đập vỡ, 14 miếng to bằng hạt táo, trứng gà một quả, bỏ ḷng đỏ, cho rượu đắng và Bán hạ vào vỏ trứng, đặt vỏ trứng vào ṿng đao, đặt trên lửa, sôi 3 lần, bỏ bă, lấy ít một để ngậm, nếu chưa khỏi , làm thêm ba thang.
Bài này tŕnh bày phương pháp điều trị các vết thương và vết loét trong cổ họng của Thiếu âm bệnh.
Hai bài đau họng ở phần trên đều là sưng đau, nhưng không bị lở loét. Bài này v́ nhiệt gây tổn thương lạc mạch của Thiếu âm, cổ họng bị nhiệt gây tổn thương nên bị tạo thành vết thương. “Bất năng ngữ ngôn, thanh bất xuất giả”, (không nói được, nói không thành tiếng) cổ họng có vết thương, có máu mủ, bệnh tiến triển đến nỗi không nói được, nói không ra tiếng, chính là bệnh khá nghiêm trọng của họng. “Khổ tửu thang chủ chi”, thang Khổ tửu thanh nhiệt, giải độc, làm sạch các vật bài tiết trên vết thương để có thể xuất âm thanh, nhờ đó các vết loét trên họng được cải thiện và làm lành vết thương.
Khổ tửu chính là giấm, có tác dụng giải độc, sát khuẩn, thu liễm vết loét, là chủ dược.
Giấm cũng có tác dụng hoạt huyết hành ứ, Trung y gọi là giải độc, y học hiện đại cho rằng Giấm có tác dụng sát khuẩn tiêu viêm. Tṛng trắng trứng gà có tác dụng giảm đau, thông lợi huyết mạch, nhuận cổ họng, xuất âm thanh. Bán hạ có thể trừ bỏ chất nhầy trên miệng vết thương và mở cổ họng bị bệnh.
Căn cứ theo rất nhiều tư liệu, tṛng trắng trứng có lợi cho huyết mạch, giảm đau, có hiệu quả xuất âm thanh. Có các vị lăo y giảng đến {Thương hàn luận} nói về tại sao lại dùng tṛng trắng trứng trong Khổ tửu thang? Ông ta kể một cố sự, ở thời cổ đại có một h́nh phạt là đánh bằng roi. Nếu như không dùng tiền đút lót cho nha môn sẽ bị đánh rất ác độc, mông không sưng, nhưng máu bị ứ trong thịt, cũng chính là vết thương v́ roi đ̣n. Phải làm ǵ? Dùng ḷng trắng chậm răi vỗ nhẹ vào chỗ bị đánh, máu ứ tan dần và vết thương mau lành. Lại nói về xuất ra âm thanh, ngày xưa gọi là người ưu tú, ngày nay gọi là diễn viên, sợ khàn tiếng, uống tṛng trắng trứng gà, có tác dụng tốt cho âm thanh là một thực tế.
Công thức này rất độc đáo, “Thượng nhị vị, nội Bán hạ trứ khổ tửu trung, dĩ kê tử xác臵 đao hoàn trung, an hoả thượng, linh tam phí, khứ chỉ, thiểu thiểu hàm yết chi, bất sái, cánh tác tam tễ.” (上二味,内半夏著苦酒中,以鸡子壳臵刀环中,安火上,令三沸,去滓,少少含咽之,不差,更作三剂。) Là lấy vị bán hạ bổ thành từng miếng nhỏ bằng hạt táo, dùng 14 miếng. Có nhà chú giải phản đối, quả trứng không đủ lớn để chứa được 14 khối Bán hạ, hai là vỏ trứng rất mỏng, để trên lửa là sôi và chín ngay, khó có thể sôi ba lần.
“Khứ chỉ”, là bỏ Bán hạ, bỏ ḷng trắng trứng. “Thiểu thiểu hàm yết chi”, trị cổ lọng bị lở loét, không được uống mà ngậm nuốt chậm chậm. “Bất sái” (không khỏi) uống thêm ba tễ. Người viết chưa sử dụng qua phương này. Vị đại phu lớn tuổi chuyên về khoa yết hầu cho rằng phương này rất hiệu quả. Hiện nay trong các bài giảng về chuyên khoa yết hầu, cũng sưu tầm thang Khổ tửu của {Thương hàn luận}.
313少阴病咽中痛,半夏散及汤主之。 C327
313 Thiếu âm bệnh yết trung thống, Bán hạ tán cập thang chủ chi. C327
Bán hạ tán và Phương thang
Bán hạ Quế Cam đẳng phân thi Tán tu thốn chuỷ ẩm điều nghi
Nhược tiễn thiểu dữ đương nghi lănh Yết thống cầu xu pháp diệc ki
Bán hạ rửa Quế chi bỏ vỏ Cam thảo nướng, các vị lượng bằng nhau, ba vị nêu trên, giă nát sàng riêng, hợp chung lại, uống với cháo trắng (bạch ẩm) mỗi lần 1 th́a (phương thốn chuỷ: Th́a thời cổ), ngày ba lần. Nếu không tán thành bột được, th́ dùng 1 thăng nước, sôi bảy dạo, cho vào 2 th́a, sôi 3 dạo, tắt lửa cho nguội, nuốt ít một.
Điều văn này tŕnh bày trị pháp chứng đau họng do lạnh của kinh Thiếu âm.
Chứng đau họng ở điều văn này nặng hơn so với những trường hợp đă nêu ở trên. Mà nguyên nhân là do phong hàn xâm phạm kinh Thiếu âm, tác động đến đàm răi mà gây bệnh. Phải làm ǵ? Dùng Bán hạ tán và thang dược để điều trị. Thành phần của Bán hạ tán gồm Bán hạ, Quế chi, Cam thảo.giải tán phong hàn dùng Quế chi, trừ khứ phong đàm dùng Bán hạ, hoà trung phù trợ chính khí dùng Cam thảo. “Thượng tam vị, các biệt đảo sư dĩ, hợp trị chi, bạch ẩm hoà” (上三味,各别捣筛已,合治之,白饮和) Ba vị thuốc trên, tán sàng riêng, hợp chung lại, uống với cháo gạo trắng, bạch ẩm chính là cháo gạo trắng; “Phục phương thốn chuỷ, nhật tam phục. Nhược bất năng tán phục giả, dĩ thuỷ thăng, tiễn thất phí, nội tán lưỡng phương thốn chuỷ, cánh tiễn tam phí, hạ hoả linh tiểu lănh, thiểu thiểu yết chi” (mỗi lần uống một th́a ngày xưa gọi là phương thốn chuỷ, ngày uống ba lần, nếu không thể tán thuốc thành bột, có thể dùng 1 thăng nước, nấu sôi 7 lần, nếu nấu thuốc đă tán bột th́ nấu sôi 3 lần, tắt lửa để thuốc nguội, nuốt dần nước thuốc từng chút một) đó là phép chử tán (vừa tán vừa nấu). Thông thường hay dùng thang, dùng tán e rằng khó thực hiện. V́ Bán hạ và Quế chi dễ bị nghẹn cổ.
314少阴病,下利,白通汤主之。 C328
314 Thiếu âm bệnh, hạ lợi, Bạch thông thang chủ chi. C328
Phương thang Bạch thông
Thông bạch tứ kinh nhất lạng khương Toàn mai sinh phụ Bạch thông thang
Mạch vi hạ lợi chi kiêm quyết Can ẩu tâm phiền niệu đảm tương
Thông bạch 4 nhánh Can khương 1 lạng Phụ tử 1 củ, dùng sống, bỏ vỏ bổ làm 8 miếng. Ba vị trên, dùng 3 thăng nước, nấu c̣n 1 thăng, bỏ bă, phân 2 lần uống ấm (uống sau ăn).
315少阴病,下利脉微者,与白通汤;利不止,厥逆无脉,干呕烦者,白通加猪胆汁汤主之。服汤,脉暴出者死,微续者生。 C329
315 Thiếu âm bệnh, hạ lợi mạch vi giả, dữ Bạch thông thang; Lợi bất chỉ, quyết nghịch vô mạch, can ẩu phiền giả, Bạch thông gia Trư đảm trấp thang chủ chi. Phục thang, mạch bạo xuất giả tử, vi tục giả sinh. C329
Phương bạch thông gia Trư đảm trấp
Thông bạch (hành) 4 cọng Can khương 1 lạng Phụ tử 1 củ, sống, bỏ vỏ, bổ làm 8 Nhân niệu 5 hợp Trư đảm trấp 1 hợp
Ba vị trên, dùng 3 thăng nước, nấu c̣n lại 1 thăng, bỏ bă, cho đảm trấp (nước mật), nhân niệu (nước tiểu người) vào, hoà đều phân hai lần uống, nếu không có mật cũng có thể dùng.
Phương pháp điều trị và tiên lượng Thiếu âm hàn chứng, dương hư mà bị ức chế, thuộc tạng chứng của Thiếu âm, nên phối hợp để trải nghiệm.
Từ thiên Thái dương giảng đến thiên Thiếu âm, Thiếu âm bệnh hạ lợi thường đều dùng thang Tứ nghịch.
V́ sao Thiếu âm bệnh hạ lợi ở điều này lại dùng thang Bạch thông? Thứ nhất, Thiếu âm bệnh hạ lợi của điều này đă sử dụng thang Tứ nghịch, nhưng không đạt hiệu quả, nguyên nhân là do lực của thang Tứ nghịch nhỏ yếu. Thứ hai là bệnh cơ của Thiếu âm bệnh hạ lợi ở điều này là dương hư mà hàn thịnh, dương khí đă hư lại bị ức chế. Dương khí ức uất là nguyên nhân dẫn đến hàn thịnh. V́ thế, chứng trạng của nó chính là mạch chẳng những vi mà c̣n rất trầm phục.
Loại hạ lợi này khá nghiêm trọng, không thể dùng thang Tứ nghịch. Thang Tứ nghịch chỉ có thể phù trợ dương khí mà không thể phá âm. Thông bạch thang chính là Tứ nghịch thang khứ vị chích Cam thảo có tinh hoà hoăn, gia vị Thông bạch để phá âm. “Dụng tứ kinh” chính là 4 cọng hành. Trong phương có Phụ tử, Can khương phù dương khứ hàn, Thông bạch thông dương phá âm. Sau khi uống thuốc, mạch sẽ nổi lên, chứng hạ lợi sẽ cầm lại. Thang Thông bạch và thang Tứ nghịch khác nhau, một thang chủ yếu là bổ dương khứ hàn, thang kia chủ yếu là bổ dương phá âm, làm một thí dụ, khi hàn khí quá mạnh th́ nước đông lại thành băng, nếu không phá băng th́ không thể. Tại sao Thông bạch có thể thông dương phá âm, Can khương, Sinh khương không phá được? Mỗi vị thuốc mỗi tính, và chỉ có vị Thông bạch là thông dương phá âm có hiệu quả tốt.
Đời nhà Tấn, Cát Hồng trong {Trửu hậu phương} có thang Thông thị trị chứng Thương hàn, thành phần gồm có Thông bạch và Đậu thị, có thể phát hăn tán phong hàn. Có thể thấy, Thông bạch không chỉ thông dương mà c̣n có tác dụng phát tán.
Thiếu âm bệnh đến khi âm hàn cực thịnh, dương khí cực hư, cho bệnh nhân uống Thông bạch thang, có phải là uống một lần là tốt hơn một chút? Không hẳn như vậy. “Thiếu âm bệnh, hạ lợi, mạch vi giả, dữ Bạch thông thang”, (少阴病,下利,脉微者,与白通汤) Thiếu âm bệnh, hạ lợi, mạch vi, dùng thang Bạch thông) đây là dựa theo bài trước, không những không thấy kiến hiệu, mà c̣n “Lợi bất chỉ, quyết nghịch, vô mạch, can ẩu, phiền giả” (利不止,厥逆,无脉,干呕,烦者) Chứng hạ lợi không cầm, chân tay quyết nghịch, không thấy mạch, nôn khan, bực bội), chứng trạng đă tăng nặng. Tuy nhiên thuốc là phép chính trị (điều trị chính diện, theo tính chất, bệnh cơ), thang Bạch thông chẳng phải dùng để khứ hàn phá âm thông dương đó sao? Nhưng cũng có khi âm hàn quá nặng mà không chịu được thuốcVương Băng từng nói: “Phàm đại hàn đại nhiệt giả, tất dữ vi kỳ tính giả tranh hùng, dị kỳ khí giả tương cách dă.” (凡大寒大热者,必与违其性者争雄,异其气者相格也。) V́ âm hàn quá thịnh nên luôn luôn kháng cự đối với vị thuốc đại nhiệt, kết quả là thế lực của hàn tà được kích phát nhiều hơn, v́ thế sau khi uống thuốc các chứng trạng lại tăng nặng hơn. Chính v́ vậy nên phải cải biến phép chính trị thành phép ṭng trị. {Tố vấn * Chí chân yếu đại luận} : “Nghịch nhi ṭng chi, ṭng nhi nghịch chi” (逆而从之,从而逆之), “Nghịch giả chính trị, ṭng giả phản trị” (逆者正治,从者反治) Trong thang Bạch thông gia thêm vị thuốc đắng lạnh là Trư đảm trấp (mật lợn), vị thuốc mặn lạnh là nước tiểu tiện, để thuận theo tính âm hàn, khiến cho bệnh không chống cự, sau đó dẫn dương nhập vào âm.
Đồng thời, Thiếu âm bệnh hạ lợi không những tổn thương dương khí, mà c̣n tổn thương âm. Nếu như hạ lợi làm cho âm dương đều bị hư tổn, thang Bạch thông phù trợ dương khí có thừa nhưng tư dưỡng âm dịch th́ không đủ. Đơn độc trị dương mà không chiếu cố tân dịch, chính là không toàn diện. Các chứng trạng như nôn khan, tâm phiền, quyết nghịch, không có mạch chính là biểu hiện của âm hư, lúc này toàn là Phụ tử, Thông bạch, Can khương cũng là không có năng lực. Mật lợn (trư đảm trấp) và nước tiểu của người đều là chất chuyển hóa sinh học, có thể bổ sung chất lỏng trong cơ thể, nhanh hơn so với việc bổ sung chất lỏng tự nhiên cho cơ thể của thảo mộc. Chúng được con người hấp thụ trực tiếp và chỉ có hiệu quả khi chúng được ăn uống vào người. V́ thế đây không chỉ đơn thuần là vấn đề của cách cự (đề kháng đấu tranh), mà c̣n có vấn đề của âm dương cùng hư tổn.
“Phục thang mạch bạo xuất giả tử, vi tục giả sinh.” (服汤脉暴出者死,微续者生) Sau khi uống thang Thông bạch gia Trư đảm trấp, nếu mạch phát ra đột ngột, mạch xuất mạnh và phù đại, giống như cây nến sắp cạn dầu, ngọn nến sắp hết, sáng lên lần cuối trước khi tắt, nên thấy mạch bạo xuất, th́ đây không phải là một t́nh huống sinh lư phù hợp, sợ rằng đây là biểu hiện của nguyên khí bạo thoát, ánh sáng cuối của đèn cạn dầu, sinh mệnh khó tồn tại. “Vi tục giả sinh”, vi tục (tiếp tục mạch vi) trước đó không thấy mạch, hiện tại mạch trầm, nhỏ bé có một chút mạch, đây là do mạch trầm nên chỉ thấy một chút mạch, chậm răi xuất hiện. Là chân dương đă hồi phục, hàn tà đă thoái lui, phù hợp với sự phát triển của bệnh, phù hợp với t́nh huống khôi phục sinh lư.
Tại sao lại gọi là thang Bạch thông? Có người cho rằng v́ trong thang có vị Thông bạch nên gọi là Bạch thông. Có nhà chú giải cho rằng Bạch thông là nói về nước tiểu của người. Thời cổ đại gọi đại tiểu tiện là thông, nước tiểu trắng nên gọi là Bạch thông. Là trong phương này gồm Thông bạch, Can khương, Phụ tử nên có nước tiểu, điều này phù hợp với tên Bạch thông của phương thang. Ngoài ra, Bạch thông gia Trư đảm trấp thang chủ chi, tại sao không thấy đề cập đến nước tiểu, có hàm ư (ư tại ngôn ngoại) , trong thang Bạch thông nhất định là có nhân niệu (nước tiểu), không cần tái đề cập, ở chỗ này chỉ cần nói là gia Trư đảm trấp là được.
Trên lâm sàng, dùng thang Bạch thông cần gia Nhân niệu, Trư đảm trấp. Trương Trọng Cảnh nói rằng không có Trư khổ đảm, chỉ có niệu th́ cũng có thể. Vấn đề này đă được thảo luận tại Hội nghị Sách giáo khoa Quốc gia về "Thương hàn luận" ở Hồ Bắc năm ngoái. Một đồng chí nói thang Bạch thông gia Trư đảm trấp nhất định phải có Trư đảm trấp, đồng chí cũng dẫn chứng về vị lương y cao tuổi Tŕnh Môn Tuyết, người đă điều trị một số trường hợp tiêu chảy không ngừng, tay chân quyết nghịch do ăn cua và ghẹ. Kết quả, bệnh nhân dùng mật lợn sống sót, bệnh nhân không dùng mật lợn bị tử vong.
Trư đảm trấp đắng lạnh, nhưng không giống đắng lạnh của Hoàng cầm, Hoàng liên, Hoàng bá.
Khác ở điểm nào? V́ nước mật là vật tiết ra từ nội tạng động vật, v́ thế vị đắng lạnh của nó không làm tổn thương dương khí. Nếu như trong thang Bạch thông gia thêm các vị thuốc thảo mộc khổ hàn khác, làm như thế là có lợi cho âm mà bất lợi cho dương. Mà Trư đảm trấp th́ hoàn toàn tương phản, có khả năng tư âm, mà không làm cho tà âm hàn tăng lên.
Nhân niệu mặn và lạnh, có tác dụng tư âm, và không gây trở ngại cho dương khí. Đây chính là một đặc điểm lớn của Nhân niệu và Trư đảm trấp.
Với thời bây giờ có vẻ như việc uống nước tiểu của con người là rất mất vệ sinh. Nhưng trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, điều này là dễ hiểu. Trong y học Trung Quốc, không phải chỉ có "Thương hàn luận" dùng nước tiểu của người để chữa bệnh, c̣n có rất nhiều loại khác. Ví dụ, nếu một người điều trị khoa xương bị hôn mê và khó chịu v́ khát của một người rơi từ trên cao xuống, các chuyên gia chỉnh h́nh có kinh nghiệm sẽ không cho bn uống nước lạnh mà uống nước tiểu của người, và người đó có thể được cứu sống.
Ngoài ra c̣n có ư nghĩa cứu cấp. Như ở xă hội cũ, điều kiện y dược không tốt, phụ nữ sau khi sanh mất máu rất nhiều, hôn mê, phải làm thế nào? Bạn nói là dùng Độc sâm thang. Bạn t́m được nhân sâm ở đâu? Lúc đó trong nhà có một em bé nên mau tè cho mẹ dùng, đây là hiện thực. Đừng coi thường túi mật lợn hoặc mật gấu dùng trị bệnh về mắt hoặc bệnh hoàng đản, hiệu quả đều rất tốt. Có tác dụng giải độc, thanh nhiệt, hạ sốt, thông tiện, có rất nhiều ưu điểm. Như trên lâm sàng trị chứng sốt nhẹ kéo dài không hạ, có khi dùng Trư khổ đảm, thu được hiệu quả cực tốt. Đời sau có Sài hồ thanh cốt tán, c̣n có tên khác là Sài hồ thanh cốt ẩm, trong đó có vị Trư đảm. Nhưng vị Khổ đảm có tác dụng lợi đại tiện, không thể uống nhiều, uống nhiều gây chứng đi tả.
316 少阴病,二三日不已,至四五日,腹痛,小便不利,四肢沉重疼痛,自下利者,此为有水气,其人或咳,或小便利,或下利,或呕者,真武汤主之。 C330
316 Thiếu âm bệnh, nhị tam nhật bất dĩ, chí tứ ngũ nhật, phúc thống, tiểu tiện bất lợi, tứ chi trầm trọng đông thống, tự hạ lợi giả, thử vi hữu thuỷ khí, kỳ nhân hoặc khái, hoặc tiểu tiện lợi, hoặc hạ lợi, hoặc ẩu giả, Chân vơ thang chủ chi. C330
Phương Chân vơ thang
Sinh khương Thược Phục lạng giai tam Nhị lạng Bạch trật nhất phụ toàn
Tiện đoản khái tần kiêm phúc thống Khu hàn trấn thuỷ dữ quân đàm
Khái gia Ngũ vị yếu bán thăng Can khương Tế tân nhất lạng túc
Tiểu tiện nhược lợi khủ háo tân Tu khứ Phục linh thận thuỷ cố
Hạ lợi khứ Thược gia Can khương Nhị lạng ôn trung năng thủ trụ
Nhược ẩu khứ Phụ gia Sinh khương Túc tiền tu đáo bán cân số
Phục linh 3 lạng Thược dược 3 lạng Sinh khương 3 lạng, thái Bạch truật 2 lạng Phụ tử 1 củ, nướng bỏ vỏ, chia làm 8 miếng
5 vị trên, dùng 8 thăng nước, nấu c̣n 3 thăng, bỏ bă, uống mỗi lần 7 hợp, ngày 3 lần.
Phép gia giảm:
Nếu ho, gia Ngũ vị ½ thăng, Tế tân, Can khương đều 1 lạng.
Nếu tiểu tiện nhiều, khứ Phục linh.
Nếu ẩu thổ, khứ Phụ tử, gia Sinh khương, thành ½ cân.
Điều văn này tŕnh bày hội chứng và trị pháp của Thiếu âm bệnh dương hư thuỷ phiếm (tràn lan).
Điều văn C86 của thiên Thái dương cũng chính là hội chứng Chân vơ thang, là phát hăn của Thái dương dẫn đến tổn thương dương của Thiếu âm. Thái dương và Thiếu âm có quan hệ biểu lư, nếu như Túc thiếu âm thận dương hư hàn thịnh, thường là hội chứng của thang Tứ nghịch, hoặc là hội chứng của Phụ tử thang, hoặc là hội chứng của thang Bạch thông, nên xét mức độ hàn tà lớn hay nhỏ. Nếu như chẳng những có hàn, mà c̣n có thuỷ đ́nh trệ, chứng trạng nổi bật là tiểu tiện bất lợi và tứ chi nặng nề, chính là đặc điểm của t́nh trạng có thuỷ tà, lúc này nên dùng phương pháp khứ hàn, phù dương, lợi thuỷ, phải dùng thang Chân vơ để điều trị bệnh, các phương khác là không thích hợp.
“Thiếu âm bệnh, lưỡng tam nhật bất dĩ, chí tứ ngũ nhật” (少阴病,两三日不已,至四五日), xuất hiện đau bụng, tự hạ lợi chính là chứng dương hư hàn. “Tiểu tiện bất lợi, tứ chi trầm trọng đông thống”, tiểu tiện bất lợi là Thiếu âm dương hư không thể khí hoá tân dịch. Quá tŕnh trao đổi chất của nước không thuận lợi biến thành nhân tố gây bệnh, sẽ xuất hiện tứ chi nặng nề và đau. Khi giảng về thang Phụ tử, chúng ta nói thang Phụ tử có thể trị chứng xương khớp đau nhức của Thiếu âm bệnh, toàn thân đau nhức, nhưng không có chứng trạng nặng nề, có thể thấy Thiếu âm dương hư có hàn, cũng có thể xuất hiện đau đớn v́ doanh vệ ngưng sáp không thông, hội chứng của thang Chân vơ không những là tứ chi bị đau, c̣n chủ yếu là tứ chi trầm trọng, trầm trọng ở phần trước, có sự khác biệt với chứng tứ chi đau nhức của thang Phụ tử.
Tại sao tứ chi nặng nề? V́ thuỷ khí tràn lan, tứ chi đau nhức, vai lưng đau đớn ê ẩm, những chứng này đều có thể xuất hiện. Chủ thuỷ là tạng thận. Thận khí, thận dương không thể chủ thuỷ, thuỷ tà mạnh mẽ, tràn lan ở tam tiêu biến thành tai hoạ, biến thành thuỷ bệnh, cho nên thuỷ hàn ở thượng tiêu gây khát, ở trung tiêu gây ẩu thổ, hoặc chứng hạ lợi ở hạ tiêu, cũng có thể xuất hiện chứng phù thũng toàn thân. “Chân vơ thang chủ chi” chỉ có thang Chân vơ là có khả năng hồi phục thận dương của Thiếu âm, lợi tiểu tiện, có thể khứ hàn và lợi thuỷ.
Thang Chân vơ ban đầu có tên là Huyền vơ thang, v́ kỵ huư chữ “Huyền” mà đổi thành chữ “Chân”. Trong phương có vị Phụ tử bổ thận dương, Sinh khương giải tán âm hàn. Phục linh và Thược dược đều có tác dụng lợi tiểu tiện. Bạch truật kiện tỳ để trị thuỷ. Bốn vị thuốc Phục linh, Bạch truật, Phụ tử, Sinh khương đều những vị thuốc táo liệt (khô và mănh liệt), gia thêm vị Bạch thược không những hỗ trợ sơ tiết để lợi thuỷ, c̣n có tác dụng dưỡng âm, khiến cho các vị thuốc táo nhiệt không đến nỗi gây tổn thương âm, trở thành một tấm gương hạn chế mẫu mực, đă trị liệu thuỷ tà, mà c̣n đề pḥng âm khí của cơ thể bị tổn thương. Phép gia giảm ở dưới sẽ nhắm vào chứng trạng hoặc chứng trạng ngẫu nhiên, “kỳ nhân hoặc khái, hoặc tiểu tiện lợi, hoặc hạ lợi”, nên sẽ không đi vào chi tiết.
317少阴病,下利清谷,里寒外热,手足厥逆,脉微欲绝,身反不恶寒,其人面赤色,或腹痛,或干呕,或咽痛,或利止,脉不出者,通脉四逆汤主之。 C331
317 Thiếu âm bệnh, hạ lợi thanh cốc, lư hàn ngoại nhiệt, thủ túc quyết nghịch, mạch vi dục tuyệt, thân phản bất ố hàn, kỳ nhân diện xích sắc, hoặc phúc thống, hoặc can ẩu, hoặc yết thống, hoặc lợi chỉ, mạch bất xuất giả, Thông mạch tứ nghịch thang chủ chi. C331
Phương thang Thông mạch tứ nghịch
Nhất mai sinh Phụ Thảo Khương tam Chiêu nạp vong dương thử chỉ nam
Ngoại nhiệt lư hàn diện xích quyết Mạch vi trung mạch pháp trung tham
Diện xích gia Thông kinh dụng cửu Phúc thống khứ thông chân hảo thủ
Yết thống khứ Thược tu gia cát Cát cánh nhất lạng tuần kinh tẩu
Mạch nhược bất xuất nhị lạng sâm Cát cánh đâu khai mạc xế trửu.
Cam thả 2 lạng, nướng Phụ tử 1 củ lớn, dùng sống, bỏ vỏ, chia làm 8 miếng, Can khương 3 lạng, người khoẻ mạnh dùng 4 lạng.
Ba vị trên, dùng 3 thăng nước, nấu c̣n 1 thăng 2 hợp, bỏ bă, phân 2 lần uống (sau ăn) (dùn Phụ tử sống nên đun trong nước sôi 1h30’ theo người dịch). Xuất hiện mạch là khỏi bệnh.
Sắc mặt đỏ, gia 9 cọng hành.
Đau bụng, khứ hành, gia Thược dược 2 lạng.
Ẩu thổ, gia Sinh khương 2 lạng.
Đau họng, khứ Thược dược, gia Cát cánh 1 lạng.
Nếu không thấy mạch th́ khứ Cát cánh gia Nhân sâm 2 lạng.
Điều văn này thảo luận về biến hoá bệnh lư nội hàn ngoại nhiệt của Thiếu âm bệnh. Lư hàn (lạnh ở trong) là bản chất, ngoại nhiệt (nóng ở ngoại) là giả tượng (hiện tượng giả). Các y gia sau này gọi loại bệnh lư này là “Đái dương”(đái là đội) hoặc “Cách dương” (格阳) . Lư hàn ngoại nhiệt là hội chứng âm thịnh cách trở, hội chứng âm thịnh đái dương.
“Thiếu âm bệnh, hạ lợi thanh cốc” (少阴病,下利清谷) thanh cốc là ngũ cốc chưa tiêu hoá, cho thấy dương hư mà hàn đă đến cực điểm. Âm thị lư hàn, âm dương phát sinh cách cự (âm cực thịnh đẩy dương ra ngoài), âm và dương không thuận tiếp (không liên tiếp hoà thuận với nhau), tay chân sẽ quyết nghịch (lạnh đến khuỷu, gối). Mạch vi dục tuyệt phản ảnh dương hư rất nặng. Ngoại nhiệt có biểu hiện là, “Thân phản bất ố hàn, kỳ nhân diện xích sắc” (身反不恶寒,其人面赤色) Ngược lại thân thể không ghét lạnh, bệnh nhân có sắc mặt đỏ. Đây chính là cách dương, v́ âm hàn rất mạnh, mà gốc của dương khí ở Thiếu âm, âm hàn liền cách cự (đẩy) dương khí nhỏ yếu, đây gọi là dương vô căn, lại gọi là hư dương ngoại phù (dương không có gốc, dương hư yếu, vượt ra ngoài). Cái nhiệt này chính là phản ảnh của dương vô căn. Dương khí ở hạ tiêu không ẩn tàng được, bị hàn tà cách cự (đẩy lên) đầu mặt, má có sắc đỏ, thân thể lại không ghét lạnh, “kỳ nhân diện sắc xích” (其人面色赤) người bệnh có sắc mặt đỏ, Trương Trọng Cảnh gọi đây là ngoại nhiệt.
Bệnh này rất nghiêm trọng, nếu như toàn thân xuất nhiều mồ hôi sẽ vong dương. Hoặc lại bị suyễn, đó là dương khí vượt ra ngoài. Hội chứng này cũng có hoặc thấy các chứng “hoặc phúc thống, hoặc can ẩu, hoặc yết thống, hoặc lợi chỉ mạch bất xuất”( 或腹痛,或干呕,或咽痛,或利止脉不出) hoặc đau bụng, hoặc nôn khan, hoặc đau họng, hoặc ngừng tiết tả mà mạch không xuất hiện.
Liên quan đến trị liệu, “Thông mạch tứ nghịch thang chủ chi” (通脉四逆汤主之) Thang Thông mạch tứ nghịch chủ trị bệnh này. Xét theo thành phần các vị thuốc, Thông mạch tứ nghịch thang chính là thang Tứ nghịch. Tại sao lại gọi là Thông mạch tứ nghịch? V́ lượng thuốc nhiều hơn thang Tứ nghịch. Vị Phụ tử của thang Tứ nghịch là 1 củ, lượng Phụ tử trong Thông mạch tứ nghịch là 1 củ lớn. Ban đầu lượng Phụ tử là 6 tiền, Phụ tử củ lớn là 1,2 lạng, là tăng gấp đôi. Lượng Can khương trong thang Tứ nghịch là 1,5 lạng, “Sinh phụ nhất mai lạng bán khương, chích Cam nhị lạng ngọc hàm phương”, lượng Can khương trong Thông mạch tứ nghịch là 3 lạng, người khoẻ mạnh là 4 lạng.
Do lượng Phụ tử và Can khương tăng nhiều nên tác dụng chiêu nạp vong dương, ôn thông huyết mạch của Thông mạch Tứ nghịch cũng lớn mạnh hơn. V́ thế gọi là thang Thông mạch tứ nghịch.
Một năm nọ, tôi đến Viện Y học Cổ truyền tỉnh Sơn Tây ở Thái Nguyên, Sơn Tây, có một vị giám đốc cũ tên là Lư Hán Khanh, người bạn cùng học với tôi về bệnh sốt thương hàn. Tôi dẫn các bạn cùng lớp đến thực tập trong viện, nên tôi hỏi anh ấy vài câu. Thí dụ như bây giờ c̣n nên giảng về Thiêu côn tán của {Thương hàn luận}nữa không? Thang Thông mạch tứ nghịch chỉ là thang Tứ nghịch tăng lượng thuốc nhiều hơn th́ có nên gọi là Thông mạch tứ nghịch hay không? Lư lăo nói thang Thông mạch tứ nghịch nên gia thêm vị Nhân sâm, không gia thêm Nhân sâm th́ không gọi là Thông mạch tứ nghịch, v́ ở đó đă nói rất rơ, “Lợi chỉ mạch bất xuất giả, khứ Cát cánh gia Nhân sâm nhị lạng” (利止脉不出者去桔梗加人参二两)Ngừng tiết tả mà mạch không xuất hiện khứ Cát cánh gia Nhân sâm 2 lạng, V́ “Lợi chỉ mạch bất xuất giả, vong huyết dă, gia Nhân sâm dĩ bổ chi, kim nhật mạch vi nhi lợi, vong huyết dă. Tứ nghịch gia Nhân sâm chủ chi.” (利止脉不出者,亡血也,加人参以补之,今日脉微而利,亡血也。四逆加人参汤主之。) Tiết tả ngừng mà mạch không xuất hiện là do vong huyết, gia Nhân sâm để bồi bổ, ngày nay mạch vi mà tả lợi, cũng là vong huyết, thang Tứ nghịch gia Nhân sâm chủ trị bệnh này. Ông nói không nên chỉ viết việc này vào mục ghi chú nhỏ, mà nên viết trực tiếp vào phương thang gốc, chính là thang Thông mạch tứ nghịch có vị Nhân sâm, ông ta nói trên lâm sàng rất nhiều trường hợp thang Tứ nghịch gia Nhân sâm, trị chứng dương hư vô mạch, hoặc xuất hiện chứng hạ lợi thanh cốc nguy hiểm, tay chân quyết nghịch, đều thu được công hiệu với thang Tứ nghịch gia Nhân sâm.
Đối với chứng cách dương, cần “gia thông cửu kính” là gia 9 cọng hành. Thông bạch (hành) có tác dụng thông dương phá âm, có thể tiêu giải thế lực của âm hàn, khiến dương khí khôi phục. V́ thế, một là gia Nhân sâm để thông mạch, hai là gia Thông bạch chính là để thông dương phá âm, hai điểm này rất quan trọng
Cần có ư thức chung trong điều trị lâm sàng. Người bệnh cao tuổi đột nhiên nóng bừng bừng, nên chia làm hai để xem, một số có thể là dương khí đă hồi phục là điều tốt, một số có thể là dương khí bị cách cự, dương khí sẽ bị hủy hoại (vong dương). Mọi người có sắc mặt hồng hào khi sắp chết, sau đó chuyển dần sang màu trắng và vàng. Đây chính là hồi quang phản chiếu (hồi dương).
Đời sau như Triệu Dưỡng Quỳ, Trương Cảnh Nhạc có phương pháp dẫn hoả quy nguyên, với Can khương, Phụ tử gia thêm Ngưu tất, Xa tiền, đều phát triển theo thang Thông mạch tứ nghịch của {Thương hàn luận}.
Nghịch trị và ṭng trị
Kỳ Bá viết: Hoặc dùng nghịch trị, hoặc dùng ṭng trị, hoặc chủ dược nghịch trị mà tá dược ṭng trị, hoặc chủ dược ṭng trị mà tá dược nghịch trị, sơ thông khí cơ, khiến cho điều hoà, đó là con đường trị liệu chính đáng.
Lương y Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-12 23:39:30
Từ điều 318 đến điều 325
318 少阴病,四逆,其人或咳,或悸,或小便不利,或腹中痛, 或泄利下重者,四逆散主之。 C332
318 Thiếu âm bệnh, tứ nghịch, kỳ nhân hoặc khái, hoặc quư, hoặc tiểu tiện bất lợi, hoặc phúc trung thống, hoặc tiết lợi hạ trọng, Tứ nghịch tán chủ chi. C332
Phương Tứ nghịch tán
Chỉ Cam Sài Thược các thập phân Nhiệt quyết năng hồi sát sở nhân
Bạch ẩm hoà phục phương thốn chuỷ Âm dương thuận tiếp dụng tư thần
Phép gia giảm
Khái gia Ngũ vị dữ Can khương Ngũ phân b́nh hành vi chính lộ
Hạ lợi chi bệnh dă như thử Tân ôn toan thu lưỡng tương cố
Quư giả Quế chi ngũ phân gia Bổ dưỡng tâm hư vi độc bộ
Tiểu tiện bất lợi gia Phục linh Ngũ phân thủ phương vi pháp độ
Phúc trung thống giả lư khí hàn Pháo Phụ nhất mai gia vật ngộ
Tiết lợi hạ trọng dương uất cầu Giới bạch tam thăng dụng thuỷ chử
Thuỷ dụng ngũ thăng thủ tam thăng Khứ Giới nạp tán thốn chuỷ số
Tái chử nhất thăng hữu bán thành Phân ôn lưỡng phục pháp khả ngộ
Cam thảo nướng, Chỉ thực đập vớ, ngâm nước sao khô Sài hồ Thược dược Bốn vị trên mỗi vị 10 phân, nghiền nát sàng lấy bột hoà nước cơm, uống bằng th́a, ngày uống 3 lần.
Nếu ho, gia Ngũ vị tử, Can khương đều 5 phân, đồng thời chủ về hạ lợi. Hồi hộp gia Quế chi 5 phân. Tiểu tiện bất lợi gia Phục linh 5 phân. Đau bụng gia Phụ tử 1 củ, nướng cho nứt vỡ ra. Tiết lợi hạ trọng, trước tiên dùng 5 thăng nước, nấu Giới bạch với 3 thăng nước, nấu c̣n 3 thăng, bỏ bă, lấy th́a thuốc tán, cho vào nước thuốc, nấu c̣n 1,5 thăng, phân hai lần uống ấm.
Bài viết này thảo luận về điều trị hội chứng Tứ nghịch tán của chứng quyết do dương uất gây ra.
Thiếu âm bệnh tứ nghịch dùng âm dương để phân biệt, không ngoài hàn quyết và nhiệt quyết, hàn quyết thường thuộc hư chứng, nhiệt quyết thường thuộc thực chứng. Phần trước (hàn quyết) do âm thịnh dương hư, như hội chứng Tứ nghịch thang, hội chứng Thông mạch tứ nghịch thang, hội chứng Bạch thông thang; Phần sau (nhiệt quyết) do dương khí quá mạnh, dương khí cản trở lấn át, thường kèm theo hội chứng dương nhiệt, như khát nước, tâm phiền, trướng đầy, đại tiện bất lợi, tiểu tiện vàng đỏ. Chứng hàn quyết th́ dùng Tứ nghịch bối, dùng thang Tứ nghịch, Phụ tử tễ. Nhiệt quyết có phép thanh, có phép hạ, phép thanh nên dùng thang Bạch hổ, phép hạ nên dùng thang Thừa khí.
Thiếu âm là căn bản của dương khí, tứ chi là gốc của chư dương, thông với thiên khí, và là một bộ phận phản ảnh dương khí trực tiếp và nhạy cảm nhất. Dương khí của Thiếu âm cần phải ra được tứ chi, đây chính là đặc điểm sinh lư của nó, mà phản ảnh bệnh lư cũng ở tứ chi.
“Thiếu âm bệnh, tứ nghịch” (少阴病,四逆) của điều văn này, cũng chính là tứ chi quyết nghịch. Loại tứ chi quyết nghịch này không có các đặc điểm của hàn chứng như :Hạ lợi thanh cốc, mạch vi dục tuyệt (đi tả ra ngũ cốc chưa tiêu hoá, mạch nhỏ như không c̣n mạch), cũng không có các đặc điểm của nhiệt chứng như: Phiền khát (rất khát), đại tiện bí kết, đau bụng đầy bụng, đă không thể ôn hàn (cho hàn quyết), lại không thể hạ nhiệt (cho nhiệt quyết). Như vậy đây là loại quyết ǵ?
Dương khí của Thiếu âm, trong những t́nh huống dưới đây, sẽ dẫn đến không có khả năng ra đến tứ chi, nó không quá nhiệt, cũng không lạnh do dương hư, mà nó thuộc về những ủng trệ lấn át, ức chế của khí huyết dẫn đến dương khí không thể ra đến tứ chi để xuất hiện tứ chi quyết nghịch. V́ thế, gọi là hàn quyết th́ không được, v́ dương khí không hư tổn; Cũng không thể gọi là nhiệt quyết, v́ không có hiện tượng nhiệt, tức là có một chút nhiệt tượng, chỉ bất quá là do dương khí uất át mà không thể ra đến tứ chi. Đối với loại tứ chi quyết nghịch này, không thể dùng thuốc ấm nóng (ôn dược) của thang Tứ nghịch, cũng không thể sử dụng thuốc mát (lương dược) hoặc thuốc tả hạ của thang Bạch hổ hoặc thang Thừa khí. Vậy phải làm như thế nào? Chỉ có thể sơ đạt dương khí, khiến cho dương khí ra được tứ chi, nên dùng “Tứ nghịch tán chủ chi”(Tứ nghịch tán chủ trị bệnh này).
Thành phần Tứ nghịch tán gồm: Sài hồ, Thược dược, Cam thảo, Chỉ thực, đều không phải là những vị thuốc nhập vào kinh Thiếu âm, nói chúng là thuốc nhập vào kinh can th́ rất thích hợp. Tại sao lại có thể dùng một số vị thuốc sơ tiết điều chỉnh Can Vị lại có thể trị chứng tứ chi quyết nghịch do dương khí của Thiếu âm không đến được tứ chi?
Cũng có những tranh luận liên quan đến phương thuốc này, hiện nay một số chương tŕnh giảng dạy xếp Tứ nghịch tán vào thiên Quyết âm, v́ trong thiên Quyết âm cũng có tứ chi quyết nghịch, mà Tứ nghịch tán lại có tác dụng sơ (tiết) Can, Quyết âm chủ về Can. Mà việc để Tứ nghịch tán tại Thiếu âm cũng có thể hiểu được, cổ nhân cho rằng can và thận cùng một thể, Ất và Quư cùng một nguồn, Can và Thận một tạng th́ tàng tinh (chứa tinh), một tạng th́ tàng huyết (chứa huyết), đều thuộc về tướng hoả, v́ thế sơ thông can khí của Quyết âm, cũng có nhiều khả năng sơ thông dương khí của Thiếu âm, cả hai có liên hệ bên trong với nhau.
Làm thế nào để cấu thành hội chứng Tứ nghịch tán? Căn cứ theo quan sát lâm sàng, có những phương diện sau. Nhân tố thứ nhất là uống thuốc mát lạnh (hàn lương dược), như bỗng chốc đem hàn lănh cấp cho dương khí, dương khí của Thiếu âm chịu sự chèn ép, nó và hàn dược gây tổn thương dương khí là khác biệt. Trong bệnh ngoại cảm nhiệt rất dễ xuất hiện vấn đề như vậy. Khi phát sốt, uống thuốc thanh giải, dùng một số thuốc hàn lương, sau khi uống bỗng chốc tay chân quyết nghịch. Nhân tố thứ hai thường gặp ở tạp bệnh, thường do tức giận gây ra. Điều này cũng có quan hệ với Can. Hiện tại có phương tễ gọi là Sài hồ sơ can ẩm, với Tứ nghịch tán được dùng làm cơ sở. Sau khi tinh thần chịu sự kích thích, tay chân phát bối, người Bắc kinh gọi là Thủ cước bối, cái ǵ gọi là bối, bối là nghịch, là thủ cước quyết lănh. Làm thế nào để trị? Lúc này bệnh có đặc điểm là khí không đến được tứ chi, tâm và lồng ngực co thắt nghẹt tắc. Khí nghẹt tắc ở ngực, tâm và ngực khó chịu, người bệnh có một chút khó khăn khi phát âm, môi run rẩy. Có một lần , người viết thấy một bệnh nhân như vậy, một lăo thái thái, người làm con gái bà ấy giận dữ bỗng nhiên quay về, bà ta không nói nên lời, tay chân lạnh ngắt, mắt trợn tṛn và môi run run. Tứ nghịch tán chữa trị những bệnh này rất hữu hiệu. Trên lâm sàng căn cứ theo cơ chế này, phàm là khi dương khí bị cản trở uất lại mà dẫn đến tứ chi quyết nghịch th́ đều có thể dùng Tứ nghịch tán.
Người viết kể về một trường hợp bệnh có ấn tượng khá sâu sắc. Ở quận Tiềm Giang Hồ Bắc, có một bệnh nhân nữ họ Toàn , bị chứng thủ túc quyết nghịch. Lúc mới bệnh uống rất nhiều các loại thuốc có vị thuốc Phụ tử, đều không hiệu quả. Sau đó khi người viết khám cho bệnh nhân thấy thân thể, tuổi tác, ánh mắt, đều không có dấu hiệu của hư chứng, liền cho bệnh nhân uống nguyên phương Tứ nghịch tán. Người bệnh sau khi uống tay chân trở lại ấm áp b́nh thường. Sau đó không củng cố lại tái phát bệnh. Cảm giác lạnh lẽo của thủ túc quyết nghịch này, các bạn có được trải nghiệm như vậy, chân tay thực sự mát, tựa như đặt tay vào khối băng. Ngoài ra, khi thủ túc quyết nghịch, tay liền xuất hăn, tay xuất hăn càng nhiều th́ thủ túc quyết lănh càng nặng. Điểm này không có trong bài văn của Trương Trọng Cảnh. Lần khám thứ hai người viết dùng Tứ nghịch tán gia thêm hai vị Quế chi và Mẫu lệ, vị Quế chi phối với Thược dược để điều hoà doanh vệ, Mẫu lệ tiềm dương liễm mồ hôi, sau khi uống thu được hiệu quả tốt.
Không củng cố, lại tái phát. Vương Băng nói “Ích hoả chi nguyên dĩ tiêu âm ế, tráng thuỷ chi chủ dĩ trị dương quang” (益火之源以消阴翳,壮水之主以治阳光). Tay chân xuất mồ hôi là biểu hiện của âm bị tổn thương, tiết âm (âm tiết ra), v́ thế nếu chỉ lư khí thông dương, không gia thêm một số thuốc bổ thuỷ (âm) để chế ngự dương quang (dương) th́ chưa hoàn thiện. Sau đó, người viết bắt đầu cho bệnh nhân uống Lục vị địa hoàng thang và Tứ nghịch tán luân phiên thay đổi, và bệnh nhân này được khỏi bệnh. Điều này cho thấy Tứ nghịch tán chứng tuy không phải là nhiệt quyết, cũng không phải là hàn quyết, nhưng bệnh có khuynh hướng về phương diện nhiệt quyết. V́ không phải là dương khí hư mà là dương khí bế tắc, có câu “khí hữu dư tiện thị hoả” (气有余便是火) khí dư thừa chính là hoả, c̣n hoá nhiệt gây tổn thương âm, v́ thế khi điều trị chứng tứ chi quyết nghịch, tại thời điểm cần thiết nên gia thêm vị thuốc dưỡng âm. Đây là điểm đầu tiên phải chú ư khi sử dụng Tứ nghịch tán.
Điểm thứ hai, là vấn đề của phản ứng sau khi uống Tứ nghịch tán. Có người uống thang thuốc thứ nhất có cảm giác rất khó chịu, đến thang thứ hai th́ dần dần dễ chịu hơn, đó chính là phản ứng của Tứ nghịch tán. Người viết trên lâm sàng quan sát bệnh nhân họ Toàn sau khi uống Tứ nghịch tán, cảm thấy ở dưới rốn, đan điền và huyệt Khí hải chấn động nhẹ, anh ta nói chấn động này làm cho toàn thân có cảm giác rất thoải mái, cũng trong thời gian này, tay chân từ lạnh chuyển sang ấm áp. Người viết có cảm nhận nơi chấn động không chỉ là huyệt Khí hải mà c̣n cả huyệt Quan nguyên. Đan điền, Khí hải , Quan nguyên đều thuộc Thiếu âm. Dựa theo phản ứng này khi thẩm tra lại, chúng ta thấy rơ ư nghĩa nổi bật của lư do đặt Tứ nghịch tán ở thiên Thiếu âm bệnh của Trương Trọng Cảnh.
Căn cứ theo cơ chế này, với chứng liệt dương ở nam giới, chứng lănh cảm của nữ do khí uất gây ra th́ đều có thể dùng Tứ nghịch tán điều trị và thu được hiệu quả rất tốt.
319 少阴病,下利六七日,咳而呕渴,心烦,不得眠者,猪苓汤主之。 C333
319 Thiếu âm bệnh, hạ lợi lục thất nhật, khái nhi ẩu khát, tâm phiền. bất đắc miên giả, Trư linh thang chủ chi. C333
Điều văn này thảo luận về hội chứng và phương pháp điều trị chứng âm hư có nhiệt, thuỷ và nhiệt hỗ tương kết hợp của Thiếu âm
Khi học bài này nên so sánh với thang Chân vơ. Tại sao? V́ Thiếu âm là nói về âm dương, dương hư sẽ có hàn, có thuỷ đ́nh trệ chính là chứng chủ trị của thang Chân vơ. Nếu như Thiếu âm bệnh âm hư có nhiệt xuất hiện tiểu tiện bất lợi, xuất hiện thuỷ chứng, đây chính là chứng chủ trị của thang Trư linh. Một là dương hư, một là âm hư, một là hàn, một là nhiệt, nhưng đều có vấn đề đ́nh thuỷ. “Thiếu âm bệnh, hạ lợi lục thất nhật, khái nhi ẩu khát, tâm phiền bất đắc miên giả” (少阴病,下利六七日,咳而呕渴,心烦不得眠者) V́ Thiếu âm âm hư hữu nhiệt, đồng thời c̣n có thuỷ ẩm, chứng thuỷ ẩm này sẽ tuỳ theo phát bệnh ở thượng, trung, hạ của tam tiêu. Nhiệt ở thượng tiêu th́ tâm phiền muộn mà ho, ở trung tiêu th́ ẩu thổ, ở hạ tiêu th́ hạ lợi.
V́ thế, bệnh tà thuỷ nhiệt này sẽ tuỳ theo biến động thượng, trung, hạ của tam tiêu mà không hạn chế. Chứng trạng chủ trị của thang Trư linh phải có là chứng tiểu tiện bất lợi, tại sao Trương Trọng Cảnh không nói đến tiểu tiện bất lợi? V́ trong bài C236: “Nhược mạch phù phát nhiệt, khát dục ẩm thuỷ, tiểu tiện bất lợi giả, Trư linh thang chủ chi.” Là đă nói về điều đó.
Ngoài ra, mạch của nó là huyền tế, chất lưỡi hồng và rêu lưỡi luôn ướt và trơn. Thang Trư linh “Trạch Giao Trư Phục Hoạt tương liên. Khái ẩu tâm phiền khát bất miên, chử hảo khứ tra Giao hậu nhập, dục âm lợi thuỷ pháp kiêm toàn.” (泽胶猪茯滑相连。咳呕心烦渴不眠,煮好去渣胶后入,育阴利水法兼全。) Thành phần thang Trư linh gồm 5 vị Trạch tả, A giao, Trư linh, Phục linh, Hoạt thạch, sắc 4 vị trước, sắc xong bỏ bă rồi cho vị A giao vào sau) Đây gọi là phép dục âm lợi thuỷ. Thang Chân vơ là phép khứ hàn trấn thuỷ. Hai phương thang này đối lập nhau. Thiếu âm bệnh giảng về âm dương thuỷ hoả, nguyên lư của biện chứng ở âm dương thuỷ hoả. Nó có tâm thận bất giao, âm hư hoả vượng là những chứng chủ trị của thang Hoàng liên A giao, cũng có dương hư thuỷ đ́nh, hàn tà nội thịnh là những chứng chủ trị của thang Trấn vơ, cũng có âm hư hữu nhiệt, thuỷ khí đ́nh lưu là những chứng chủ trị của thang Trư linh.
320 少阴病,得之二三日,口燥咽干者,急下之,宜大承气汤。C334
321 少阴病,自利清水,色纯青,心下必痛,口干燥者,急下之,宜大承气汤。 C335
322少阴病,六七日,腹胀不大便者,急下之,宜大承气汤。 C336
320 Thiếu âm bệnh, đắc chi nhị tam nhật, khẩu táo yết can giả, cấp hạ chi, nghi Đại thừa khí thang. C334
321 Thiếu âm bệnh, tự lợi thanh thuỷ, sắc thuần thanh, tâm hạ tất thống, khẩu can táo giả, cấp hạ chi, nghi Đại thừa khí thang. C335
322 Thiếu âm bệnh, lục thất nhật, phúc trướng bất đại tiện giả, cấp hạ chi, nghi Đại thừa khí thang. C336
Ba bài này giới thiệu ba hội chứng hạ khẩn cấp của Thiếu âm bệnh.
Ba hội chứng hạ khẩn cấp của Thiếu âm bệnh trên thực tế đều là Dương minh bệnh. Dương minh bệnh chỉ dùng phép tả hạ khẩn cấp của thang Đại thừa khí, v́ sao lại đề cập đến Thiếu âm bệnh? Đây là một vấn đề gây tranh căi.
Có nhà y học cho rằng ba hội chứng hạ khẩn cấp của Thiếu âm chính là bệnh của tạng lưu lại ở phủ, nghĩa là tà nhiệt ở Thiếu âm bệnh ảnh hưởng đến Dương minh, v́ thế bệnh này gọi là Thiếu âm bệnh, nhưng v́ nhiệt tà bế uất ở Dương minh, điều trị phải dùng thang Đại thừa khí, đây là một loại quan điểm.
Cá nhân người viết cho rằng, {Thương hàn luận} là một bộ sách, tuy được phân thành lục kinh, nhưng trước sau chúng đều nối liền quán thông với nhau, không nên cô lập để quan sát, cũng không nên cho rằng bệnh của kinh này chỉ là bệnh của kinh này thôi. Tại sao bệnh của kinh Thiếu dương lại có vấn đề của kinh Thái dương? Hội chứng Tứ nghịch tán c̣n có một số vấn đề của kinh Quyết âm? V́ chúng đều có liên hệ hỗ tương, có liên hệ nội tại, v́ tạng phủ kinh lạc, biểu lư trong ngoài, âm dương của cơ thể đều có ảnh hưởng hỗ tương và hỗ tương liên hệ.
Ba chứng tả hạ khẩn cấp của thiên Dương minh, chúng ta gọi đó là phương pháp cấp hạ tồn âm, tồn âm là bảo tồn âm dịch của Thiếu âm, đó là nói theo góc độ bệnh tà táo nhiệt của kinh Dương minh.
Ba chứng tả hạ khẩn cấp của Thiếu âm bệnh, trên thực tế cũng có liên quan với kinh Dương minh, tại sao lại gọi là Thiếu âm? Đó chính là nói từ góc độ của chính khí. Thiếu âm bệnh thuộc về tạng, không thuộc về phủ, loại táo nhiệt này đă gây tổn thương cho âm của Thiếu âm, Trương Trọng Cảnh gọi đây là bệnh của Thiếu âm. Cấp hạ tồn âm của Dương minh bệnh, ǵn giữ âm tinh của Thiếu âm, là nói từ góc độ của Dương minh; Hội chứng Thiếu âm tam cấp hạ chính là bảo tồn âm tân của thiếu âm, bảo tồn chính khí, tạng âm, chính là nói theo góc độ của Thiếu âm.
V́ thế, hội chứng tam cấp hạ của Dương minh và hội chứng tam cấp hạ của Thiếu âm nên kết hợp thông suốt với nhau, kết hợp hàm tiếp với nhau ( Hàm tiếp là liên kết đầu cuối hoặc kết hợp hai vật thể biệt lập).
Bài C334 “Thiếu âm bệnh, đắc chi nhị tam nhật” (少阴病,得之二三日), người này đă bị táo nhiệt, v́ chứng táo nhiệt (khô nóng) nên xuất hiện “khẩu táo yết can” (口燥咽干者), ư tại ngôn ngoại (hàm ư), người này bụng trướng, bị táo bón. Bụng trướng, táo bón là Dương minh bệnh, lại xuất hiện khẩu táo yết can (miệng họng khô), đó là chứng thuộc về âm của Thiếu âm bị tổn thương. Mạch của kinh Thiếu âm đi vào họng, “Yết hầu can táo bất khả phát hăn”, mà nên nhanh chóng tả hạ, cần nhanh chóng hạ táo nhiệt của Dương minh, để bảo tồn âm dịch của Thiếu âm. “Cấp hạ chi, dữ Đại thừa khí thang”.
Bài C335 “Thiếu âm bệnh, tự lợi thanh thuỷ, sắc thuần thanh, tâm hạ tất thống, khẩu can táo giả, cấp hạ chi, nghi Đại thừa khí thang.” (少阴病,自利清水,色纯青,心下必痛,口干燥者,急下之,宜大承气汤。)Dương minh bệnh táo nhiệt bức bách tân dịch xuất ra bên ngoài có 3 h́nh thức. Một loại h́nh thức là xuất hăn (đổ mồ hôi), Dương minh bệnh liên quan đến phép tăng mồ hôi, dương minh bệnh chẳng phải là đều xuất hăn? Một là tay chân mồ hôi như chảy ra, mồ hôi xuất ra sẽ tổn thương tân dịch. Hai là xuất hăn ở nách, có Dương minh bệnh xuất hăn ở nách. Ba là xuất mồ hôi toàn thân. Xuất mồ hôi ở tay chân cũng được, ở nách cũng được, toàn thân cũng được, đây đều được gọi là do dương minh táo nhiệt bức bách tân dịch thấm ra ngoài. Loại h́nh thức thứ hai là Dương minh táo nhiệt (khô nóng), tiểu tiện nhiều lần.
Đại tiện phân càng khô, tiểu tiện càng nhiều, đây gọi là tân dịch thiên về thấm, c̣n gọi là thấm sang bên (bàng thấm). Loại h́nh thức thứ ba là Dương minh táo nhiệt, có phân khô, nhưng đại tiện lỏng, cuối cùng đi đại tiện ra nước. “Tự lợi thanh thuỷ, sắc thuần thanh” (自利清水,色纯青), đại tiện ra nước có màu xanh, đây gọi là tân dịch thấm xuống dưới, lại gọi là nhiệt kết ở bên cạnh. Tân dịch thấm ra ngoài, tân dịch thiên thấm, tân dịch thấm xuống dưới, đều tổn thương tân dịch, tổn thương âm của Thiếu âm. “Tâm hạ tất thống” (心下必痛), là đau dạ dày, đồng thời “Khẩu can táo giả” là trong miệng bị khô.
Điều văn C336 “Thiếu âm bệnh, lục thất nhật, phúc trướng bất đại tiện giả, cấp hạ chi, nghi Đại thừa khí thang.” (少阴病,六七日,腹胀不大便者,急下之,宜大承气汤。) Thiếu âm bệnh 6,7 ngày xuất hiện chứng trạng bụng trướng đầy của Dương minh, không đại tiện. Đây gọi là thổ táo, thổ táo sẽ chiếm đoạt âm thuỷ của hạ tiêu. Bụng trướng, không đại tiện là chứng dương minh vị thực, v́ thế không nhanh chóng tả hạ th́ không thể.
Ba hội chứng cần tả hạ khẩn cấp của Thiếu âm, kỳ thực hạ đều là Dương minh, hạ Dương minh để bảo tồn Thiếu âm, chỉ là góc độ đề cập khác nhau. Dương minh bệnh là đề cập theo hội chứng của phủ, hội chứng của phủ tới tạng, từ Dương minh đến Thiếu âm; Ba bài này là theo Thiếu âm đến Dương minh. Chúng đều liên quan đến nhau.
323少阴病,脉沉者,急温之,宜四逆汤。 C337
323 Thiếu âm bệnh, mạch trầm giả, cấp ôn chi, nghi Tứ nghịch thang, C337
Điều văn này thảo luận về nguyên tắc nhanh chóng sử dụng ôn pháp để điều trị Thiếu âm bệnh.
Thiếu âm bệnh vốn đă là hàn chứng, mạch trầm lại chính là mạch của chứng dương hư. Thời điểm này không nên chờ đợi và xem xét, chẳng phải là c̣n hạ lợi thanh cốc (hạ lợi ra ngũ cốc chưa tiêu hoá), chẳng phải là tứ chi quyết lănh, không cần suy nghĩ ǵ nhiều, Thiếu âm xuất hiện chứng vong dương rất nguy hiểm, phải khẩn cấp dùng ôn pháp, nhanh chóng sử dụng thang Tứ nghịch. Tại sao vậy? Đây chính là trị trung hữu pḥng (trong trị bệnh có pḥng bệnh). Đề pḥng vong dương, đề pḥng trước khi xảy ra, cần có thái độ tích cực, dùng thang Tứ nghịch để nhanh chóng ôn dưỡng bệnh nhân. Bài viết này cũng chính là tổng kết của nội dung phía trước, phàm khi điều trị hàn chứng của Thiếu âm bệnh cần phải nhanh chóng dùng ôn dược.
324 少阴病,饮食入口则吐,心中温温欲吐,复不能吐,始得之,手足寒,脉弦迟者,此胸中实,不可下也,当吐之。若膈上有寒饮,干呕者,不可吐也,急温之,宜四逆汤。 C338
324 Thiếu âm bệnh, ẩm thực nhập khẩu tắc thổ, tâm trung ôn ôn dục thổ, phục bất năng thổ, thuỷ đắc chi, thủ túc hàn, mạch huyền tŕ giả, thử hung trung thực, bất khả hạ dă, đương thổ chi. Nhược cách thượng hữu hàn ẩm, can ẩu giả, bất khả thổ dă, cấp ôn chi, nghi tứ nghịch thang. C338
Điều văn này thảo luận về chứng trạng và trị liệu của chứng dương uất đàm thực và chứng dương hư hàn ẩm.
Điều văn này là biện chứng so sánh, một là hư chứng một là thực chứng. “Thiếu âm bệnh, ẩm thực nhập khẩu tắc thổ, tâm trung ôn ôn dục thổ, phục bất năng thổ, thuỷ đắc chi, thủ túc hàn, mạch huyền tŕ giả, thử hung trung thực, bất khả hạ dă” (少阴病,饮食入口则吐,心中温温欲吐,复不能吐,始得之,手足寒,脉弦迟者,此胸中实,不可下也) Bệnh ở kinh Thiếu âm, ẩm thực vào miệng là thổ, trong ḷng nôn nao muốn thổ ra, lại không thổ được, khi mới bệnh, tay chân lạnh, mạch huyền tŕ, là thực chứng trong ngực, không thể công hạ, đây là thực chứng, là trong ngực có thực hàn, “Đương thổ chi” (当吐之)nên dùng phép thổ. “Nhược cách thượng hữu hàn ẩm, can ẩu giả, bất khả thổ dă, cấp ôn chi, nghi Tứ nghịch thang.” (若膈上有寒饮,干呕者,不可吐也,急温之,宜四逆汤) Nếu trên hoành cách có hàn ẩm, nôn khan, không thể thổ, nhanh chóng dùng thuốc ấm, nên uống thang Tứ nghịch. Đây là hư chứng, là dương hư hữu hàn ẩm, cần nhanh chóng sử dụng ôn pháp.
Ẩm thực vào miệng liền thổ ra, dạ dày không dung nạp. Sau khi thổ ra hết, “tâm trung ôn ôn” (心中温温), vừa ấm vừa nôn nao tức là cảm thấy khó chịu trong ḷng, muốn nôn “phục bất năng thổ”, lại không thể nôn th́ trong ḷng nôn nao, khó chịu, bứt rứt. Đây là một hội chứng. Hội chứng thứ hai, bệnh vừa bắt đầu, “thuỷ đắc chi, thủ túc hàn”, tay chân mát lạnh, mạch huyền tŕ có lực. Đây chính là dương hư c̣n là hàn thịnh?
Trương Trọng Cảnh viết: “Thử hung trung thực, bất khả hạ dă” Đây là thực chứng trong lồng ngực, thực là tà khí thực, cũng có thể có đàm ẩm. V́ là mạch huyền mà mạch huyền chủ về chứng ẩm, có tính chất đề kháng kịch liệt đàm ẩm, v́ thế ẩu thổ, đàm ẩm gây bế tắc dương khí ở đản trung (phần ngực giữa hai vú), v́ thế chân tay quyết lănh.
“Bất khả hạ dă” , bệnh ở thượng tiêu, nên dùng thổ pháp, không nên tả hạ, “đương thổ chi”, dùng Qua đế tán cho bệnh nhân thổ, để đàm ẩm ở trên hoành cách mô thổ ra ngoài là tốt nhất. Đây là thực chứng, loại tay chân lạnh này không thuộc dương hư, mà là dương khí bị bế tắc do đàm ẩm, không thể thông đạt đến tứ chi, v́ thế nên thấy mạch huyền tŕ mà có lực.
“Nhược cách thượng hữu hàn ẩm”, “cách thượng”, một số nhà chú thích cho rằng chính là “cách hạ”.
Nếu quả là do dương khí hư ở ngực, không thể chưng hoá (hấp) mà h́nh thành hư tính đàm ẩm, “can ẩu dă”, xuất hiện nôn khan, cũng có khả năng tứ chi quyết lănh, nhưng mạch th́ đều là mạch trầm vi, “bất khả thổ dă” và phần trên đă viết về về điều này “tâm trung ôn ôn dục thổ, phục bất năng thổ, thuỷ đắc chi, thủ túc hàn” có phân biệt hư thực. Cái đó thuộc thực chứng, cái này thuộc hư chứng. V́ thế “bất khả thổ dă, cấp ôn chi”, nên dùng thang Tứ nghịch.
Điều văn này cho thấy, chứng dương hư trong ngực có các chứng như: Tay chân quyết lănh, nôn khan, dương khí không thể chưng hoá mà xuất hiện hàn ẩm của dương hư, đây chính là hư chứng, khác với thực chứng trong lồng ngực. Thực chứng trong ngực là dương khí không bị hư tổn mà là bị bế uất, v́ thế nên một bên th́ dùng thổ pháp và một bên dùng ôn pháp.
325 少阴病,下利,脉微涩,呕而汗出,必数更衣;反少者,当温其上灸之。 C339
325 Thiếu âm bệnh, hạ lợi, mạch vi sáp, ẩu nhi hăn xuất, tất số canh y; Phản thiểu giả, đương ôn kỳ thượng cứu chi. C339
Bài này tŕnh bày chứng tạng và trị liệu chứng Thiếu âm hư hàn hạ lợi và chứng dương hư khí hăm.
“Thiếu âm bệnh, hạ lợi, mạch kiến vi sáp” (少阴病,下利,脉微涩), mạch vi là biểu hiện của dương khí hư, mạch sáp là biểu hiện của tân dịch bị hư tổn. “Ẩu nhi hăn xuất”, thuộc về âm tà nghịch lên. Xuất mồ hôi là ư chỉ về dương hư.
“Tất số canh y” (必数更衣)thay quần áo là nói về đại tiện, chính là hạ lợi liên tục, số lần đại tiện rất nhiều, nhưng “phản thiểu giả” (ít lần đại tiện), đây là chứng hạ lợi do dương hư, dương khí không thể thăng lên, hàn tà thiên thịnh mà hạ lợi, thời gian tả hạ dài, nhưng không có vật để tả hạ, v́ thế mà đại tiện lại ít. “Đương ôn kỳ thượng, cứu chi” (当温其上,灸之),”ôn kỳ thượng” là ôn thận và vị.
Căn cứ theo ư kiến của các nhà chú giải, nên dùng thang Phụ tử, thang Phụ tử có vị Phụ tử để bổ thận dương, lại có Nhân sâm để bổ khí của tỳ vị, bổ tỳ và thận song song. Ngoài ra, nên “Cứu chi” V́ dương khí bị hăm xuống, nên cứu huyệt Bách hội, khiến cho dương khí thăng lên, không để nó hạ xuống.
Như vậy hạ lợi có thể dừng lại. V́ thế đối với việc trị liệu của chứng này nên uống thang Phụ tử để song bổ tỳ thận, trên một phương diện khác cần phải cứu huyệt Bách hội hoặc cứu huyệt Quan nguyên để trừ khứ hàn tà.
Tiểu kết
Thiên Thiếu âm bệnh gồm 45 bài, phân thành hai bộ phận. 20 bài đầu tiên thuộc về bộ phận tổng luận của Thiếu âm bệnh, luận về hội chứng đề cương, về hàn thịnh vong dương của Thiếu âm bệnh, trị liệu và cấm kỵ của Thiếu âm bệnh, từ sinh chứng (chứng sống) của Thiếu âm bệnh dương phục đến tử chứng (chứng chết) của Thiếu âm bệnh vong dương.
25 bài sau thuộc về phần chuyên khảo về Thiếu âm bệnh, dưới mỗi bài đều có một số trị pháp, dùng thuốc hoặc châm cứu. Tóm lại, có thể phân thành hai loại, một loại là dương hư hàn chứng và một loại là âm hư nhiệt chứng.
{Thương hàn luận} bao gồm vấn đề ngoại cảm phong hàn, hàn tà gây tổn thương dương khí, v́ thế tuy cũng có nhiệt chứng, nhưng trọng điểm ở hàn hoá chứng. Có khá nhiều phương pháp trị liệu dương hư hàn chứng, như thang Phụ tử, thang Bạch thông, thang Bạch thông gia Trư Đảm trấp, thang Chân vơ, thang Tứ nghịch, thang Thông mạch Tứ nghịch, dùng một số phương thang như vậy để hiện rơ trọng điểm của Thiếu âm bệnh là dương hư, chúng ta cần nắm vững những trọng điểm này. Tóm lại, đây đều là những phương thang có vị Phụ tử, là tính chất chung của các thang tễ, cũng có cá tính. Không nên coi thường các thang tễ này, các thế hệ sau này có các phái như phái bổ hoả, phái ôn bổ, đều đă phát triển trên cơ sở này.
Hội chứng nhiệt hoá của Thiếu âm bệnh, đều chính là xuất hiện dưới tiền đề âm hư hữu nhiệt.
Có hai phương đại biểu, một là Hội chứng Hoàng liên A giao thang của âm hư hữu hoả; Hai là Hội chứngTrư linh thang của âm hư hữu thuỷ. Điều này hơi khác biệt so với những ǵ Vương Băng đă nói “Tráng thuỷ chi chủ dĩ chế dương quang”, nó là thực hoả, quân hoả. Quân hoả có thể phát tiết, tướng hoả th́ không thể phát tiết, v́ thế dùng Hoàng liên, Hoàng cầm để thanh nhiệt. Thuỷ của âm hư hữu thuỷ chính là thực tà, v́ thế dùng Trư linh, Phục linh, Trạch tả để lợi tiểu tiện. Có hoả cũng được, có thuỷ cũng được, đều có một vấn đề là âm phận của Thiếu âm không đầy đủ, v́ thế hai phương thang này đều có vị A giao. A giao là một vị thuốc nồng hậu, có vị ngọt, bổ tinh tư âm. “Âm bất túc giả bổ chi dĩ vị”, (阴不足者补之以味) âm không đủ th́ bổ bằng vị, đây chính là {Thương hàn luận} trị liệu âm hư hữu hoả, âm hư hữu thuỷ, để hiển thị hai đại phương diện thuỷ hoả của Thiếu âm.
Ngoại trừ hàn hoá chứng và nhiệt hoá chứng, c̣n có 4 phương thang điều trị chứng đau cổ họng, bao gồm thang Cam thảo, thang Cát cánh, thang Trư phu và thang Khổ tửu. Bốn phương thang này trên thực tế là điểm kinh chứng của Thiếu âm bệnh và việc có bệnh tà trong kinh là không thể tách rời, có thể coi đây là hội chứng chỉ có ở Thiếu âm bệnh, chỉ có Thiếu âm bệnh mới có vấn đề của cổ họng.
Sau cùng là Thiếu âm bệnh có ba chứng tả hạ khẩn cấp. Ba hội chứng tả hạ khẩn cấp này nên kết hợp xuyên suốt với ba hội chứng tả hạ khẩn cấp của Dương minh bệnh, kết hợp để trải nghiệm. Ba hội chứng tả hạ khẩn cấp của Dương minh là xuất phát từ tà khí, xuất phát từ thực chứng thương âm; Ba hội chứng tả hạ khẩn cấp của của Thiếu âm bệnh là xuất phát từ chính khí, xuất phát từ tổn thương của âm. V́ thế, một trường hợp là từ phủ đến tạng, và một trường hợp là từ tạng đến phủ, chúng có liên hệ trước sau với nhau.
Các phương chứng liên quan của Thiếu âm bệnh không ngoài 4 phương diện này. Để tóm tắt 45 bài này, bệnh đến kinh Thiếu âm là đă nguy hiểm. Thiếu âm là căn bản của tiên thiên, là gốc của âm dương, v́ thế, bệnh này có sống có chết, được dương khí th́ sống, mất dương khí th́ chết. Nó có vấn đề tiên lượng, không như bệnh ở kinh Thái âm.
Biện mạch chứng và trị liệu bệnh ở kinh Quyết âm
[Khái thuyết]
Bệnh ở kinh quyết âm thường là bệnh kế phát, ít khi trực trúng, đại đa số là do bệnh ở kinh Thiếu âm truyền vào, hoặc do dùng nhầm lương dược (thuốc mát) ngộ trị truyền vào. Người xưa nói “Lưỡng âm giao tận, danh viết Quyết âm” (两阴交尽,名曰厥阴). Lưỡng âm (Thái âm và Thiếu âm) giao nhau đến cực điểm, cuối cùng gọi là Quyết âm. “Quyết” là cực độ của âm. Xét theo sự phát triển của bệnh, âm thịnh của nó mạnh hơn Thiếu âm, v́ thế gọi là Quyết âm.
Quyết âm không chỉ là một giai đoạn phát triển của bệnh, mà c̣n là sự khởi đầu của một sự thay đổi. Người xưa nói: “Âm chi cực dă, dương chi thuỷ dă.” (阴之极也,阳之始也。) Khi bệnh đă đến đỉnh điểm, sức mạnh tổng thể tà khí của âm hàn đă đến một cực hạn nhất định, và đến đây nó bắt đầu suy giảm.
Thịnh cực độ tất suy, đây chính là một quy luật biện chứng khách quan. Lúc này dương khí suy phát triển theo hướng khôi phục, chính là dương từ suy mà phục, dương khí bắt đầu phục, phục là khôi phục. Âm hàn thịnh đến cực độ th́ bắt đầu biến suy, dương khí suy đến một mực độ th́ bắt đầu khôi phục.
Quyết âm thuộc về tạng can, âm khí của Quyết âm đă cực thịnh, nhất định là có một khí dương nhỏ bé thai nghén trong đó. Quyết âm và Thiếu dương có quan hệ biểu lư, chính là tại cực điểm nhất của âm hàn đă phục tàng Thiếu dương. Thiếu dương chính là tiểu dương, là dương nhỏ bé non nớt. Dương khí trở lại, cũng chính là khí Thiếu dương trở lại. Xét theo bốn mùa trong năm, mùa đông hàn lănh, đợi đến sau ngày đông chí, thấy đến Giáp Tư, nửa đêm Giáp Tư là khí Thiếu dương bắt đầu, dương bắt đầu sinh gọi là Thiếu dương, cũng chính là trước tiên theo khí Thiếu dương để khởi đầu. Đây chính là dựa trên lư luận để giải thích quan hệ âm dương biểu lư.
Đồng thời, bản thân Quyết âm có hoả. Cổ nhân gọi hoả của thận và can là hoả long lôi, can hoả gọi là lôi hoả, thận hoả gọi là long hoả. Chu Đan Khê gọi chúng là tướng hoả.
V́ tâm hoả gọi là quân hoả, v́ thế hoả của tam tiêu, can, thận gọi là tướng hoả. Tướng hoả thuộc âm, quân hoả thuộc dương. Khi Quyết âm có hàn, tướng hoả bị uất lại bất thân (duỗi ra), đợi đến khí khí âm hàn của Thiếu âm suy thoái, tương hoả của nó uất lại cực độ phải phác tác mà xuất hiện nhiệt chứng.
Quyết âm bệnh là bệnh hàn lănh đến cực điểm, lại chính là một điều kiện để biến hoá. Âm đến cực điểm th́ sẽ sinh dương, và nó có liên hệ biểu lư với Thiếu dương. Tướng hoả của nó cũng cần phát tác, Quyết âm bệnh có một loạt t́nh huống phát bệnh như chuyển hoá âm dương, hàn nhiệt thác tạp (hỗn tạp), hoặc hàn hoặc nhiệt, tạo nên các đặc điểm phát bệnh của Quyết âm.
Khác với Thiếu âm bệnh, bản thân Thiếu âm bệnh có thuỷ hoả, có hoả của âm hư, có hàn của dương hư. Đến Quyết âm liền có chuyển hoá lưỡng cực, từ hàn có thể biến thành nhiệt, từ nhiệt c̣n có thể biến thành hàn. Dương khí khôi phục cũng không giống nhau, có mạnh có yếu, đây là tạo thành trạng thái bệnh của Quyết âm. Khi dương khí khôi phục thái quá sẽ biến thành nhiệt chứng, gọi là phục nhi thái quá. Cũng có khi âm hàn c̣n rất mạnh, dương khí quá suy yếu. Đương nhiên cũng có trường hợp âm dương b́nh hoà, bệnh không điều trị cũng tự khỏi. Âm hàn và dương khí chính là ảnh hưởng hỗ tương, đây tiêu đó trưởng, đây trướng đó tiêu, như bóng theo h́nh. Chính do đặc điểm như vậy, Quyết âm bệnh liền xuất hiện hội chứng hàn nhiệt hỗn tạp, có hàn có nhiệt, hàn chính là hàn thực sự (chân hàn), nhiệt chính là chân nhiệt.
Trong Quyết âm bệnh cũng có tử chứng, đó là âm thịnh dương vong. Quyết âm bệnh có thể đồng thời xuất hiện hàn và nhiệt, âm và dương, điều này được quyết định do bệnh cơ của nó.
. V́ nó đă có âm thịnh mà suy, cũng có dương hư mà trở lại, tập trung trên thân thể bệnh nhân mà xuất hiện chuyển hoá lưỡng cực, đă có hàn chứng, cũng có nhiệt chứng. Hàn nhiệt ở đây không giống như hàn nhiệt ở Thiếu âm bệnh âm thịnh cách dương, nó không có vấn đề cách dương hay đái (đội) dương. Dương cũng chính là dương, nhiệt chính là nhiệt, chân nhiệt, không sử dụng lương dược (thuốc mát) là không thể. Hàn chính là hàn, không dùng Phụ tử th́ không hiệu quả.
Nói từ góc độ bản thân bệnh ở kinh Quyết âm, nó chính là hàn chứng, có một vài hội chứng âm hàn, như hạ lợi, tay chân quyết nghịch, cũng có một vài nhiệt chứng xuất hiện do dương khí khôi phục thái quá gây ra, c̣n có chứng hàn nhiệt hỗn tạp. Tiên lượng của Quyết âm bệnh và Thiếu âm bệnh giống nhau, cũng sợ âm thịnh vong dương, đồng dạng là tử chứng (chứng chết). Sinh lư của Quyết âm Can là sơ tiết, Can có bệnh, sơ tiết bất lợi, đối với lục phủ sẽ bất lợi, v́ thế trong thiên Quyết âm, có rất nhiều bệnh của tràng vị (ruột, dạ dày) như ẩu, thổ, oẹ, hạ lợi.v…
Trị pháp của Quyết âm bệnh rất đơn giản, đơn thuần hàn chứng th́ dùng loại thang Tứ nghịch; Đơn thuần nhiệt chứng th́ dùng lương dược (thuốc mát); Hàn nhiệt hỗn hợp chứng th́ dùng hàn nhiệt tương kiêm (kèm theo nhau) mà điều trị. Các nhà chú giải cổ đại có rất nhiều tranh luận đối với Quyết âm bệnh.
Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-14 01:45:43
Từ điều 326 đến điều 338
326厥阴之为病,消渴,气上撞心,心中疼热,饥而不欲食,食则吐蛔,下之利不止。 C340
326 Quyết âm chi vi bệnh, tiêu khát, khí thượng chàng tâm, tâm trung đông nhiệt, cơ nhi bất dục thực, thực tắc thổ hồi, hạ chi lợi bất chỉ. C340
Điều văn này tŕnh bày hội chứng đề cương của Quyết âm bệnh, chính là hội chứng hỗn tạp của hàn chứng và nhiệt chứng.
Nhiệt chứng của Quyết âm bệnh biểu hiện là “Tiêu khát”, “khí thượng chàng tâm” (气上撞心) khí bốc lên va chạm mạnh vào tim, “tâm trung đông nhiệt” (心中疼热) tim đau và nóng, v́ Quyết âm thuộc về tạng của phong mộc, có tướng hoả, có khí Thiếu dương, thời điểm này dương khí sẽ phù, âm hoả sẽ uất cực độ rồi phát ra, và bắt đầu cùng một lúc. “Khí thượng chàng tâm” (气上撞心), chữ “chàng” (chạm) là từ h́nh dung, không giống như câu trước đây “khí thượng xung hung” (气上冲胸), “khí thượng xung yết hầu” (气上冲咽喉) xung là đánh mạnh (vào yết hầu) mà chàng là đánh rất mạnh. V́ khi hàn đă đến cực độ, khí phong mộc của can và Thiếu dương tướng hoả uất cực độ rồi phát ra. Nhiệt gây tổn thương tân dịch, nên khát. Miệng khát cầu cứu ở ngoài, sẽ uống nước để tự cứu, khát nước có thể uống, sau khi uống vẫn c̣n khát th́ gọi là tiêu khát, nhưng tiểu tiện không có vấn đề, điều này cho thấy không tích trữ nước, không phải là Ngũ linh tán chứng.
Túc Quyết âm can và thủ Quyết âm tâm bào đều thuộc về Quyết âm, “tâm trung đông nhiệt”( 心中疼热) đau và nóng trong tim, phản ảnh dương khí trở lại, uất cực độ rồi phát ra. Đây chính là nhiệt chứng của Quyết âm. Bệnh lư của nó là khí mộc hoả của can, khí tướng hoả phát tác từ dưới lên trên.
Tỳ vị hư hàn, không có năng lực làm ngấu chín thuỷ cốc, v́ thế bệnh nhân đói mà không muốn ăn.
Miễn cưỡng ăn vào th́ “Thực tắc thổ” (食则吐) ăn vào th́ thổ ra. Trong bụng người này có giun, thậm chí người bệnh có thể nôn ra giun, đúng là “Thực tắc thổ hồi” (食则吐蛔). Đây chính là hàn chứng của Quyết âm. Chứng trung tiêu tỳ vị hư hàn.
Nếu không hiểu đó là hội chứng hỗn hợp hàn nhiệt, th́ trên phương diện trị liệu sẽ mắc sai lầm phiến diện. Nếu chỉ nh́n vào các nhiệt chứng “tiêu khát, khí thượng chàng tâm, tâm trung đông nhiệt” (消渴,气上撞心,心中疼热), sử dụng thuốc khổ hàn tả hạ để trị nhiệt, tỳ vị lại càng lạnh, sẽ “hạ chi lợi bất chỉ” (下之利不止), công hạ bn sẽ đi tả không ngừng.
Ngược lại, nếu chỉ chú ư vào các hàn chứng của trung tiêu như “Cơ nhi bất dục thực, thực tắc thổ” (饥而不欲食,食则吐), đơn thuần cho bệnh nhân uống thuốc nóng (nhiệt dược), th́ chứng tiêu khát và đau nóng trong tim càng nghiêm trọng hơn.
V́ thế, nên dùng hàn dược, lại cần dùng cả nhiệt dược là phương pháp kiêm trị cả hàn và nhiệt chứng, như thế mới có thể giải quyết vấn đề này.
Liên quan với điều văn này có tranh luận rất lớn. Có người cho rằng đây là nhiệt chứng, căn bản là không có hàn chứng, thí dụ như Vưu Tại Kính {Thương hàn quán châu tập} cho rằng tả hạ gây hạ lợi không ngừng, chính là do can vượng tỳ hư gây ra. Nhưng đa số đều giữ quan điểm là hội chứng hàn nhiệt hỗn tạp.
327 厥阴中风,脉微浮,为欲愈;不浮,为未愈。 C341
327 Quyết âm trúng phong, mạch vi phù, vi dục dũ; Bất phù, vi vị dũ. C341
Điều văn này phân tích h́nh tượng mạch để biết bệnh sắp khỏi hoặc chưa khỏi.
Trong {Thương hàn luận} không kèm theo trị liệu và phương thang, các điều văn đều giảng về lư luận và có tính cương lĩnh (nguyên tắc chỉ đạo).
Quyết âm bệnh âm hàn chứng, nếu thấy dương chứng hoặc thấy dương mạch th́ tốt.
Phản ảnh hàn chứng của Quyết âm chính là hỉ dương ố âm (thích dương ghét âm). Quyết âm trúng phong là quyết âm đă cảm thụ phong hàn. Phàm là khi kinh âm cảm thụ tà khí, mạch đều trầm và vi, v́ nó là tạng bệnh âm hàn, phản ảnh đây là chứng âm hàn. Nếu như mạch trầm vi biến thành mạch vi phù, “vi dục dũ”(为欲愈) là bệnh sẽ khỏi. Âm thuộc lư (bên trong), dương thuộc biểu (bên ngoài), bệnh âm mà thấy dương mạch (phù), “Đại, phù, sác, động, hoạt giả, dương dă; Trầm, sáp, nhược, huyền, vi giả, âm dă” (大浮数动滑者,阳也;沉涩弱弦微者,阴也) Mạch dương gồm các mạch: Đại, phù, sác, động, hoạt; Mạch âm: Trầm, sáp, nhược, huyền, vi, từ âm mạch trầm vi biến thành dương mạch vi phù, đây chính là âm bệnh thấy dương mạch, là bệnh sắp khỏi. Cho thấy tà âm hàn đă có biểu hiện suy yếu, dương khí trên cơ thể có biểu hiện khôi phục, v́ thế mạch có thể từ trầm vi mà biến thành mạch vi phù.
“Bất phù, vi vị dũ” (不浮,为未愈) Mạch không phù, bệnh chưa khỏi. Nếu mạch tiếp tục trầm vi mà vô lực không thấy vi vi mà phù, đây c̣n là hàn chứng của Quyết âm, c̣n là tà âm hàn chưa được giải trừ của Quyết âm, v́ thế “Vi vị dũ” (为未愈) bệnh chưa khỏi, bệnh chưa tốt.
Tam âm bệnh có tính quy luật, Mạch của Thái âm chính là “Dương vi âm sáp nhi trường giả, vi dục dũ” (阳微阴涩而长者,为欲愈) Mạch dương vi (nhỏ yếu), mạch âm sáp (rít) mà trường (dài) là khỏi bệnh; Mạch của Thiếu âm là “Mạch dương vi âm phù giả, vi dục dũ”( 脉阳微阴浮者,为欲愈) Mạch dương vi (nhỏ yếu), mạch âm phù (nổi) là khỏi bệnh; Quyết âm chính là mạch từ trầm vi biến thành “Vi phù, vi dục dũ” (微浮,为欲愈) mạch trầm vi (ch́m nhỏ yếu) biến thành mạch vi phù (nhỏ yếu và nổi) là khỏi bệnh; Hội chứng âm hàn của bệnh ở 3 kinh âm, nếu trong âm mạch xuất hiện dương mạch, phản ảnh chính khí đắc thế, đây đều là hiện tượng tốt, cho biết tà khí thoái lui và chính khí phục hồi, sẽ nhanh chóng khỏi bệnh. Nếu như âm chứng c̣n thấy âm mạch. Đó là “vi vị dũ dă” (为未愈也) là chưa khỏi bệnh.
Âm dương tiêu trưởng, cơ chế tiến thoái, thường phản ảnh đầu tiên là ở mạch, mạch chính là chỉ tiêu nhanh nhạy của bệnh biến (thay đổi bệnh lư).
Thí dụ, một người bị một mụn nhọt hàn tính, là một âm chứng. T́nh trạng mạch trước đâylà âm mạch, hiện tại xuất hiện dương mạch, hoặc thấy mạch sác, hoặc thấy mạch phù, hoặc mạch hoạt, chứng trạng có phương hướng phát triển về dương chứng, đó là có thể nói bệnh có hướng phát triển tốt.
328厥阴病,欲解时,从寅至卯上。 C342
328 Quyết âm bệnh, dục giải thời, ṭng dần chí măo thượng. C342
Bài này thảo luận về thời gian thuận lợi để giải trừ bệnh ở kinh Quyết âm.
Quyết âm thuộc can, là biểu lư với Thiếu dương. Ba giờ dần, măo, th́n (từ 3 giờ đến 9 giờ) là khoảng thời gian khí Thiếu dương vượng thịnh, cũng chính là thời gian thuận lợi để giải trừ Quyết âm bệnh. “Dục giải thời” (欲解时) thời gian thuận lợi để giải trừ bệnh, không phải là “Dĩ giải thời” (已解时) thời gian đă giải trừ bệnh, là chỉ nói về chiều hướng tốt của bệnh, đây là câu nói có tính thương thảo, không phải là một từ tất yếu, chẳng qua là phải hội đủ những điều kiện này. V́ thế. Không nên xem thời gian muốn giải trừ bệnh (dục giải thời) là một việc tất nhiên. Lục khí (biến hoá khí hậu trong tự nhiên) thực sự có ảnh hưởng đối với cơ thể và đó không phải là câu chuyện bịa đặt, điều này có được là nhờ sự quan sát lâu dài.
329厥阴病,渴欲饮水者,少少与之,愈。 C343
329 Quyết âm bệnh, khát dục ẩm thuỷ giả, thiểu thiểu dữ chi, dũ. C343
Điều văn này tŕnh bày chứng trạng và trị liệu chứng khát nước do dương khí trở lại của Quyết âm bệnh.
Điều văn này nói theo mặt chữ (nghĩa đen) th́ rất đơn giản, trên lư thuyết phát huy bao gồm hai phương diện: Thứ nhất Quyết âm bệnh hỗn tạp hàn nhiệt sẽ xuất hiện tiêu khát, uống một chút nước sẽ không hiệu qủa, “thiểu thiểu dữ chi, dũ” (少少与之,愈)uống từng chút một, sẽ bài trừ được chứng hàn nhiệt hỗn tạp. Thứ hai, nếu Quyết âm hàn chứng âm thoái dương khôi phục, bn sẽ thích uống nước, uống từng chút nước một sẽ có tác dụng hoà vị nhuận táo là làm cho dạ dày không bị khô khan và khỏi bệnh.
330诸四逆厥者,不可下之,虚家亦然。 C344
330 Chư Tứ nghịch quyết giả, bất khả hạ chi, hư gia diệc nhiên. C344
Điều văn này thảo luận việc cấm dùng phép công hạ đối với chứng quyết nghịch hư hàn.
“Chư” là từ mở đầu có nghĩa là các là nhiều, không thích hợp khi nói “chư đa” có nghĩa là rất nhiều.
“Tứ nghịch” ở đây là nói về tứ chi quyết lănh, là phản ảnh của 1 bệnh lư, lại là biểu hiện của 1 chứng trạng. Quyết là t́nh trạng lệch cực độ của âm dương, âm dương không nối kết gây ra. Kết hợp với bài C350 “Tiền nhiệt giả, hậu tất quyết, quyết thâm giả, nhiệt diệc thâm, quyết vi giả, nhiệt diệc vi; Quyết ứng hạ chi” (前热者,后必厥,厥深者,热亦深;厥微者,热亦微;厥应下之) Phát sốt trước, quyết lănh sau, quyết sâu th́ sốt cao, quyết nhẹ th́ sốt cũng nhẹ, chứng quyết nên công hạ. Phân tích thấy rằng Tứ nghịch cần phân rơ hư thực, nếu thuộc hư, bất luận là dương hư, khí hư, đều không thể dùng phép tả hạ, v́ “Hư gia diệc nhiên” (虚家亦然) người có tố chất hư nhược cũng vậy; Nếu thuộc thực chứng, “nhiệt thâm giả, quyết diệc thâm”,( 热深者,厥亦深) nhiệt xâm nhập càng sâu th́ chứng quyết càng nghiêm trọng “Quyết ứng hạ chi” (厥应下之)chứng quyết này nên dùng phép công hạ.
331 伤寒先厥,后发热而利者,必自止。见厥复利。 C345
331 Thương hàn tiên quyết, hậu phát nhiệt nhi lợi giả, tất tự chỉ. Kiến quyết phục lợi. C345
Điều văn này tŕnh bày sự quan hệ giữa quyết nhiệt và hạ lợi.
“Thương hàn” là nói rơ nguồn gốc của bệnh. “Tiên quyết”, đầu tiên xuất hiện thủ túc quyết nghịch của quyết âm hàn chứng, “hậu phát nhiệt”(后发热),sau đó lại phát nhiệt là do dương khí của quyết âm trở lại.
“Nhi lợi giả, tất tự chỉ” (而利者,必自止) Khi quyết lănh có hạ lợi, đây là câu nói ngược, hiện tại lại phát nhiệt, là dương khí đă khôi phục, lúc này âm hàn thoái lui, chứng hạ lợi tất nhiên “Tự chỉ” (ngừng lại). Quyết lănh và hạ lợi đại biểu cho hàn, phát nhiệt đại biểu cho dương nhiệt. Có quyết lănh, hạ lợi th́ không có phát nhiệt; Có phát nhiệt th́ sẽ không có quyết lợi (quyết lănh, hạ lợi) là chân tay lạnh, tiết tả.
“Kiến quyết phục lợi”, (见厥复利) thấy chứng quyết là thấy hạ lợi, chứng quyết lănh và chứng hạ lợi là nhất trí (là cùng đến, là nhịp nhàng), nếu âm dương tiêu trưởng tiến thoái, sau khi phát nhiệt mà âm tà c̣n chiếm địa vị chủ đạo, th́ sẽ lại xuất hiện tay chân quyết lănh, tiết tả.
Chúng ta gọi hiện tượng, quyết, phát nhiệt, rồi lại quyết, lại hạ lợi như vậy là quyết nhiệt thắng phục*, âm dương tiêu trưởng, âm dương tiến thoái. Người viết chưa từng gặp bệnh như vậy trên lâm sàng. Ở đây là Trương Trọng Cảnh thông qua lư thuyết, phản ảnh quan hệ dài ngắn, lớn nhỏ của hàn nhiệt tiêu trưởng mà thôi. Trong phương dược các lăo sư cho rằng có trường hợp dựa theo phương dược để nói về chứng, có khi dựa theo chứng để nói về phương dược, có khi lại dựa theo mạch để nói về chứng. Bài này tŕnh bày về bệnh lư và quan hệ âm dương tiêu trưởng của hội chứng.
332 伤寒始发热,六日,厥反九日而利。凡厥利者,当不能食,今反能食者,恐为除中,食以索饼,不发热者,知胃气尚在,必愈,恐暴热来出而复去也。后三日脉之,其热续在者,期之旦日夜半愈。所以然者,本发热六日,厥反九日,复发热三日,并前六日,亦为九日,与厥相应,故期之旦日夜半愈。后三日脉之而脉数,其热不罢者,此为热气有余,必发痈脓也。 C346
332 Thương hàn thuỷ phát nhiệt, lục nhật, quyết phản cửu nhật nhi lợi. Phàm quyết lợi giả, đương bất năng thực, kim phản năng thực giả, khủng vi trừ trung, thực dĩ tác bính, bất phát nhiệt giả, tri vị khí thượng tại, tất dũ, khủng bạo nhiệt lai xuất nhi phục khứ dă. Hậu tam nhật mạch chi, kỳ nhiệt tục tại giả, kỳ chi đán nhật dạ bán dũ. Sở dĩ nhiên giả, bản phát nhiệt lục nhật, quyết phản cửu nhật, phục phát nhiệt tam nhật, tính tiền lục nhật, diệc vi cửu nhật, dữ quyết tương ứng, cố kỳ chi đán nhật dạ bán dũ. Hậu tam nhật mạch chi nhi mạch sác, kỳ nhiệt bất băi giả, thử vi nhiệt khí hữu dư, tất phát ung nùng dă. C346
Điều văn này tŕnh bày phương pháp phán đoán sự tiến thoái của bệnh quyết nhiệt thắng phục* và biện chứng trừ trung (giảm vị khí).
Bệnh do thương hàn, bắt đầu phát sốt 6 ngày, sau đó tay chân quyết lănh (lạnh quá khuỷu, gối) 9 ngày, trong thời gian quyết lănh bệnh nhân c̣n tiêu chảy (hạ lợi). Trương Trọng Cảnh đưa ra được 2 phương diện âm và dương, phát nhiệt đại biểu cho dương, đă 6 ngày; Tay chân quyết lănh kèm theo tiêu chảy là đại biểu âm, đă 9 ngày. Chứng quyết nhiều hơn chứng nhiệt 3 ngày. “Phàm quyết lợi giả, đương bất năng thực” (凡厥利者,当不能食。) Phần nhiều bệnh nhân tay chân quyết lănh c̣n thêm chứng tiêu chảy là bên trong hư có hàn, nên không thể ăn uống.
“Kim phản năng thực giả” (今反能食者) bây giờ lại ăn được, đó là “Khủng vi trừ trung” (恐为除中). “Trừ trung” là một danh từ của cổ nhân, trung chính là vị khí, trừ là giảm. Con người trước khi chết, khi vị khí sắp kết thúc, đều nghĩ đến ăn một thứ ǵ đó, hiện tượng này gọi là trừ trung. Người bệnh này quyết lợi (quyết lănh, hạ lợi) tay chân quyết lănh lại hạ lợi, c̣n nghĩ đến ăn ǵ đó, phải chăng đây là chứng trừ trung? “Khủng vi trừ trung ” (恐为除中) e rằng đó là trừ trung, không thể biết được chuẩn mực của chứng trừ trung, sau đó người xưa đă nghĩ ra một cách, “Thực dĩ sách bính” (食以索饼) cho bn ăn ḿ sợi, người xưa dùng bột ḿ để làm bánh, tác bính là ḿ sợi, cho anh ta ăn ḿ sợi để biết có phải là chứng trừ trung hay không?.
“Bất phát nhiệt giả” (不发热者) , chữ “bất” này có lẽ là một chữ sai. Sau khi ăn hết ḿ sợi, người này không phát sốt, “tri vị khí thượng tại” (知胃气尚在) là biểu hiện của vị khí c̣n tồn tại và đây không phải là chứng trừ trung, “tất dũ”, là người này sẽ khỏi bệnh.
“Khủng bạo nhiệt lai xuất nhi phục khứ dă” (恐暴热来出而复去也) có ư là : Sợ rằng sau khi ăn ḿ sợi đột nhiên toàn thân nóng bừng, cơn nóng này đến và đi đều rất nhanh. V́ là bệnh trừ trung (vị khí sắp cạn kiệt), là h́nh tượng giả của vị khí hưng phấn, sau khi ăn ḿ th́ xuất hiện toàn thân nóng bừng, sau cơn nóng th́ thân thể quyết nghịch (lạnh lẽo), lúc này bệnh nhân tử vong. Đây gọi là Quỳnh hoa nhất hiện, phù dung sớm nở tối tàn, không bền vững. “Hậu tam nhật mạch chi” (后三日脉之), sau ba ngày lại thiết mạch, lại khám bệnh, “kỳ nhiệt tục tại giả” (其热续在者), c̣n tiếp tục phát nhiệt, từ đâu mà nói như vậy? Ở phần trước là không sốt, phần này là sốt liên tục th́ không kết nối liên hệ với phần trước được.
Theo Vưu Di trong {Thương hàn quán châu tập} lấy chữ “bất” của “Bất phát nhiệt giả, tri vị khí thượng tại” (不发热者,知胃气尚在) sửa thành chữ “nhược” (若). Người viết cho rằng sửa như vậy là rất hợp lư. “Thực dĩ sách bính” (食以索饼) Cho người bệnh ăn ḿ sợi, “nhược phát nhiệt giả” (若发热者) nếu người này c̣n phát sốt là vị khí c̣n tồn tại, “tất dũ” (必愈)là sẽ khỏi bệnh, Nhưng “Khủng bạo nhiệt lai xuất nhi phục khứ dă” (恐暴热来出而复去也), nhưng chính là cái nhiệt này không kéo dài, nóng đột ngột, nóng kéo đến một chập rồi thôi, không kéo dài, đó là giả nhiệt, “hậu tam nhật mạch chi” (后三日脉之), đợi đến khi ăn xong, qua ba ngày, khi thiết mạch bệnh nhân, “kỳ nhiệt tục tại giả” (其热续在者) chứng phát nhiệt này vẫn c̣n tồn tại, không thể nói là bạo nhiệt đến mà lại đi, mà chính là liên tục tồn tại. “kỳ chi đán nhật dạ bán dũ” (期之旦日夜半愈) là nửa đêm mai khỏi bệnh, v́ nửa đêm là thời gian khí Thiếu dương bắt đầu, dương khí sẽ khôi phục, v́ thế nửa đêm ngày thứ hai, bệnh này sẽ khỏi.
“Sở dĩ nhiên giả” (所以然者) sở dĩ như vậy, Trương Trọng Cảnh giải thích, “bản phát nhiệt lục nhật, quyết phản cửu nhật” (本发热六日,厥反九日) phát nhiệt này kéo dài 6 ngày, thời gian quyết lănh là 9 ngày, thời gian quyết nhiều hơn thời gian nhiệt là 3 ngày, sau khi ăn ḿ sợi, “phục phát nhiệt tam nhật, tính tiền lục nhật diệc vi cửu nhật” (复发热三日,并前六日亦为九日) lại phát nhiệt 3 ngày, cùng với phát nhiệt 6 ngày của lần trước cũng thành 9 ngày), đây cũng chẳng phải là 9 ngày sao? “Dữ quyết tương ứng” (与厥相应) số ngày phát sốt và quyết lănh bằng nhau. Nhiệt và quyết phù hợp, không nhiều không ít, “cố kỳ chi đán nhật dạ bán dũ” (故期之旦日夜半愈), v́ thế đây là nói về âm khí không có năng lực, dương khí đă khôi phục, đến nửa đêm ngày hôm sau, dương khí khôi phục, bệnh sẽ khỏi. “Hậu tam nhật mạch chi nhi mạch sác” (后三日脉之而脉数) sau ba ngày thiết mạch thấy mạch sác, là sau 9 ngày, mạch vẫn c̣n sác, “kỳ nhiệt hoàn bất băi” (其热还不罢) là c̣n chưa hạ nhiệt, đây là dương khí trở lại thái quá, “thử vi nhiệt khí hữu dư” (此为热气有余), đây gọi là nhiệt khí có thừa. “Tất phát ung nùng dă” (必发痈脓也) tất sẽ phát mụn nhọt, v́ nhiệt của kinh can đều ở huyết phận, can chủ huyết, v́ thế nhiệt tại huyết phận nên dễ phát mụn nhọt. Bệnh đến giai đoạn Quyết âm, là chuyển hoá lưỡng cực, âm cực độ th́ sinh dương, dương khí trở lại, v́ thế đặc điểm phát bệnh có vấn đề của quyết nhiệt thắng phục*. Quyết (lănh) đại biểu cho hàn, đại biểu cho dương khí bất lợi, v́ thế chân tay quyết lănh (lạnh quá khuỷu, quá gối) mà phân lỏng, những điều này là nhất trí (xảy ra nhịp nhàng). Nếu như bn phát nhiệt, đó chính là dương khí trở lại, âm hàn thoái lui, lúc này chứng tay chân lạnh (quyết nghịch) và chứng tiết tả phân lỏng cũng theo đó mà hết. Căn cứ theo y lư, trên lâm sàng chúng ta phải phân biệt so sánh cả hai thế lực quyết và nhiệt xem cái nào lớn cái nào mạnh. Trương Trọng Cảnh đă đưa ra một so sánh về thời gian và ngày tháng. Nếu quyết và nhiệt bằng nhau, và quyết hàn không thể tăng lên, bệnh sẽ được chữa khỏi.
Nếu vẫn không ổn định trong thời gian quyết nhiệt ngang bằng, quyết nghịch và tiết tả lại xuất hiện, bệnh sẽ không có biến chuyển tốt. Nếu nhiệt ít quyết nhiều, th́ chẳng những bệnh không biến chuyển tốt mà ngược lại c̣n trầm trọng hơn, là quyết hàn chiếm ưu thế, chính khí không đầy đủ, đây là vấn đề thứ nhất cần phải nắm vững.
Vấn đề thứ hai cần nắm vững, là xét từ ăn uống và vị khí để kiểm nghiệm chính khí (năng lực kháng bệnh), tà khí của bệnh nhân. Vấn đề thứ ba, dương khí khôi phục là việc tốt, nhưng cũng có trường hợp khôi phục thái quá.
333伤寒脉迟,六七日,而反与黄芩汤彻其热。脉迟为寒,今与黄芩汤,复除其热,腹中应冷,当不能食;今反能食,此名除中,必死。 C347
333 Thương hàn mạch tŕ, lục thất nhật, nhi phản dữ Hoàng cầm thang triệt kỳ nhiệt. Mạch tŕ vi hàn, kim dữ Hoàng cầm thang, phục trừ kỳ nhiệt, phúc trung ứng lănh, đương bất năng thực; Kim phản năng thực, thử danh trừ trung, tất tử. C347
Điều văn này tŕnh bày nguyên tắc cấm dùng thuốc hàn lương và phân tích nguyên nhân biến thành “Trừ trung” (除中) giảm vị khí khi uống nhầm thuốc hàn lương của bệnh thương hàn mạch tŕ.
Trương Trọng Cảnh đề cử 1 trường hợp. “Thương hàn mạch tŕ” (伤寒脉迟) là mạch đập chậm, tŕ là chỉ về mạch hàn thấp, thuộc về mạch dương hư hữu hàn. Mạch tŕ chủ hàn, mạch sác chủ nhiệt. Mạch tŕ sẽ thấy đau bụng hạ lợi, “lục thất nhật” (sáu bảy ngày), đó là thời gian dương khí của tỳ vị hư tổn hơn, hàn tà càng nặng hơn, nên sử dụng loại h́nh Tứ nghịch để bổ dương chỉ tả. “Phản dĩ Hoàng cầm thang triệt kỳ nhiệt” (反以黄芩汤彻其热) lại dùng thang Hoàng cầm triệt bỏ nhiệt. Thày thuốc không cho đây là hàn tính, thuộc về hạ lợi của hội chứng thang Lư trung, của thang Tứ nghịch, mà sai lầm cho rằng đây là chứng hạ lợi của Thiếu dương Thái dương hợp bệnh, không sử dụng Tứ nghịch bối (Tứ nghịch loại: Thang Tứ nghịch, thang Lư trung…) Lại dùng thang Hoàng cầm để trừ thực nhiệt. Bệnh không có nhiệt, không có nhiệt để triệt, không có nhiệt để trừ, và tất nhiên khi uống thang Hoàng cầm th́ dương khí của tỳ vị sẽ bị tổn hại. “Đương bất năng thực” (当不能食) Là đang không thể ăn. “Kim phản năng thực” (今反能食) nay lại có thể ăn , sau khi uống thang Hoàng cầm đúng ra là không thể ăn được, nhưng hiện tại ngược lại lại có thể ăn, đây không phải là một t́nh huống tương phản sao? “Thử danh trừ trung” (tên của nó là trừ trung) , hiện tượng này có tên gọi là trừ trung, là biểu hiện của vị khí sắp cạn kiệt, ăn uống để tự cứu, “tất tử” (必死) là chứng chết.
Đối với hàn chứng của tam âm, chúng ta không chỉ xem xét vấn đề của dương khí, c̣n cần phải xem xét các vấn đề của tỳ vị, của tiên thiên và hậu thiên. V́ vị khí là căn bản của con người, vị là bể chứa thuỷ cốc, có khả năng nuôi dưỡng tạng phủ khí huyết, vị khí suy bại, chính khí tán loạn, không tụ lại được, v́ thế có vị khí là có thể sống, không có vị khí là chết. Vị khí là căn bản của con người, đề xuất tính trọng yếu của vị khí, v́ vị chính là b́nh phong che chở của tam âm (ba kinh âm), là căn bản của hậu thiên, là nguồn cội của khí huyết, đây là ư tứ của tầng thứ nhất.
Những hiện tượng nhiệt xuất hiện ở hàn chứng hạ lợi th́ đều là giả, không nên nhầm lẫn cho rằng đó là vần đề của dương chứng, mà lại có thể dùng thuốc hàn lănh để gây tổn thương khí của tỳ vị, dẫn đến phát sinh trừ trung. Khi điều trị hàn chứng, không được dùng thuốc hàn lương v́ sẽ gây tổn thương dương khí của tỳ vị, và sẽ để lại hậu quả khôn lường, và đây là tầng ư nghĩa thứ hai.
334 伤寒先厥后发热,下利必自止,而反汗出,咽中痛者,其喉为痹。发热无汗而利必自止,若不止,必便脓血。便脓血者,其喉不痹。 C348
334 Thương hàn tiên quyết hậu phát nhiệt, hạ lợi tất tự chỉ, nhi phản hăn xuất, yết trung thống giả, kỳ hầu vi tí. Phát nhiệt vô hăn nhi lợi tất tự chỉ, nhược bất chỉ, tất tiện nùng huyết. Tiện nùng huyết giả, kỳ hầu bất tí. C348
Điều văn này phân tích biến chứng do dương phục thái quá của thương hàn bệnh tiên quyết hậu nhiệt (quyết lănh trước, phát nhiệt sau)
Điều văn này nên liên hệ kết hợp với điều văn kế bên trên để có thể hiểu rơ hơn. Quyết nhiệt thắng phục, dương khí khôi phục, là một việc tốt. Nhưng nếu như dương khí khôi phục thái quá, cũng sẽ phát sinh bệnh tật, ở những vị trí trên dưới khác nhau. Điều văn C346 “Kỳ nhiệt bất băi, thử vi nhiệt khí hữu dư, tất phát ung nùng dă” (其热不罢者,此为热气有余,必发痈脓也) Nhiệt không ngừng lại, là nhiệt khí có thừa, tất sẽ phát ra mụn nhọt, mụn nhọt trên cơ thể. Điều văn này thuộc vị trí của bệnh ở trên hay ở dưới. Dương khí của Quyết âm bệnh chính là thái quá, tổn thương âm huyết, có thể xuất hiện toàn thân mụn nhọt, cũng có thể xuất hiện chứng đau họng, đại tiện có máu mủ. Thương hàn xuất hiện thủ túc quyết lănh, đây là hàn chứng của Quyết âm. Làm thế nào để biết nó là chứng quyết nghịch của Quyết âm mà không phải là chứng quyết nghịch của Thiếu âm? Có thể biết, v́ chứng quyết nghịch của Thiếu âm sau đó không tiếp tục phát sốt, chỉ có chứng quyết nghịch của Quyết âm là sau đó có phát sốt. Quyết âm là âm cực độ và dương bắt đầu, ở giữa th́ thấy Thiếu dương, v́ thế chứng quyết lănh và chứng hạ lợi tất nhiên sẽ tự ngưng lại.
“Thương hàn tiên quyết” (伤寒先厥), quyết lănh trước th́ có chứng hạ lợi, “hậu phát nhiệt” (后发热), phát sốt sau th́ chứng quyết cũng biến chuyển tốt, chứng hạ lợi cũng tự ngừng. “Nhi phản hăn xuất, yết trung thống giả, kỳ hầu vi tí” (而反汗出,咽中痛者,其喉为痹) mà nếu xuất mồ hôi, đau họng, là bị viêm họng, nếu như dương khí khôi phục thái quá, bức bách âm tiết ra ngoài, bn sẽ xuất mồ hôi.
Nếu tà dương nhiệt đi lên trên, th́ “kỳ hầu vi tí” (其喉为痹). Hầu tí là tên một bệnh chứng của thời cổ đại, để chỉ cổ họng bị viêm. “phát nhiệt vô hăn, nhi lợi tất tự chỉ, nhược bất chỉ giả, tất tiện nùng huyết, tiện nùng huyết giả, kỳ hầu bất tí” (发热无汗,而利必自止,若不止者,必便脓血,便脓血者,其喉不痹) phát sốt không xuất mồ hôi, và tiết tả tự ngừng, nếu tiết tả không ngừng, tất đại tiện ra máu mủ, mà họng th́ không viêm. Khi dương khí thái quá sẽ hướng lên trên, hướng ra ngoài, v́ thế mà có xuất mồ hôi, có chứng hầu tí (viêm họng), đây là một loại chiều hướng. C̣n có một loại chiều hướng là tuy phát sốt, nhưng không có mồ hôi, bệnh tà hướng xuống dưới, mà “Lợi tất tự chỉ” (利必自止)hạ lợi tự ngừng lại, chính là dương khí khôi phục và hàn tà thoái lui; Nếu hạ lợi vẫn không ngừng lại, tính chất này đă biến hoá, chứng hạ lợi trước là chứng hạ lợi hàn tính (tính chất lạnh), hiện tại là sau khi phát sốt chứng hạ lợi không cầm, dương nhiệt đi xuống dưới, v́ thế “Tất tiện nùng huyết”. “Tiện nùng huyết giả, kỳ hầu bất tí” (便脓血者,其喉不痹), đại tiện ra máu mủ là nhiệt đi xuống dưới mà không đi lên trên, v́ thế bộ phận yết hầu không phát sinh chứng hầu tí (viêm họng). Trên thực tế dương khí khôi phục trong bài văn này là một hiện tượng tốt, chứng quyết lănh và chứng hạ lợi liền tự ngừng lại.
335 伤寒一二日,至四五日而厥者,必发热,前热者,后必厥,厥深者,热亦深,厥微者,热亦微,厥应下之,而反发汗者,必口伤烂赤。 C349
335 Thương hàn nhất nhị nhật, chí tứ ngũ nhật nhi quyết giả, tất phát nhiệt, tiền nhiệt giả, hậu tất quyết, quyết thâm giả, nhiệt diệc thâm, quyết vi giả, nhiệt diệc vi, quyết ứng hạ chi, nhi phản phát hăn giả, tất khẩu thương lan xích. C349
Điều văn này thảo luận về hội chứng và phương pháp điều trị chứng nhiệt quyết, suy đoán và cấm kỵ về t́nh trạng nặng nhẹ của bệnh.
Trên thực tế bài này bao gồm ôn bệnh của hậu thế, nguồn gốc của thương hàn là do bệnh ngoại cảm gây nên, từ 1,2 ngày đến 4,5 ngày “nhi quyết giả” (而厥者), xuất hiện tay chân quyết lănh, “tất phát nhiệt” (必发热). Đây là một câu đảo trang* Chính ra câu văn phải viết “Thương hàn nhất nhị nhật chí tứ ngũ nhật” (伤寒一二日至四五日) thương hàn 1,2 ngày đến 4,5 ngày, thời gian này đă phát sốt, quyết lănh là theo phát sốt mà có. “Tiền nhiệt giả, hậu tất quyết” (前热者,后必厥), trước tiên là phát nhiệt, sau đó xuất hiện quyết lănh, nhiệt xuất hiện trước, quyết xuất hiện sau, đặc điểm của nó là toàn thân phát nhiệt, ngược lại tay chân lại lạnh (quyết lănh), đây gọi là chứng nhiệt quyết.
“Quyết thâm giả, nhiệt diệc thâm, quyết vi giả, nhiệt diệc vi” (厥深者,热亦深,厥微者,热亦微)quyết càng sâu th́ nhiệt cũng nặng, quyết nhẹ th́ nhiệt cũng nhẹ, quyết và nhiệt trên tổng thể mức độ là đồng đều nhịp nhàng với nhau, thâm cũng là nặng, tay chân quyết lănh càng sâu th́ nhiệt cũng nặng; quyết nhẹ th́ nhiệt cũng nhẹ, bên trong bao gồm hội chứng cũng bao gồm cả bệnh cơ, cả hai kèm theo nhau mà có.
V́ sao quyết nghịch lại xuất hiện sau cơn sốt? V́ sao nhiệt nặng th́ quyết cũng sâu, quyết nặng th́ nhiệt cũng nặng, quyết nhỏ yếu th́ nhiệt cũng nhỏ yếu? Tại sao nó là nhiệt quyết? Đây là bệnh thuộc dương uất ở trong, dương khí và âm khí không nối tiếp nhau một cách thuận lợi (tương thuận tiếp), cũng có nhà chú giải cho rằng đây gọi là dương uất bức âm ra ngoài, dương khí càng uất tay chân càng quyết lănh; Dương khí uất nhẹ đi một chút, th́ tay chân quyết lănh cũng nhẹ theo tương ứng, mức độ uất tích của dương nhiệt tỉ lệ với quyết nghịch.
Chứng quyết nghịch nên hạ, chứng nhiệt tính dương uất như vậy không nên hỏi đến trong quá tŕnh điều trị, là chứng quyết nên dùng phép ôn? Nên dùng phép hạ? Đúng là không nên dùng thuốc ấm (ôn pháp) mà nên dùng phương pháp phá dương hành (thúc đẩy) âm, phá dương khí bế uất cực độ, khiến hai khí âm dương có thể hỗ tương duy tŕ, hỗ tương thông đạt, khiến âm dương hoà hợp. Dương khí đắc thân (duỗi ra) không bị bế uất, âm dương nhịp nhàng hài hoà, sức khoẻ được khôi phục và khỏi bệnh. V́ thế, theo trải nghiệm của người viết th́ nên phá dương uất, sẽ sử dụng một số lương dược (vị thuốc mát) bao gồm phép tả hạ và phép khổ hàn thanh nhiệt. {Nội kinh} viết “Toan khổ dũng tiết vi âm” (酸苦涌泄为阴), v́ thế nói theo nghĩa rộng th́ các vị thuốc khổ hàn (đắng lạnh) đều có khả năng tả hạ. Các sản phẩm được gọi là thanh nhiệt không chỉ giới hạn ở các vị thuốc tả hạ như Đại hoàng, Mang tiêu.
“Nhi phản phát hăn giả” (而反发汗者), nếu như không sử dụng phép khổ hàn thanh nhiệt, ngược lại lại cho rằng phát sốt là thuộc biểu tà mà dùng các vị thuốc tân ôn phát hăn như Quế chi, Ma hoàng, việc phát hăn này không giải quyết được t́nh trạng bế uất của dương khí, ngược lại lại tăng thêm nhiệt tà, v́ thế dương khí bị các vị thuốc tân ôn phát hăn biến thành nhiệt khí, nhiệt tà công kích lên trên và miệng bị lở loét. Chứng quyết này không phải là chứng quyết đă đề cập trước đây, chứng quyết này là chứng quyết nghịch sau khi phát sốt, dễ phạm sai lầm phát hăn. Nếu sử dụng nhầm hăn pháp, miệng sẽ bị lở loét.
Điểm thứ hai, chúng ta cùng trải nghiệm, ngay cả phát hăn là không thể, dùng thang Tứ nghịch có thể được không? Loại quyết này thuộc về nhiệt quyết, quyết nặng th́ nhiệt cũng nặng, quyết nhẹ th́ nhiệt cũng nhẹ, là do dương khí bị uất lại không thông suốt, chứng nhiệt quyết như vậy mà điều trị bằng thang Tứ nghịch là không được. Nếu dùng nhầm th́ đó là càng hỗ trợ nhiệt, tay chân quyết nghịch càng tệ hại hơn, thậm chí xuất hiện các chứng trạng như tinh thần hôn ám, nói nhảm. Đă không thể sử dụng thuốc cay ấm để phát hăn, cũng không thể dùng thuốc hồi dương tân ôn (cay ấm), chứng quyết này được dùng phép tả hạ, nên dùng thuốc khổ hàn (đắng lạnh), nếu như đại tiện táo kết, c̣n được dùng một lượng nhỏ Đại hoàng, Mang tiêu, hoặc dùng thang Đại sài hồ. Khi lâm sàng, trước tiên đối với chứng quyết của tay chân quyết lănh, cần phân biệt rơ là hàn quyết hay nhiệt quyết, đây chính là điều kiện tiên quyết của việc điều trị bệnh. Nói theo bệnh ngoại cảm, chứng nhiệt quyết thường phát sốt trước, quyết lănh sau, đương nhiên móng tay của loại quyết này có màu hồng, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch cũng chính là thấy dương mạch mà không thấy âm mạch, có khi mạch dương uất cũng xuất hiện trầm, nhưng là mạch trầm có lực, hoặc trầm hoạt, trâm hoạt mà sác. Căn cứ thiệt chẩn, mạch chẩn, người bệnh c̣n có thể các hiện tượng nhiệt như tâm phiền, khát nước, táo bón, nước tiểu vàng đỏ. Chứng hàn quyết có những hiện tượng hàn như hạ lợi thực phẩm chưa tiêu hoá, hơi lạnh, mạch trầm vi, chất lưỡi nhạt, muốn ngủ. Chỉ khi phân biệt được là hàn quyết hay nhiệt quyết th́ việc điều trị mới có cơ sở và không phạm sai lầm.
336 伤寒病,厥五日,热亦五日,设六日当复厥,不厥者,自愈。厥终不过五日,以热五日,故知自愈。C350
336 Thương hàn bệnh, quyết ngũ nhật, nhiệt diệc ngũ nhật, thiết lục nhật đương phục quyết, bất quyết giả, tự dũ. Quyết chung bất quá ngũ nhật, dĩ nhiệt ngũ nhật, cố tri tự dũ.C350
Điều văn này giảng về quan hệ thắng phục của quyết nhiệt. Nguồn gốc của thương hàn bệnh là quyết âm, v́ quyết âm có hàn quyết và nhiệt quyết. Tay chân quyết nghịch 5 ngày, mà phát sốt cũng 5 ngày, “thiết lục nhật đương phục quyết”(设六日当复厥), thiết là giả thiết, giả như đến ngày thứ 6, nếu âm hàn mạnh, th́ lại quyết lănh trở lại; Nếu không quyết lănh là bệnh tự khỏi. V́, quyết cuối cùng cũng không vượt qua 5 ngày, với quyết nghịch 5 ngày, nhiệt cũng 5 ngày, quyết và nhiệt bằng nhau, âm khí đă thoái lui, hàn tà cũng thoái lui, dương khí khôi phục không thái quá, bệnh không điều trị cũng tự khỏi.
337凡厥者,阴阳气不相顺接,便为厥。厥者,手足逆冷是也。 C351
337 Phàm quyết giả, âm dương khí bất tương thuận tiếp. tiện vi quyết. Quyết giả, thủ túc nghịch lănh thị dă. C351
Hai điều văn này chính là phân tích bệnh cơ (phát sinh, phát triển, biến hoá và kết cục) của chứng quyết lănh.
Khí âm dương có thứ tự, nối tiếp nhau từng cái một, chúng có cơ sở vật chất. Xuất hiện tay chân quyết lănh, khí âm dương không nối tiếp nhau thuận lợi th́ đó là chứng quyết. “Phàm quyết giả” (凡厥者) là bao gồm các loại quyết như hàn quyết, nhiệt quyêt, âm quyết, dương quyết, khí uất quyết, chỉ cần tay chân lạnh quá khuỷu và gối (quyết lănh), cho dù tính chất bệnh khác nhau, th́ bệnh cơ vẫn là khí âm dương không nối tiếp nhau. Tại sao gọi là quyết? Quyết là “Thủ túc nghịch lănh thị dă” (手足逆冷是也) là tay chân nghịch lănh (lạnh ngược lên), không nối tiếp nhau gọi là nghịch, khí âm dương nghịch nhau, tay chân lạnh, v́ thế nghịch là nói một cách tương đối.
V́ sao khí âm dương không nối tiếp nhau?Lấy nhiệt quyết để nói, là dương khí bị hăm vào trong mà không nối tiếp với âm. Lại lấy hàn quyết để làm thí dụ, hàn quyết chính là âm thịnh dương suy, dương khí không ra đến tứ chi, sự nối tiếp của khí âm dương thông qua 12 kinh mạch, đều hỗ tương nối tiếp, hỗ tương liên hệ ở tay chân. Nếu âm dương thiên thịnh thiên suy*, đó là âm dương không nối tiếp, hoặc là dương thịnh th́ cản trở âm, hoặc âm thịnh cản trở dương, nên không thể khai thông, không thể nối tiếp, lúc này sẽ xuất hiện tay chân quyết lănh (lạnh quá khuỷu, gối). V́ thế, nguồn gốc của bệnh tuy rất rộng, nhưng nói trên phương diện bệnh lư, chính là do khí huyết của thủ túc kinh lạc tam âm tam dương đă không nối tiếp với nhau mà thôi.
Đây chính là dùng đạo lư âm dương để tóm tắt bệnh lư phát sinh quyết nghịch. {Thương hàn luận} đối với âm dương có 3 tóm tắt cao độ: Thứ nhất là “Phát nhiệt ố hàn giả, phát vu dương dă; Vô nhiệt ố hàn, phát vu âm dă” (发热恶寒者,发于阳也;无热恶寒者,发于阴也) phát sốt ghét lạnh là bệnh phát ở dương, không phát sốt mà ghét lạnh là bệnh phát ở âm.
Thứ hai là, “Nhược phát hăn, nhược thổ, nhược hạ, nhược vong huyết vong tân dịch, âm dương tự hoà giả, tất tự dũ” (若发汗、若吐、若下、若亡血亡津液,阴阳自和者,必自愈)Bất kể là bệnh ǵ (trúng phong, thương hàn, mọi bệnh, là trị pháp ǵ (hăn, thổ, hạ) gây ra những tổn hại như vong huyết, vong tân dịch chỉ cần âm dương tự hoà là khỏi bệnh. Thứ ba là “Âm dương khí bất tương thuận tiếp, tiện vi quyết. Quyết giả, thủ túc nghịch lănh thị dă” (阴阳气不相顺接,便为厥。厥者,手足逆冷是也) Khí âm dương không nối tiếp nhau thuận lợi là chứng quyết. Quyết là tay chân lạnh ngược lên (quá khuỷu, quá gối)
338 伤寒,脉微而厥,至七八日,肤冷,其人躁无暂安时者,此为藏厥,非为蛔厥也。蛔厥者其人当吐蛔。 今病者静,而复时烦,此为藏寒。蛔上入膈,故烦,须臾复止,得食而呕,又烦者,蛔闻食臭出,其人当自吐蛔。蛔厥者,乌梅丸主之。又主久利方。 C352
338 Thương hàn, mạch vi nhi quyết, chí thất bát nhật, phu lănh, kỳ nhân táo vô tạm an thời giả, thử vi tạng quyết, phi vi hồi quyết dă. Hồi quyết giả kỳ nhân đương thổ hồi. Kim bệnh giả tĩnh, nhi phục thời phiền, thử vi tạng hàn. Hồi thượng nhập cách, cố phiền, tu du phục chỉ, đắc thực nhi ẩu, hựu phiền giả, hồi văn thực xú xuất, kỳ nhân đương tự thổ hồi. Hồi quyết giả, Ô mai hoàn chủ chi. Hựu chủ cửu lợi phương. C352
Phương Ô mai hoàn
Lục lạng Bá Sâm Quế Phụ Tân Hoàng liên nhất cân hàn nhiệt tŕnh
Ô mai khổ tửu tí nhất túc Ngũ thăng mễ hạ khứ hạch chưng
Mễ mai dược mật xử vi hoàn Tiên thực ẩm phục cấm sinh lănh
Ô mai 300 quả Tế tân 6 lạng Can khương 10 lạng Hoàng liên 1 cân Đương quy 4 lạng Phụ tử 6 lạng sao Độc tiêu 4 lạng, bỏ hạt Quế chi 6 lạng Nhân sâm 6 lạng Hoàng nghiệt 6 lạng, giă chung sàng hợp lại dùng, dùng rượu ngâm Ô mai 1 đêm, bỏ hạt, chưng 5 thăng gạo cho chín, giă thành như bùn, hoà vào thuốc, trộn với mật, viên thành hoàn bằng hạt ngô đồng, trước tiên uống 10 viên, ngày 3 lần, tăng dần lên 20 viên. Cấm ăn thực phẩm sống lạnh, nhờn và nặng mùi.
Điều văn này tŕnh bày chứng trạng và phương pháp trị liệu bệnh hồi quyết (hồi là giun).
Ô mai hoàn là phương dược trị bệnh hồi quyết*. Để mọi người hiểu rơ hơn về bệnh hồi quyết, Trương Trọng Cảnh sử dụng phương pháp so sánh giữa tạng quyết và hồi quyết. Mở đầu là miêu tả bệnh tạng quyết của quyết âm và tiến hành phân biệt với bệnh hồi quyết.
“Thương hàn, mạch vi nhi quyết, chí thất bát nhật, phu lănh, kỳ nhân táo vô tạm an thời giả, thử vi tàng quyết, phi vi hồi quyết dă” (伤寒,脉微而厥,至七八日肤冷,其人躁无暂安时,此为脏厥,非为蛔厥也), đây là một đoạn. Nguồn gốc của bệnh là thương hàn, “mạch vi nhi quyết” (脉微而厥) (mạch vi là biểu hiện của dương hư, quyết lănh là biểu hiện của âm thịnh) là phản ảnh của dương hư mà âm thịnh, v́ thế tay chân quyết lănh. Sau 7,8 ngày, hàn tà tăng lên, dương khí càng thêm hư yếu suy thoái, không chỉ tay chân quyết lănh mà tất cả da thịt cũng đều lạnh.
“Kỳ nhân táo vô tạm an thời” (其人躁无暂安时), táo là tự ḿnh vội vàng bất an, “vô tạm an thời giả” (无暂安时者) là mức độ bất an không chỉ trong chốc lát. “Thử vi tạng quyết” (此为脏厥), đây là thuộc về tạng quyết của quyết âm, “Phi hồi quyết dă” (非蛔厥也)không phải bệnh hồi quyết. “Kỳ nhân đương thổ hồi”( 其人当吐蛔), trong bài này có hai chữ “Đương”, có hai cách nói có liên quan đến chữ “Đương” , một là dùng như chữ “thường” thường thường, người này không chỉ thổ ra giun từ khi bị bệnh, mà trước cũng thường thổ ra giun; Cách thứ hai là chữ “đương” có nghĩa như ứng đương (cần phải), xác định là bệnh hồi quyết th́ người này cần phải thổ ra giun. Chứng quyết của hồi quyết khác với chứng quyết của tạng quyết, chứng quyết của tạng quyết chủ yếu là chứng quyết nghịch ở tay chân, chứng quyết của hồi quyết là chứng quyết của thổ nghịch, thổ ngược ra rất tệ hại. Ngoài ra, tay chân của chứng hồi quyết cũng quyết nghịch, nhưng không chắc chắn, không thường xuyên. Kết hợp với chứng giun ống mật của y học cận đại để xem xét, chứng hồi quyết đau tệ hại, chân tay quyết lănh, nhưng chứng trạng chủ yếu là ẩu thổ.
“Linh bệnh giả tĩnh, nhi phục thời phiền, thử vi tạng hàn, hồi thượng nhập cách, cố phiền” (令病者静,而复时烦,此为脏寒,蛔上入膈,故烦).
“Linh” (令), chữ này được dùng trong {Ngọc hàm kinh}, chữ “Linh” cũng được dùng trong bản của họ Triệu.
Bệnh nhân có lúc vội vàng, có lúc an tĩnh, không cùng dạng với chứng không tạm thời an tĩnh của chứng tạng quyết. “Thử vi tạng hàn”, “tạng” ở đây là chỉ về dạ dày và ruột. Giun là một loại kư sinh trùng, có thói quen thích ấm áp và ghét lạnh, là tránh lạnh thích gần ấm nóng mà “thượng nhập cách, cố phiền” (lên hoành cách nên bực bội khó chịu. “Tu du phục chỉ”, “tu du” là một khoảng thời gian ngắn, một thời gian không lâu nó dừng lại và người bệnh sẽ không bực bội. “Đắc thực nhi ẩu, hựu phiền giả, hồi văn thực xú xuất” (得食而呕,又烦者,蛔闻食臭出), nếu như ăn vào lại ẩu thổ, lại xuất hiện bực bội bất an, đây chính là giun ngửi thấy mùi thực phẩm, lại tái hoạt động, v́ thế “kỳ nhân đương tự thổ hồi” (其人当自吐蛔), người bệnh lại bực bội, lại ẩu thổ ra giun, lại buồn nôn.
Đối với chứng hồi quyết, cần sử dụng Ô mai hoàn để điều trị, đây là phương thuốc chủ trị bệnh cửu lợi (đi tả lâu ngày) .
Cửu lợi là chứng đi tả lâu ngày không khỏi. Ô mai hoàn gồm các thành phần Ô mai 300 quả, Tế tân 6 lạng, Can khương 10 lạng, Hoàng liên 1 cân, Đương quy 4 lạng, Phụ tử 6 lạng, Độc tiêu, Quế chi, Nhân sâm, Hoàng bá đều 6 lạng, tổng cộng là 10 vị. Phương này dùng Ô mai làm chủ dược nên gọi là Ô mai hoàn. Phương dược có hai tác dụng, một là trị chứng hàn nhiệt hỗn tạp của quyết âm bệnh, do dương khí của can bị ức uất đên một mức độ nhất định, uất tích mà phát các hội chứng của bài thứ nhất “Tiêu khát, khí thượng chàng tâm, tâm trung đông nhiệt” (消渴,气上撞心,心中疼热); Thứ hai là dùng điều trị chứng hồi quyết. Can thể âm nhi dụng dương*, can thể âm là chỉ về tạng can trữ tàng huyết dịch mà huyết là âm; Dụng dương là chỉ về tạng can chủ sơ tiết (điều tiết tinh thần và công năng hoạt động của các tạng khác), dưới sự ức chế của hàn tà, khí của mộc hoả bốc lên, bệnh phát gồm các hội chứng “Tiêu khát, khí thượng chàng tâm, tâm trung đông nhiệt” (消渴,气上撞心,心中疼热). Thể âm của can không đủ, v́ thế dùng Ô mai vị chua nhập can, giữ ǵn can âm, liễm khí của can; Đương quy ngọt nhuận có hương thơm nhẹ, có tác dụng bổ máu nuôi âm, cùng với vị Ô mai cùng có tác dụng dưỡng can âm, là bổ thực thể cho can. Hoàng liên, Hoàng bá vị đắng dùng để giúp can sơ tiết. Hoang liên, Hoàng bá đều là những vị thuốc đắng lạnh, có đủ khả năng tả hoả, có thể trị chứng “Khí thượng chàng tâm, tâm trung đông nhiệt” (khí bốc lên tim, tim đau và nóng), phép trị bệnh này và phép trị Thiếu âm bệnh không giống nhau. Thiếu âm bệnh dương hư tuyệt đối không sử dụng thuốc khổ hàn, Quyết âm bệnh th́ có thể dùng, tại sao? Một là bệnh ở thận, một là bệnh ở can. Các vị thuốc như Phụ tử, Tế tân, Quế chi đều là thuốc cay ấm, sao Phụ tử có tác dụng bổ dương và giữ lại (bổ nhi hữu thủ), không như vị Phụ tử sống trong bổ có phát tán (bổ trung hữu phát). Quyết âm bệnh là dương khí hư tổn, Quế chi và Tế tân có tác dụng tán hàn, Phụ tử bổ dương, Quế chi, Tế tân tán hàn tà trong kinh lạc, Nhân sâm bổ trung ích khí. Quyết âm bệnh là một chứng hàn nhiệt hỗn hợp, trọng điểm ở kinh Can, v́ thế gia thêm một vài vị thuốc nóng, thuốc bổ dương, tán hàn, các vị thuốc đi kèm với nhau.
Trong bệnh của 5 kinh trước đây, từ kinh Thái dương đến kinh Thiếu âm, Dược lư đều không có vị Đương quy
Chỉ khi đến kinh Quyết âm, trong Ô mai hoàn mới có vị Đương quy, ở phần dưới có vị Đương quy trong thang Tứ nghịch gia Đương quy. Đây không phải là hiện tượng ngẫu nhiên. V́ vị Đương quy ngọt nhuận (ướt), có mùi thơm nhẹ, có khả năng dưỡng huyết, nhập vào gan, v́ thế chỉ khi đến quyết âm can kinh th́ mới có chứng và vị thuốc này.
Người viết cho rằng uống Ô mai hoàn không chỉ đơn thuần là tẩy giun, xổ giun mà c̣n có thể diệt giun đũa. Độc tiêu và Tế tân đóng vai tṛ đáng kể trong việc tiêu diệt côn trùng nhờ tác dụng làm tê liệt, không chỉ giun đũa mà cả những con rết ḅ trên mặt đất cũng rất hiệu quả. Nghe nói y học Trung Quốc có một số bài thuốc cấp cứu, ví dụ rắn vào miệng, đuôi ở ngoài không rút ra được, bèn khoét một lỗ trên đuôi rắn, rắc bột hoa tiêu vào. Hoặc nhét hạt hoa tiêu vào lỗ đă khoét, và con rắn rút đi. Sau khi mua được Nhân sâm tốt để giữ cho sâm không bị hư mọt, người ta hun Nhân sâm bằng Lưu hoàng sau đó để vào hộp kín chung quanh để thêm vị Tế tân, làm như thế vào mùa hè Nhân sâm không bị mọt. Hiện nay Trung Tây y kết hợp dùng Ô mai hoàn không phức tạp như vậy, phần lớn người ta chi dùng 4 vị gồm Ô mai, Hoàng liên, Xuyên tiêu, Cam thảo để trị giun ở ống mật, hiệu quả rất tốt.
“Thượng thập vị, dị đảo sư, hợp trị chi, dĩ khổ tửu tứ ô mai nhất túc” (上十味,异捣筛,合治之,以苦酒渍乌梅一宿), khổ tửu là giấm, dùng khổ tửu ngâm Ô mai 1 đêm. Tại sao phải dùng khổ tửu?
V́ Ô mai là một loại quả khô có hạt, v́ thế cần phải ngâm ô mai vào giấm th́ thịt ô mai sẽ tróc ra để có thể bỏ hạt. “Chưng chi ngũ thăng mễ hạ”( 蒸之五升米下) Hấp 5 thăng gạo, chín thành cơm, trộn cơm chung với thuốc giă nhuyễn như bùn, v́ thế trong hoàn Ô mai có cơm. “Hoà dược linh tương đắc, nội cữu trung, dữ mật” (和药令相得,内臼中,与蜜)cho thuốc vào cối với mật, giă 3000 chày làm viên bằng hạt ngô đồng, uống trước ăn, bụng trống uống 10 viên, ngày 3 lần, tăng dần lên 20 hoàn, cấm ăn thực phẩm sống lạnh, mỡ màng, nặng mùi… Người xưa cho rằng, v́ có giun đũa nên phải dùng cơm và mật ngọt để dụ và diệt chúng. Cơm có thể hoà trung dưỡng vị khí. Ô mai hoàn điều trị rất tốt chứng hàn nhiệt hỗn tạp của Quyết âm bệnh, điều hoà chỉnh lư can vị bất hoà. Hiệu quả cũng rất tốt, thường dùng để trị chứng ẩu thổ, đau dạ dày, hạ lợi do can vị bất hoà gây ra.
Ô mai hoàn laij chủ trị chứng cửu lỵ (kiết lỵ lâu ngày), Ô mai hoàn lại có tác dụng toan liễm, lại có thêm Phụ tử, Nhân sâm, v́ thế các chứng như kiết lỵ lâu ngày không khỏi, hàn nhiệt hỗn tạp, tạng phủ lạnh ấm, hạ tiêu không ước thích (chắc chắn) đều thích hợp sử dụng Ô mai hoàn.
Tạng quyết là nói về chứng tạng hàn của Quyết âm, dương khí sắp mất, v́ thế mạch vi, quyết lănh, thậm chí da thịt lạnh lẽo, vật vă mà không bực bội “hữu táo vô phiền” (有躁而无烦) đây là bệnh cực kỳ nguy hiểm.
Hồi quyết cũng bực bội, nhưng chính là có lúc bực bội có lúc không, hồi quyết tay chân bệnh nhân cũng lạnh, nhưng không nghiêm trọng, chủ yếu là bệnh nhân ẩu thổ, hoặc nôn ra giun, đồng thời bệnh nhân có đặc điểm là khi ăn chút ǵ đó, “Hồi văn thực xú xuất, kỳ nhân đương tự thổ hồi” (蛔闻食臭出,其人当自吐蛔) Giun ngửi thấy mùi hôi thức ăn ḅ ra, bệnh nhân thường thổ ra giun, {Thương Hàn Luận} “Hồi văn thực xú xuất” (蛔闻食臭出) Giun ngửi mùi thực phẩm ḅ ra, câu thoại này tạo điều kiện cho hậu thế dùng làm phương pháp điều trị bệnh giun, Ví dụ, một số loại thuốc trị giun đũa trong “Phổ Tế Phương” được uống kèm với thịt thủ lợn, có khi là một số trái cây, và một chút dầu mè, để “làm theo ư thích của giun” là mồi để giun có thể ăn thuốc.
Trong {Nho Môn Sự Thân}có một y án, nói về nông thôn đánh chó dại, năo của chó dại văng lên ngọn cây, lúc này thời tiết rất nóng bức, có một phụ nữ bị bệnh kư sinh trùng đi ngang để về nhà mẹ ruột, các con trùng trong ngươi phụ nữ này xôn xao và người phụ nữ này đi tới đi lui, và đến sát cái cây có năo của chó dại, năo chó dưới nắng nóng bốc mùi, người phụ nữ ngửi rất khó chịu chóng mặt ngă ra, cô có cảm giác như có vật ḅ lên, gọi là “Hồi văn thực xú xuất” (蛔闻食臭出) Giun ngửi thấy mùi thực phẩm th́ ḅ ra, một con giun ḅ ra, theo ghi chép lại th́ con giun có màu hồng, nó tiến nhanh về hướng có năo chó dại, người phụ nữ nhanh chóng giẫm chết con trùng.
Có rất nhiều ghi chép như vậy, và các phương pháp điều trị của người xưa rất phong phú và nhiều màu sắc.
Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-14 22:45:48
Từ điều 339 đến 351
339 伤寒,热少厥微,指头寒,默默不欲食,烦躁数日,小便利, 色白者,此热除也,欲得食,其病为愈。若厥而呕,胸胁烦满者,其后必便血。C353
339 Thương hàn, nhiệt thiểu quyết vi, chỉ đầu hàn, mặc mặc bất dục thực, phiền táo số nhật, tiểu tiện lợi, sắc bạch giả, thử nhiệt trừ dă, dục đắc thực, kỳ bệnh vi dũ. Nhược quyết kỳ ẩu, hung hiếp phiền măn giả, kỳ hậu tất tiện huyết. C353
Bài viết này tŕnh bày chiều hướng phát triển và kết cục của khinh chứng nhiệt quyết và chứng quyết nhiệt thắng phục*
Tay chân quyết lănh tương đối nhẹ, phát sốt cũng ít, gọi là nhiệt thiểu quyết vi. Quyết vi là như thế nào? “Chỉ đầu hàn” là lạnh ở đầu ngón tay, hàm ư là bàn tay không lạnh, chỉ có lạnh nhẹ ở đầu ngón tay. “Mặc mặc bất dục thực, phiền táo số nhật” (默默不欲食,烦躁数日), Quyết âm và Thiếu dương là biểu lư, bệnh lư của Thiếu dương có lặng lẽ không muốn ăn, tại sao quyết âm cũng có chứng trạng này? V́ can đảm nối liền với nhau, v́ thế khí của can đảm bị uất và bị nóng cũng mặc mặc bất dục thực (không nói năng không có nhu cầu ăn uống), có một chút bực bội, bực bội là hiện tượng có nhiệt. “Tiểu tiện lợi, sắc bạch giả, thử nhiệt trừ dă”, (Tiểu tiện dễ dàng, màu nước tiểu trắng là nhiệt đă loại trừ) có nghĩa là khi mặc mặc bất dục thực (bạn không thèm ăn) cáu gắt bực bội trong vài ngày th́ nước tiểu sẽ có màu vàng, phản ảnh là có nhiệt.. “Chỉ đầu hàn”(lạnh ở đầu ngón tay) là phản ảnh chứng quyết nhẹ, “Mặc mặc bất dục thực, phiền táo số nhật”, nước tiểu vàng là phản ảnh có nhiệt. Nếu như tiểu tiện thuận lợi, màu nước tiểu không vàng, biến thành màu trắng, nhiệt của người bệnh này đă được trừ khứ rồi.
“Dục đắc thực” Muốn được ăn, vị khí đă hoà , “kỳ bệnh vi dũ”, sẽ khỏi bệnh, v́ là chứng quyết nhẹ, v́ chỉ lạnh ở đầu ngón tay; Ngoài ra lại xuất hiện tiểu tiện thuận lợi, màu nước tiểu trắng, nhiệt đă được trừ khứ, bệnh sẽ biến chuyển tốt. V́ thế, khi chúng ta điều trị bệnh ở ba kinh âm, vấn đề then chốt là bệnh nhân có ăn uống được hay không.
“Nhược quyết nhi ẩu, hung hiếp phiền măn giả, kỳ hậu tất tiện huyết” (若厥而呕,胸胁烦满者,其后必便血)nếu quyết lănh và ẩu thổ, đầy trướng khó chịu ở ngực sườn, sau đó phân sẽ có máu, nếu không như vậy th́ lại là suy luận rồi. “Nhược quyết nhi ẩu” quyết là tay chân quyết nghịch, ẩu là vị khí thượng nghịch *trào ngược dạ dày) “Hung hiếp phiền măn giả” (Ngực sườn trướng đầy khó chịu) là phản ảnh của tà khí uất kết ở can đảm, khí cơ không thư sướng. Tạng can chủ tàng trữ huyết dịch, tà nhiệt uất kết ở can đảm không được giải trừ, v́ thế “tất tiện huyết”(tất sẽ đại tiện ra máu). Quyết âm bệnh và Thiếu dương chứng có một số liên quan, như trướng đầy ở ngực sườn, ẩu thổ, không thiết ăn uống, những chứng trạng này đă thể hiện có quan hệ biểu lư với Thiếu dương. Phàm khi xuất hiện Thiếu dương chứng th́ đều có nhiệt, đây chính là một quy luật, v́ Thiếu dương là bệnh của kinh dương, bệnh của kinh dương th́ thuộc dương, có nhiệt, “mặc mặc bất dục thực, phiền táo số nhật” (không muốn ăn, bực bội một số ngày) điều này cho thấy có nhiệt. “Quyết nhi ẩu, hung hiếp phiền măn, kỳ hậu tất tiện huyết”, cũng cho thấy có nhiệt. Nếu Quyết âm bệnh xuất hiện Thiếu dương chứng, đó chính là đă hoá nhiệt.
340 病者手足厥冷,言我不结胸,小腹满,按之痛者,此冷结在膀胱关元也。 C354
340 Bệnh giả thủ túc quyết lănh, ngôn ngă bất kết hung, tiểu phúc măn, án chi thống giả, thử lănh kết tại bàng quang Quan nguyên dă. C354
Bài văn này thảo luận về hội chứng của lạnh kết tụ tại bàng quang Quan nguyên và kinh, tạng của Quyết âm đều lạnh.
“Ngôn ngă bất kết hung” Là khi thấy tay chân bệnh nhân lạnh th́ hỏi xem bệnh nhân dưới tim có bị đau hay không, nếu hỏi theo một số chứng trạng của chứng kết hung, bệnh nhân có thể “Ngôn ngă bất kết hung”(Tôi không bị kết hung).
“Tiểu phúc măn, án chi thống”(Bụng dưới bị đầy, ấn vào thấy đau), cũng không có hội chứng tích tụ nước hoặc máu. Văn tự thời Hán rất ngắn gọn, nói tôi không tích tụ máu, cũng không tích tụ nước, là những chứng trạng trên đă được loại trừ, không có các thực chứng, nhiệt chứng, tích tụ nước, tích tụ huyết như vậy. Tay chân quyết lănh, bụng dưới trướng đầy, ấn vào th́ đau, mạch trầm vi, “thử lănh kết bàng quang Quan nguyên dă”, đây là hàn tà kết tụ tại bàng quang và Quan nguyên. Đối với bài văn này cũng có tranh luận, có người cho rằng biện chứng lục kinh của Trương Trọng Cảnh căn bản là không có cơ sở, quyết âm là can kinh, hiện tại hàn đă kết tại bàng quang và Quan nguyên rồi, bàng quang chính là túc Thái dương bàng quang, can kinh sao lại hiểu như thuật ngữ đă có của túcThái dương bàng quang? V́ thế chỉ cần dùng câu này để phủ nhận tính thực tế của lục kinh. Loại lư thuyết này quá máy móc, v́ quyết âm đi từ dưới lên đến bụng dưới, v́ thế khi kinh can bị lạnh sẽ xuất hiện bụng dưới bị đau, hiện nay chúng ta gọi là chứng hàn trệ trong can mạch, Trương Trọng cảnh gọi là lạnh kết tại bàng quang Quan nguyên, cũng có thể nói kinh và tạng đều có hàn tà.
Trước đây khi nói về tay chân quyết lănh đều có ư nói về chứng hạ lợi (tiết tả), thường đều có liên quan với tỳ vị hư hàn. Duy chỉ ở bài này chỉ ra rằng “Lănh kết tại bàng quang Quan nguyên dă”, nói loại tay chân quyết lănh, bụng dưới trướng đầy này là thuộc về chứng hàn lănh kết tại bàng quang Quan nguyên, chính là hàn lănh trệ kết ở can kinh. Trương Trọng Cảnh không đề cập đến trị pháp, thang Đương quy tứ nghịch hoặc Đương quy tứ nghịch gia Ngô thù du Sinh khương, có thể dùng trị liệu bệnh như vậy. Mạch tế dục tuyệt có thể dùng thang Đương quy tứ nghịch, bụng dưới hàn lănh có thể gia Ngô thù du Sinh khương.
341 伤寒发热四日,厥反三日,复热四日,厥少热多,其病当愈。四日至七日,热不除者,其后必便脓血。 C355
341 Thương hàn phát nhiệt tứ nhật, quyết phản tam nhật, phục nhiệt tứ nhật, quyết thiểu nhiệt đa, kỳ bệnh đương dũ. Tứ nhật chí thất nhật, nhiệt bất trừ giả, kỳ hậu tất tiện nùng huyết. C355
Bài văn này tŕnh bày các biến chứng của Quyêt âm bệnh như dương phục (trở lại) mà khỏi bệnh và dương phục thái quá mà không khỏi bệnh. Dương phục là hiện tượng tốt, nhưng nếu phục thái quá là xuất hiện trạng thái bệnh. “Thương hàn phát nhiệt tứ nhật, quyết phản tam nhật, phục nhiệt tứ nhật, quyết thiểu nhiệt đa, kỳ bệnh đương dũ. Tứ nhật chí thất nhật, nhiệt bất trừ giả, kỳ hậu tất tiện nùng huyết.” (伤寒发
热四日,厥反三日,复热四日,厥少热多,其病当愈。四日至七日,热不除者,其后必便脓血。) Đây là xem xét t́nh trạng thắng phục và số ngày của chứng nhiệt quyết, con số ba ngày, bốn ngày, bảy ngày chỉ là con số đại khái, không phải là con số chính xác, chúng ta nên hiểu theo tinh thần như vậy, trọng tâm của sự hiểu biết là ở cơ chế của quá tŕnh âm dương tiêu trưởng, âm dương thắng phục. Thương hàn phát nhiệt là 4 ngày, quyết lănh là 3 ngày, lại sốt, đợi quyết lănh 3 ngày rồi lại phát nhiệt 4 ngày, đó là 4 so với 3, đây chính là quyết lănh ít phát nhiệt nhiều, dương khí đă hồi phục. Quyết lănh thay mặt cho hàn, hàn tà đă không có năng lực, v́ thế bệnh sắp khỏi. Nếu như nhiệt từ 4 ngày kéo dài đến 7 ngày chưa hết, nhiệt không hạ. Nếu không khỏi sốt từ bốn đến bảy ngày, không hết sốt mà tiếp tục, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, đến bảy ngày đầu vẫn nóng. Đây là Dương phục quá nhiều, nếu không giảm nhiệt sẽ ảnh hưởng đến công năng sơ tiết của gan, âm sẽ bị tổn hại, xuất hiện bệnh kiết lỵ phân có máu mủ.
342 伤寒厥四日,热反三日,复厥五日,其病为进,寒多热少,阳气退,故为进也。 C356
342 Thương hàn quyết tứ nhật, nhiệt phản tam nhật, kỳ bệnh vi tiến, hàn đa nhiệt thiểu, dương khí thoái, cố vi tiến dă. C356
Bài văn này so sánh với bài trên, tŕnh bày quyết âm bệnh âm thịnh dương suy là bệnh tăng nặng, hoàn toàn trái ngược với bài văn kế bên trên, bài này nói về chứng âm hàn rất mạnh, dương khí không đủ. “Thương hàn”, bệnh này là do thương hàn; “Quyết tứ nhật” (厥四日) tay chân quyết lănh 4 ngày, sau đó nhiệt cũng nên kéo dài 4 ngày, “nhiệt phản tam nhật” (热反三日) , nhiệt lại ít hơn 1 ngày. Sau khi phát nhiệt 3 ngày, tay chân lại quyết lănh, mà lại quyết lănh đến 5 ngày. “Kỳ bệnh vi tiến” Đây là biểu hiện của bệnh đă phát triển, thay đổi theo chiều hướng nặng dần. Tại sao? Trương Trọng Cảnh nói, “hàn đa nhiệt thiểu”, quyết lănh có nhiều hàn rồi và thời gian phát nhiệt ít hơn, điều này phản ánh rằng dương khí suy thoái và hàn tà tăng tiến, “cố vi tiến dă” (故为进也) Bệnh đang tăng nặng. Hai bài này, một bài là nhiệt nhiều hàn ít, một bài là hàn nhiều nhiệt ít, hăy so sánh chúng với nhau.
343 伤寒六七日,脉微,手足厥冷,烦躁,灸厥阴,厥不还者,死。 C357
343 Thương hàn lục thất nhật, mạch vi, thủ túc quyết lănh, phiền táo, cứu quyết âm, quyết bất hoàn giả, tử. C357
Bài này tŕnh bày chứng chết của Quyết âm bệnh âm thịnh vong dương.
Bắt đầu từ bài này Trương Trọng Cảnh từ các góc độ, hội chứng khác nhau để nêu ví dụ, phân tích thuyết minh 6 bài viết về chứng chết. “Thương hàn lục thất nhật, mạch vi, thủ túc quyết lănh”, thương hàn đă sáu, bảy ngày, nếu như bệnh vào đến quyết âm, dương hư hàn thịnh, sẽ có mạch vi, mạch vi chủ về dương hư, mạch tế chủ doanh hư, mạch vi là dương hư nhược, mạch tế tế là âm hư nhược, dương hư hàn thịnh nên tay chân quyết lănh. “Phiền táo”, phiền là một chứng trạng của tinh thần, táo là một hội chứng của cơ thể, là tinh thần và thân thể phiền táo bất an. Phiền táo nhiệt tính thuộc về dương khí hữu dư (có thừa) dương khí phấn khích, đại biểu cho nhiệt chứng của dương thịnh, hiện ở bài này là mạch vi, phiền táo của quyết lănh, thuộc về dương hư.
Mạch vi, tay chân phiền táo quyết lănh, chính là dương hư âm thịnh, âm đến đoạt dương phát sinh phiền táo. Nhiệt bệnh phiền táo, phản ảnh là dương khí hữu dư, nhiệt tà mạnh. Can khương Phụ tử thang chứng của thiên Thái dương: “Trú dạ phiền táo bất đắc miên, dạ nhi an tĩnh, bất ẩu, bất khát, vô biểu chứng, mạch trầm vi, thân vô đại nhiệt giả, Can khương Phụ tử thang chủ chi.” Cũng chính là phiền táo. Phiền táo gặp dưới hội chứng của âm hàn, luôn có sự nguy hiểm của vong dương, cần phải chú ư hơn. Tay chân quyết lănh, mạch vi mà phiền táo, chính là dương khí hư tổn cực độ và âm hàn mạnh cực độ, uống thuốc là bất cập, cứu Quyết âm, để bổ dương khí cho Quyết âm, tiêu trừ âm hàn của Quyết âm. Quyết lănh không hết là bệnh nguy hiểm dẫn đến tử vong. V́ thế mạch vi, tay chân quyết lănh là biểu hiện của hội chứng nguy hiểm là dương hư hàn thịnh, phiền táo vong dương, dương vong mà âm lấn át, nên tích cực cứu Quyết âm.
Cứu ở chỗ nào? Có người cho rằng nên cứu huyệt Thái xung, cũng có ư kiến là cứu Đại đôn, cũng có người cho rằng cứu ở Khí hải, Quan nguyên, cũng không ngoài các ư kiến vừa nêu. Cứu Khí hải, Quan nguyên ở bụng dưới, cứu Thái xung ở mu bàn chân, cứu ở vùng mọc lông của ngón chân cái (gọi là tam mao là đốt ngón chân thứ hai) là điểm bắt đầu của kinh can huyệt Đại đôn. Cứu để theo dương, cứu để bồi bổ, châm thích để tả (bỏ bớt). Học xong bài văn này, chúng ta cần nâng cao nhận thức, trên lâm sàng gặp bệnh nhân tay chân quyết lănh dương hư hàn thịnh nếu như kèm theo phiền táo (bực bội) là biểu hiện của t́nh trạng bệnh nghiêm trọng.
344伤寒发热,下利,厥逆,躁不得卧者,死。C358
344 Thương hàn phát nhiệt, hạ lợi, quyết nghịch, táo bất đắc ngoạ giả, tử. C358
Bài văn này tŕnh bày hội chứng tử vong của quyết âm bệnh âm cực dương vong (âm cực độ và mất dương)
Đầu tiên là quyết nghịch mà hạ lợi (tiết tả), sau đó lại phát nhiệt là biểu hiện của dương khí trở lại, đây chính là âm bệnh thấy dương chứng, là hiện tượng tốt. Dương khí khôi phục, quyết lănh và hạ lợi đều theo đó được giải trừ. Ngược lại là , đầu tiên là bệnh nhân phát nhiệt, sau đó là quyết nghịch hạ lợi, không giống với trường hợp ở trên là hạ lợi quyết nghịch trước, sau đó xuất hiện phát nhiệt. Đây là biểu hiện từ dương biến thành âm, là chứng âm hàn. Trên một phương diện khác, chứng phát nhiệt đồng thời với quyết nghịch hạ lợi không ngừng được, là biểu hiện của lư hàn ngoại nhiệt (trong lạnh ngoài nóng). Lư hàn (bên trong lạnh) một là mạch vi, hai là hạ lợi quyết nghịch, đây chính là cách dương, là dương khí trôi nổi ở bên ngoài. Loại phát nhiệt này theo dương chuyển âm cũng được, hoặc là hạ lợi quyết nghịch mà xuất hiện phát nhiệt th́ cũng được, đều thuộc về chứng âm hàn rất mạnh mà dương khí hư yếu nhỏ bé, đây là một bệnh cực kỳ nghiêm trọng, với cục diện nghiêm trọng như vậy lại xuất hiện “Táo bất đắc ngoạ” táo là chân tay vùng vẫy không yên, “bất đắc ngoạ” cũng là không thể ngủ. Táo là một hội chứng, bất đắc ngoạ (không nằm được) là mổ mức độ, chính là nói về táo động đến mức không thể nằm, đây là mức độ táo động rất nặng, phản ảnh dương khí đă hết, âm khí không có chỗ phối ngẫu, v́ thế âm táo động, táo động không thể nằm, đây là hội chứng tử vong.
Phát nhiệt có sự khác biệt là dương phục và dương vong. Chứng phát nhiệt của dương khôi phục là hiện tượng tốt, chứng quyết nghịch và chứng hạ lợi tự ngừng lại. Chứng phát nhiệt của vong dương là chứng hạ lợi và quyết nghịch không ngừng lại, đây chính là bên trong lạnh và bên ngoài nóng (lư hàn ngoại nhiệt), nếu như lại xuất hiện bệnh nhân táo động bất đắc ngoạ (vẫy vùng không thể ngủ) đó là âm khí độc thịnh, dương khí đă hết, âm khí không được phối với dương khí, loại táo động này gọi là âm táo, không có dương, là hội chứng tử vong, v́ thế chứng quyết nghịch e ngại chứng táo động, thấy táo động là thấy điều bất hạnh.
345伤寒发热,下利至甚,厥不止者,死。 C359
345 Thương hàn phát nhiệt, hạ lợi chí thậm, quyết bất chỉ giả, tử. C350
Bài văn này tŕnh bày hội chứng tử vong của chứng hạ lợi tệ hại do âm thịnh vong dương.
“Thương hàn phát nhiệt” không phải do dương khí khôi phục, mà do dương khí vượt ra ngoài, cũng chính là chứng nóng ở bên ngoài của chứng lạnh bên trong nóng bên ngoài (lư hàn ngoại nhiệt), nhiệt này gọi là dương vô căn. Dương ở bên ngoài là dương vô căn. Bên trong hàn quá mạnh, âm hàn xô đẩy dương ra ngoài, v́ thế phát nhiệt. “Hạ lợi chí thậm, quyết bất chỉ giả” (下利至甚,厥不止者), là nói đă quyết nghịch hạ lợi c̣n phát nhiệt, đây chính là hội chứng của tử vong. “Hạ lợi chí thậm”, (tiết tả đến mức độ tệ hại) một là phản ảnh cực điểm của âm hàn, hai là phản ảnh tạng khí không kiên cố. “Quyết bất chỉ giả”, chân tay lạnh giá không ngừng, không có một chút ấm áp. Quyết nghịch không ngừng, chính là không c̣n nữa, không c̣n và không ngừng có ư nghĩa như nhau, cũng chính là dương khí không tiếp tục, người sống có bàn tay của người chết, khi chạm vào chỉ thấy lạnh lẽo, đây chính là hội chứng tử vong. Chứng lư hàn ngoại nhiệt của thiên Thiếu âm bệnh chẳng phải cũng có hội chứng này sao? Cuối cùng dùng thang Bạch thông gia Nhân niệu, Trư đảm trấp để điều trị, “mạch bạo xuất giả tử, vi tục giả sinh” (脉暴出者死,微续者生) Mạch mạnh bạo th́ chết, mạch tiếp tục vi th́ sống, đó cũng chẳng rất nghiêm trọng sao?, ở bài đó bệnh c̣n nhẹ, c̣n có thể điều trị, ở bài văn này một cái chính là “hạ lợi chí thậm”, một cái là “Quyết nghịch bất chỉ”, càng nặng hơn.
Vong dương có hai loại t́nh huống, một loại là vong thất (mất mát), một loại là diệt vong. Dương khí mất mát có thể điều trị, dùng thang Tứ nghịch; Dương khí đă bị diệt vong th́ không c̣n phép trị liệu. Vong dương ở đây chính là dương khí bị diệt vong. Bài này nhắc nhở chúng ta trên lâm sàng nếu thấy mạch vi, tay chân lạnh, hạ lợi, hiện tượng âm thịnh cách dương, tức là đă có chứng vong dương nghiêm trọng, đó là hội chứng cách dương, đái dương nguy hiểm.
346 伤寒六七日,不利,便发热而利,其人汗出不止者,死。有阴无阳故也。 C360
346 Thương hàn lục thất nhật, bất lợi, tiện phát nhiệt nhi lợi, kỳ nhân hăn xuất bất chỉ giả, tử. Hữu âm vô dương cố dă. C360
Bài này tŕnh bày hội chứng tử vong của chứng âm thịnh vong dương xuất hăn không ngừng.
“Thương hàn lục thất nhật, bất lợi”, 6,7 ngày trước c̣n chưa bị chứng tiết tả, 6,7 ngày sau xuất hiện chứng phát nhiệt và tiết tả, có ư nghĩa là nội hàn ngoại nhiệt, phát nhiệt thuộc về chứng cách dương, chứng tiết tả thuộc lư hàn, tóm tắt chứng trạng như vậy gọi là “tiện phát nhiệt nhi lợi”. Bản chất là bên trong hàn lănh, phát nhiệt là giả tượng, chính là âm thịnh cách dương, dương khí vô căn (không có gốc) mà phù du (trôi nổi) ở ngoài, nếu như lúc này người bệnh xuất mồ hôi không ngừng th́ sẽ chết. Quan sát trên lâm sàng, có người khi chết toàn thân xuất mồ hôi, gọi là tiết thi hăn (thây ma tiết mồ hôi), nguyên nhân do vong dương; Có người trước khi chết th́ đại tiện, là do đại khí hạ hăm; Có người lên cơn suyễn trước khi chết, đó là dương khí vượt lên trên. “Bất tri kỳ sinh. Yên tri kỳ tử” (Không biết sự sống, sao biết được sự chết). Bài này cảnh báo chúng ta, phàm là bệnh cách dương đều sợ xuất hăn, xuất hăn là dấu hiệu nguy hiểm đến tính mệnh, thời gian người viết c̣n học việc một lương y cao tuổi, khi ông ta khám bệnh một bệnh nhân lớn tuổi dương hư, liền hỏi bệnh nhân có xuất hăn hay không, có khi vị lương y dùng tay sờ vào bệnh nhân, ông ta rất sợ bệnh nhân xuất hăn, tại sao vậy? v́ xuất hăn là vong dương. Phải dùng Sâm phụ thang, Tứ nghịch thang, Lục vị hồi dương ẩm, nhanh chóng bảo hộ căn bản của dương khí, khiến dương khí không bay mất.
347 伤寒五六日,不结胸,腹濡,脉虚,复厥者,不可下,此为亡血,下之死。 C361
347 Thương hàn ngũ lục nhật, bất kết hung, phúc nhu, mạch hư, phục quyết giả, bất khả hạ, thử vi vong huyết, hạ chi tử. C361
Bài này tŕnh bày mạch chứng và cấm kỵ trị liệu của Quyết âm bệnh huyết hư dẫn đến chứng quyết nghịch.
Bài này có ư nghĩa tương đồng với câu “Chư tứ nghịch quyết giả, bất khả hạ chi, hư gia diệc nhiên” (诸四逆厥者,不可下之,虚家亦然), chẳng qua là đề cập đến vấn đề vong huyết, chẳng những không thể tả hạ khi dương khí hư mà chứng vong huyết (mất máu) cũng không thể dùng phép tả hạ. Chứng quyết nghịch trên lâm sàng có thể dùng phép tả hạ chính là chứng nhiệt quyết thực tính. “Quyết thâm giả, nhiệt diệc thâm, quyết vi giả, nhiệt diệc vi, vi ứng hạ chi, nhi phản hăn chi, tất khẩu thương lan xích.” Chứng nhiệt quyết tất sẽ có một vài chứng trạng dương nhiệt nội kết như táo bón, nước tiểu đỏ, bụng trướng đau v.v… là có thể dùng phép tả hạ. Nếu như không kết hung, thấy bụng mềm mại, mạch c̣n hư, loại quyết này là hư chứng, có khí hư , huyết hư, dương hư, th́ không thể dùng phép tả hạ, hạ là hư kỳ hư, khỏi bệnh khó hơn, thậm chí dẫn đến tử vong. Trương Trọng Cảnh dặn ḍ rất nhiều lần, chứng quyết nghịch có thể hạ, có trường hợp cấm hạ, phàm là hư chứng, bất luận là khí hư, huyết hư hay dương hư đều không thể tả hạ, chỉ có chứng nhiệt quyết do dương khí trở cách ở bên trong mới có thể dùng phép tả hạ.
Không kết hung, th́ không có chứng trạng dạ dày bị cứng, bị đau khi ấn nắn, bụng không cứng mà là mềm mại, cho thấy không có ứ kết có tính thực chất, không có ngưng kết của thuỷ nhiệt, đều là những chứng bị loại trừ. “Mạch hư, phục quyết giả”, Chứng quyết nghịch thuộc về hư tổn của bản thân âm dương khí huyết không đầy đủ, v́ thế nên “bất khả hạ”. “Chư tứ nghịch quyết giả, bất khả hạ chi, hư gia diệc nhiên” Là nói về người hư yếu, v́ sao khi hạ lại dẫn đến tử vong? V́ khí huyết đă bị hư tổn, v́ thế anh ta có mạch hư. Nếu ngộ nhân đây là chứng nhiệt quyết, là chứng quyết nghịch thực tính, mà sử dụng phép tả hạ, đó chính là hư kỳ hư (hư thêm hư), càng gây tổn thương cho khí của trung và hạ tiêu. Đông thời, hăn th́ vong dương, hạ th́ vong âm, không những tổn thương dương mà c̣n tổn hại cả âm, không những vong khí mà c̣n vong huyết. Bài này có ư nghĩa tương đồng với “Chư tứ nghịch quyết giả, bất khả hạ”Nhưng bài này chỉ ra vấn đề được vấn đề vong huyết của huyết hư, đó là người tay chân quyết nghịch cũng thuộc về huyết hư.
348发热而厥,七日,下利者,为难治。 C362
348 Phát nhiệt nhi quyết, thất nhật, hạ lợi giả, vi nan trị. C362
Bài này thảo luận về hội chứng khó chữa của Quyêt âm bệnh quyết nhiệt hạ lợi.
Chiều hướng phát triển của bệnh trước là phát nhiệt và sau đó xuất hiện quyết nghịch, có phải là chứng nhiệt quyết không?, không phải là nhiệt quyết, chính là âm tà nhiều ở dương khí. Bệnh này là theo bệnh ngoại cảm mà đến, đầu tiên là phát sốt, khi bệnh đang phát triển thị đột nhiên tay chân bệnh nhân quyết lănh, đây chính là dương chứng biến thành chứng âm hàn. Dương khí hư, v́ thế nên tay chân quyết lănh, không có vấn đề nhiệt thâm quyết diệc thâm (nhiệt nặng th́ quyết cũng nặng), chỉ có quyết lănh thôi, chính là biểu hiện của âm tà thắng dương khí, chứng quyết tŕ hoăn đến 7 ngày th́ hạ lợi, là hàn tà từng bước thăng cấp, phát triển từng bước, dương khí tiêu giảm dần từng bước, hư yếu suy thoái từng bước, v́ thế gọi là dương thoái âm tiến, dương hư âm thịnh, là bệnh khó trị.
Bài này có y nghĩa chỉ đạo lâm sàng như thế nào? Phàm khi trị bệnh, bất luận là bệnh ǵ, đều sử dụng cương lĩnh âm dương hàn nhiệt để thuyết minh đạo lư, bất luận là bệnh ǵ, cần phải xem xét sự phát triển của bệnh, xem xét quan hệ giữa chính và tà, bệnh ǵ cũng có vấn đề của chính tà (bệnh và năng lực kháng bệnh), đều có vấn đề về chiều hướng phát triển. Thày thuốc cần t́m ra phương hướng, là bệnh tà chiếm thượng phong hay chính khí chiếm thượng phong? Trong biến hoá phát triển của bệnh có lợi hay bất lợi cho chính khí? Tại sao gọi là thuận? Tại sao gọi là nghịch? Tại sao gọi là chính khí khôi phục, tại sao gọi là tà khí tiến triển? Cần nắm vững những t́nh huống này, và từ đó chúng ta có thể biết được t́nh trạng dễ hoặc khó điều trị bệnh. Lấy hàn nhiệt âm dương để so sánh, trên thực tế mỗi một bệnh, mỗi một hội chứng đều không có đủ các t́nh huống như vậy, v́ thế chúng ta cần phải hiểu thật tốt, vận dụng thật tốt, dùng loại tư tưởng này để phân tích vấn đề. Như âm hư và dương hư, âm hư có mạch tế sác, lưỡi hồng ít rêu, tâm phiền mất ngủ, yết hầu khô khan, liền dùng thuốc tư âm như Sinh địa hoàng v.v… Đồng thời không lập can kiến ảnh (dựng sào thấy bóng, tức là không hiệu quả nhanh ), ngược lại lại gây tiêu chảy, v́ tạng tỳ bệnh nhân không tốt v́ thế không ăn được nhiều thứ (uống Sinh địa là gây tiêu chảy). Dương hư th́ được bổ dương, nhưng uống vào lại đau răng, đúng là dương hư, sao uống thuốc lại bốc hoả? V́ thế khi âm hư c̣n phải t́m hiểu xem có nhiệt, dương hư cầm t́m hiểu xem có hàn. Nếu dương hư có hàn, với hàn tà là chủ, th́ trước tiên khứ trừ hàn, sau đó là phù trợ dương khí; Âm hư có hoả, trước tiên nên khứ hoả, sau đó là điều trị âm. V́ sao lục vị địa hoàng hoàn c̣n gia Tri Bá? Tri bá địa hoàng hoàn chứng là có tướng hoả, hoả đă động, nếu không dùng thêm Tri mẫu Hoàng bá, chỉ với Lục vị địa hoàng hoàn là không được, gia thêm Tri mẫu Hoàng bá là thu được hiệu quả. Khi khó chịu v́ ngủ không ngon, nếu không gia Hoàng cầm, Hoàng liên th́ không diệt được hoả trong bạn. V́ thế chính khí hư tổn là một nguyên nhân, tuỳ theo chính khí hư, tà khí lại phát sinh vấn đề, những vấn đề này đều được xem xét..
349伤寒脉促,手足厥逆者,可灸之。 C363
349 Thương hàn mạch xúc, thủ túc quyết nghịch giả, khả cứu chi. C363
Bài này tŕnh bày có thể dùng phép cứu ở chứng quyết nghịch dương hư mạch súc.
Mạch súc là mạch đập rất nhanh có ư nghĩa như mạch sác. Mạch súc thuộc dương, có hai loại t́nh huống, mạch súc có lực là dương thực, mạch súc vô lực là dương hư. Nếu như mạch súc vô lực mà tay chân quyết lănh là thuộc dương hư, không thuộc thực nhiệt và có nguy cơ vong dương, cần phải tích cực dùng phép cứu, cứu huyệt Đại đôn, cứu Thái xung, cứu Khí hải, cứu Quan nguyên, hồi dương thông dương, để đề pḥng biến chứng vong dương.
350伤寒脉滑而厥者,里有热也, 白虎汤主之。C364
350 Thương hàn mạch hoạt nhi quyết giả, lư hữu nhiệt dă, Bạch hổ thang chủ chi. C364
Bài này phân tích mạch chứng và trị pháp của nhiệt quyết.
Bệnh thương hàn đầu tiên phát nhiệt sau đó xuất hiện tay chân quyết lănh, mạch sác mà trơn tru, đồng thời mạch có lực, chính là “Lư hữu nhiệt dă” (里有热也). Dương khí bị bế tắc ở trong, uất nhiệt bị ùn tắc, dương khí không thông ra tay chân, v́ thế mà phát sinh chứng quyết nghịch. Bên trong có nhiệt là kinh Dương minh có nhiệt, dùng Bạch hổ thang để thanh lư (mát bên trong), có thể trừ khử các chứng trạng như phiền khát, sốt cao của bệnh nhân.
Chứng nhiệt quyết có phép hạ, có phép thanh. “Bạch hổ phiền khát nhiệt dương minh” (白虎烦渴热阳明), trên thực tế đây là chứng nhiệt quyết, là thanh pháp của nhiệt quyết, dùng thang tễ tân lương (cay mát) mạnh để thanh giải uất nhiệt gây cản trở. Thang Bạch hổ c̣n có tác dụng sinh tân dưỡng dịch, làm cho âm dương được điều hoà, tay chân không c̣n quyết lănh. Thang bạch hổ là thang thuốc trị quyết rất thường gặp trên lâm sàng. Trẻ em sốt cao, khát nước, âm bị tổn thương, luôn xuất hiện tay chân quyết lănh. Mạch súc cũng chính là sác (nhanh), sác mà vô lực, nó thuộc chứng hàn quyết, nên dùng phép cứu. Mạch hoạt mà sác, nhưng hoạt sác có lực, là thuộc về nhiệt quyết, nên dùng dùng thang Bạch hổ để trị liệu.
351手足厥寒,脉细欲绝者,当归四逆汤主之。C365
Phương thang Đương quy tứ nghịch
Tam lạng Quy Tân Quế Thược hành
Táo tu trập ngũ mạch trọng sinh
Cam thông nhị lạng năng hồi quyết
Hàn gia Ngô du Khương tửu phanh
Đương quy 3 lạng Quế chi 3 lạng Thược dược 3 lạng Tế tân 3 lạng Đại táo 25 quả Thông thảo 2 lạng Cam thảo 2 lạng, nướng
7 vị thuốc trên dùng 8 thăng nước, nấu c̣n 3 thăng, bỏ bă, uống lúc ấm 1 thăng. Ngày uống 3 lần
Bài này thảo luận về hội chứng và trị liệu của Đương quy tứ nghịch thang chứng ở chứng huyết hư hàn quyết.
Tay chân quyết hàn là hội chứng, nếu như mạch vi dục tuyệt thuộc về dương hư, dùng thang Thông mạch tứ nghịch đều có thể, là chủ loại hội chứng của thang Tứ nghịch. V́ vi là dương vi, “vi mạch chủ vu dương khí vi” (微脉主于阳气微). Mạch tế dục tuyệt giả, “tế mạch oanh oanh khí huyết suy” (细脉萦萦血气衰), tựa như sờ vào một sợi dây, thậm chí nhỏ bé như tơ nhện, mạch tế chủ huyết hư, âm hư, không giống với mạch vi chủ về dương hư, v́ thế loại tay chân quyết hàn này thuộc về huyết hư. Huyết hư nên mạch tế, đồng thời cảm thụ bệnh tà phong hàn, kinh mạch huyết hư cảm thụ hàn tà, khí âm dương không tương thông nên xuất hiện hàn quyết, gọi là huyết hư hàn quyết.
“Đương quy tứ nghịch thang chủ chi” (当归四逆汤主之). Thang Tứ nghịch chủ tay chân quyết nghịch, thêm Đương quy vào chính là để phân biệt với thang Tứ nghịch, trong phương này không có vị Phụ tử để phù trợ dương khí, mà dùng Đương quy để bổ huyết. “Mạch tế dục tuyệt giả, Đương quy tứ nghịch thang chủ chi” chỉ ra các vấn đề then chốt là dùng thang Đương quy tứ nghịch để điều trị chứng tay chân quyết hàn, mạch tế. Trong phương có Đương quy, Quế chi, Thược dược, Tế tân, Đại táo, Cam thảo, Thông thảo, trên thực tế thành phần của phương này chính là thang Quế chi khứ Sinh khương, gia Đương quy, Tế tân, Thông thảo, tổng cộng 7 vị thuốc.
“Tế mạch oanh oanh huyết khí suy, chư hư lao tổn thất t́nh quai.” ()细脉萦萦血气衰,诸虚劳损七情乖。 Vị Đương quy cay ấm mà nhuận, có một chút vị ngọt, là thuốc bổ máu, Đương quy, Thược dược bổ huyết, cũng thể hiện ư nghĩa của thang Quế chi gia Đương quy, gia Đương quy để bổ huyết thông mạch. Can mạch huyết hư thụ hàn, hàn ứ trệ trong can mạch, v́ thế cần gia Quế chi, Tế tân, Thông thảo thông dương tán hàn, phối với Đương quy, Thược dược c̣n có tác dụng điều hoà doanh vệ, điều hoà khí huyết. Phương này dùng được rất nhiều Đại táo, dùng đến 25 quả, bản của họ Triệu dùng 12 quả; Tế tân khứ hàn trị đau, có khả năng trị chứng đau xương khớp, có thể khai thông tí khí* . Mạch tế dục tuyệt (mạch nhỏ như muốn hết mạch) v́ thể dùng vị Tế tân để trừ khứ hàn tà, đồng thời lại e ngại vị thuốc gây tổn thương huyết dịch, v́ thế nên dùng nhiều Đại táo để bổ tân dịch, bổ tỳ vị để tránh Tế tân phát sinh ảnh hưởng xấu.
Thang Đương quy tứ nghịch phải chăng chỉ điều trị chứng tay chân quyết hàn, mạch tế dục tuyệt? Bệnh Lôi nặc thị (Raynaud) trong y học hiện đại phổ biến hơn ở phụ nữ. Các ngón tay cực kỳ lạnh, màu sắc chuyển sang xanh, và một số chuyển sang màu tím, đặc biệt khó chịu. Vào mùa hè, họ đeo găng tay lớn. Bệnh này khó điều trị, thang Đương quy Tứ nghịch có hiệu quả, ít nhất cũng có thể làm giảm nhẹ các triệu chứng. C̣n có bệnh đỗng sang (bệnh ngoài da do thời tiết quá lạnh), ở phần thân thể lộ ra thường có màu xanh, vừa ngứa vừa bị nứt vỡ, Đương quy tứ nghịch có hiệu quả trị liệu bệnh này rất tốt.
Một mặt uống thuốc, một mặt dùng bă thuốc đắp bên ngoài. Đương quy tứ nghịch cũng được dùng điều trị cho phụ nữ trẻ tuổi lúc hành kinh cảm thụ phong hàn.
Người viết khám bệnh cho một phụ nữ ở Từ gia trang, đau bụng rất nghiêm trọng, v́ sao mà bị bệnh như vậy?, chính là klhi làm việc, toàn thân xuất hăn, đi tiểu tiện, trong thời gian hành kinh, gặp gió lớn, cô cảm thấy bụng dưới vừa lạnh vừa đau, lưng cũng đau, sau khi uống tiểu hồi, ích mẫu có cảm giác đỡ đau một chút, nhưng không giải quyết được vấn đề, mạch tế, c̣n có chút huyền. Người viết liền cho bệnh nhân uống thang Đương quy tứ nghịch.
Không nên xem nhẹ, trong thành phần phương thang có vị Tế tân, Tế tân có tác dụng thông kinh hoạt lạc giảm đau hiệu quả cực kỳ tốt, bệnh nhân uống vài thang th́ khỏi bệnh.
Phần hạ bộ bị lạnh có liên quan với can mạch, phụ nữ đau bụng dưới, nam giới đau bụng dưới hoặc chứng sán khí co rút dịch hoàn, dùng phương này cũng thu được hiệu quả, v́ phương thang này có tác dụng bổ huyết lại có thể ôn thông kinh lạc. Đương quy tứ nghịch c̣n trị được chứng đau đầu, v́ quyết âm can kinh và đốc mạch tụ hội ở đỉnh đầu, huyết hư có hàn sẽ gây chứng đau đầu, nhất là đau lan xuống hố mắt, mạch huyền mà tế, chất lưỡi nhạt. C̣n có thể trị chứng tí, chứng đau khớp, đau toàn thân do huyết hư có hàn, Đương quy tứ nghịch thang cho hiệu quả rất tốt.
Trường Xuân
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2024-01-16 00:04:55
Từ điều 352 đến 364
352 若其人内有久寒者,宜当归四逆加吴茱萸生姜汤主之。 C366
352 Nhược kỳ nhân nội hữu cửu hàn giả, nghi Đương quy tứ nghịch gia Ngô thù du sinh khương thang chủ chi. C366
Phương thang Đương quy tứ nghịch gia Ngô thù du sinh khương
Đương quy 3 lạng Thược dược 3 lạng Cam thảo 2 lạng, nướng Thông thảo 2 lạng Quế chi 3 lạng, bỏ vỏ Tế tân 3 lạng, Sinh khương ½ cân, xắt mỏng Đại táo 25 quả, bổ ra Ngô thù du 3 thăng
9 vị thuốc nêu trên, dùng 6 thăng nước, nấu c̣n 5 thăng, bỏ bă, phân thuốc thành 5 lần uống lúc thuốc c̣n ấm. Một phương dùng nước và rượu đều 4 thăng.
Điều này là hội chứng của thang Đương quy tứ nghịch gia giảm, thảo luận về phép điều trị chứng huyết hư hàn quyết kèm theo cảm lạnh mạn tính.
Liên hệ với điều trước, hội chứng của thang Đương quy tứ nghịch là can kinh bị lạnh, nếu bệnh nhân lại bị lạnh bên trong lâu ngày, xuất hiện ẩu thổ, đau dạ dày, nên dùng thang Đương quy tứ nghịch gia Ngô thù du, Sinh khương. Đây chính là phương thuốc cần thiết để làm ấm cả kinh và tạng, v́ giữa kinh và tạng có sự liên hệ, kinh bị lạnh và tạng bị lạnh chính là ảnh hưởng hỗ tương, điều này bổ sung gia vị của thang Đương quy tứ nghịch, gia thêm Ngô thù du, Sinh khương trị liệu hàn chứng để ấm can vị.
Xem xét phương dược và chứng trạng, cũng có những điểm khiến người ta phải suy xét, như tại sao không sử dụng các vị thuốc nhiệt như Phụ tử, Can khương, mà lại dùng Ngô thù du, Sinh khương, Quế chi, Tế tân? V́ tuy cùng là chứng lạnh, nhưng đặc điểm của mỗi kinh là khác nhau. Kinh Thiếu âm chủ yếu là dương hư, hàn chứng của dương hư chính là hoả trong thuỷ không đủ có thể dùng các vị thuốc khô táo như Can khương, Phụ tử; Quyết âm là một tạng có thể thuộc âm mà dụng thuộc dương, tạng can trữ tàng huyết dịch, v́ thế tạng can rất sợ các vị thuốc khô táo ảnh hưởng xấu đến âm của can, tuy bị lạnh lâu ngày, cũng chỉ dùng Ngô thù du, Sinh khương, mà không dùng các vị thuốc như Phụ tử. V́ sao trong Ô mai hoàn lại có Phụ tử? Viif Ô mai hoàn có vị Ô mai là quân dược có vị chua thu liễm, có thể bảo vệ gan, là bậc thày về tiết chế. Khi điều trị hàn chứng ở kinh can trên lâm sàng, cần chú ư khi dùng thuốc khô táo. Nếu như bị lạnh do huyết hư, chỉ biết trừ hàn mà không biết về huyết hư, sử dụng thuốc khô táo sẽ tổn thương huyết là những hao tổn không đáng có. {Thương hàn luận} trị liệu lục kinh bệnh có các đặc điểm và không thể tách rời tương quan sinh bệnh lư.
353 大汗出,热不去,内拘急,四肢疼,又下利,厥逆而恶寒者,四逆汤主之。 C367
354 大汗,若大下利而厥冷者,四逆汤主之。C368
353 Đại hăn xuất, nhiệt bất khứ, nội câu cấp, tứ chi đông, hựu hạ lợi, quyết nghịch nhi ố hàn giả, Tứ nghịch thang chủ chi. C367
354 Đại hăn, nhược đại hạ lợi nhi quyết lănh giả, Tứ nghịch thang chủ chi. C368
Đây là hai điều thảo luận hội chứng và trị liệu chứng dương hư quyết nghịch hạ lợi. Chứng dương hư có hàn và chứng huyết hư có hàn khác nhau, hội chứng thang Tứ nghịch của hai điều này nên phân biệt với hội chứng của thang Đương quy tứ nghịch.
Điều C367 “Đại hăn xuất, nhiệt bất khứ” chính là biểu hiện của vong dương. Nếu chính là thực chứng, nhiệt chứng, sau khi xuất nhiều mồ hôi th́ phải hạ nhiệt, xuất nhiều mồ hôi mà không hạ nhiệt là nghĩa là dương khí không thể tiềm tàng ở bên trong, mà thất thoát ra bên ngoài.
Phàm khi dương thất thoát ở ngoài, tất nhiên âm sẽ mất ở trong, trong lạnh ngoài nóng, v́ thế như bị lôi kéo ở bên trong. Trong bụng câu cấp là cảm giác bị lôi kéo không thoải mái, cơ bụng bị co rút, co rút kèm theo biểu hiện đau đớn khó chịu, phản ảnh hàn tà mạnh, tính của hàn là thu lại (thu dẫn= thu liễm). V́ dương hư nên hàn thịnh, tứ chi là căn bản của dương, dương hư hàn thịnh, hàn tà tràn ra trong ngoài, v́ thế không chỉ bên trong câu cấp (co rút) mà ở bên ngoài tứ chi cũng bị đau. “Hựu hạ lợi, quyết nghịch nhi ố hàn giả” (Lại tiết tả, tay chân lạnh mà ghét lạnh), đây cũng là chứng trạng dương hư. Các triệu chứng trên phản ảnh dương hư hàn thịnh, hàn tà tràn lan trong ngoài, dương hư trôi nổi ra ngoài có nguy cơ vong dương, nên dùng thang Tứ nghịch, không dùng thang Đương quy tứ nghịch. Hội chứng của thang Đương quy tứ nghịch chỉ có quyết lănh mạch tế, hội chứng của thang Tứ nghịch th́ nhiều hơn, chủ yếu gồm có tiêu chảy, ghét lạnh.
Đồng thời, dương hư hàn thịnh của Thiếu âm ẩn chứa nguy cơ vong dương, v́ thế đồng thời với hàn thịnh mà nhiệt không bị trừ khứ vẫn c̣n phát nhiệt, đây là đặc điểm của thang Tứ nghịch.
Điều C368 là chứng quyết lănh sau khi xuất nhiều mồ hôi hoặc tiêu chảy nhiều, thuộc về dương khí vi (nhỏ bé), v́ thế nên không phát nhiệt, không có biểu hiện dương khí nổi ra ngoài, cũng dùng thang Tứ nghịch. Có nhà chú giải đề xuất, không phát nhiệt th́ dương khí càng nhỏ (vi). Trải qua đại hăn (xuất mồ hôi nhiều), tiêu chảy nhiều th́ âm tà càng thắng thế, xuất nhiều mồ hôi, tiêu chảy nhiều là chứng trạng của bản thân bệnh, cũng chính là phản ảnh của dương khí không vững vàng kín đáo, âm hàn mạnh ở trong, nên củng cố dương để tiêu âm, dùng thang Tứ nghịch.
V́ có chứng trạng tay chân quyết lănh nên cần so sánh với hội chứng của thang Đương quy tứ nghịch, một là huyết hư mà quyết lănh, hai là dương hư mà quyết lănh.
355 病人手足厥冷,脉乍紧者,邪结在胸中。心中满而烦,饥不能食者,病在胸中,当须吐之,宜瓜蒂散。 C369
355 Bệnh nhân thủ túc quyết lănh, mạch sạ khẩn giả, tà kết tại hung trung. Tâm trung măn nhi phiền, cơ bất năng thực giả, bệnh tại hung trung, đương tu thổ chi, nghi Qua đế tán. C369
Điều này tŕnh bày hội chứng và trị liệu chứng quyết do đàm thực trong ngực gây ra. Hội chứng Qua đế tán của thực chứng trong ngực có thể xuất hiện tay chân quyết nghịch, trong dạ dày có nước (thuỷ ẩm) cũng có thể xuất hiện tay chân quyết nghịch, đều là thực chứng, có những khác biệt về y học với chứng quyết nghịch do huyết hư và dương hư. Trương Trọng Cảnh cảnh báo chúng ta khi gặp chứng tay chân quyết lănh trên lâm sàng, không phải đều là chứng quyết lănh do dương hư hoặc huyết hư, cũng có khi tay chân quyết lănh do thực chứng trong ngực hoặc do hàn ẩm trong dạ dày gây ra, cần phải chú ư phân biệt.
“Bệnh nhân thủ túc quyết lănh” ở đây không nói đến Quyết âm, cũng không nói đến Thái dương, mà nói “Bệnh nhân” là người đă bị bệnh, bị bệnh ǵ? Là tay chân quyết lănh, khi tay chân quyết lănh mà thiết mạch th́ thấy mạch khẩn; Khi tay chân không quyết lănh th́ mạch không khẩn, xuất hiện ngẫu nhiên, mạch lúc khẩn lúc không. “Sạ” là không có tính liên tục. Mạch khẩn là mạch của hàn thực chứng, mạch khẩn là mạch thực có lực, là phản ảnh của thực tà.
Mạch khẩn của bệnh nhân tay chân quyết lănh, chính là thực tà hữu h́nh ngưng tụ trong ngực, ngực là vị trí xuất nhập của dương khí, ngực là dương vị (vị trí thuộc dương). V́ vậy khi tà hữu h́nh ngưng tụ ở ngực th́ dương khí không thông ra được tay chân, sẽ xuất hiện tay chân quyết lănh, khi thực tà hữu h́nh cản trở dương khí, th́ xuất hiện mạch khẩn, đó là tà khí ǵ?Trương Trọng Cảnh không nói. V́ thế, điều này cần liên kết với điều C174, “Bệnh như Quế chi chứng, đầu bất thống, hạng bất cường, thốn mạch vi phù, hung trung bĩ ngạnh, khí thượng xung hầu yết, bất đắc tức giả, Qua đế tán chủ chi.” Bệnh này thuộc về bệnh đàm ẩm, có thể tham khảo hỗ tương.
Tóm lại, đây là do thực tà, v́ thế nên xuất hiện trong ngực măn*(không trướng không đau chỉ không thoải mái) và phiền, măn là măn muộn là không thoải mái, là dương khí ùn tắc trong ngực. Phiền có hai ư nghĩa, một là khi trong ngực măn muộn tệ hại th́ gọi là phiền, cũng có thuyết cho là trong ngực không thoải mái (muộn) lại kèm theo tâm phiền. Một số người ở Nhật Bản, chẳng hạn như Sơn Điền Chính Trân, giữ quan điểm trước đây, và một số nhà b́nh luận Trung Quốc giữ quan điểm sau. Bệnh ở ngực, vị trí cao (Con người có ngực, tâm hạ (dạ dày), bụng, ba bộ vị trên, giữa và dưới). “Kỳ cao giả, nhân nhi việt chi” (其高者,因而越之)Ở vị trí cao theo đó mà vượt, nên thổ ra. Ẩu thổ có thể nôn ra thực tà ngưng tụ trong ngực, dương khí trong ngực được thông đạt, tay chân quyết nghịch, bực bội phiền muộn trong ngực được giải trừ và khỏi bệnh. Chứng tay chân quyết lănh của điều này không phải do dương hư, mạch có lúc khẩn, trong ngực măn nhi phiền (bực bội khó chịu), có chứng trạng trong ngực. Hội chứng của thang Tứ nghịch th́ tiêu chảy nhiều hơn, và khác với thực chứng ngưng tụ trong ngực. Tay chân quyết lănh nên dùng thanh pháp Bạch hổ thang; Chứng quyết nặng nhiệt cũng nặng, chứng quyết nhẹ nhiệt cũng nhẹ, chứng quyết có thể dùng phép tả hạ, có thể dùng thang Thừa khí, thang Đại sài hồ; Bệnh ở trên ngực nên dùng phép thổ, là dùng Qua đế tán. Những phép dụng dược này đều không phải là thang Tứ nghịch. Bệnh cơ giống nhau của những quyết nghịch này chính là khí âm dương không nối tiếp nhau, nhưng có hư và thực khác biệt. Trương Trọng Cảnh xâm nhập từng lớp, dương hư, huyết hư, thực chứng trong ngực, nhiệt chứng, so sánh từng cái, từng cái, để nâng cao tŕnh độ biện chứng luận trị.
356 伤寒厥而心下悸者,宜先治水,当服茯苓甘草汤,却治其厥;不尔,水渍入胃,必作利也。C370
356 Thương hàn quyết nhi tâm hạ quư giả, nghi tiên trị thuỷ, đương phục Phục linh Cam thảo thang, khước trị kỳ quyết; Bất nhĩ, thuỷ tứ nhập vị, tất tác lợi dă. C370
Điều này tŕnh bày hội chứng và trị liệu chứng quyết nghịch do nước đ́nh trệ trong dạ dày (tâm hạ) gây ra.
“Thương hàn” là bệnh này xuất phát từ thương hàn. “Quyết”, là chân tay quyết lănh (lạnh đến khuỷu và gối), đồng thời có “tâm hạ quư” (hồi hộp ở phần dưới tim), tâm hạ quư động là sợ hăi khẩn trương ở dạ dày, do nước đọng lại trong dạ dày gây ra. Phục linh Cam thảo thang đă xuất hiện ở thiên Thái dương bệnh, và bây giờ cần phải nói về các biểu hiện hội chứng cơ bản của nó. Trong dạ dày có nước, thuỷ khí tranh đấu với nhau, v́ thế hồi hộp.
Hồi hộp là lo lắng bất an, dịch là như muốn hoảng loạn, như sắp có điều ǵ xảy ra với ḿnh. Vị dương bị thuỷ ẩm gây trở ngại không thể thông ra tay chân nên tay chân lạnh. Bệnh tà ở dưới ngực, lệch xuống dưới, đă có thuỷ tà, cũng có âm hàn nên có một vài khác biệt với hội chứng Qua đế tán, hội chứng Qua đế tán hoàn toàn là thực tà, thực tà ngưng trệ, dương trong ngực không thông; Hội chứng thang Phục linh cam thảo tuy cũng có thuỷ tà, cũng là trở ngại dương khí, nhưng c̣n có vấn đề âm hàn, dương khí thiên về hư suy. Có hàn cũng có thủy, làm sao để điều trị? Chính là trước tiên dùng thang Tứ nghịch phụ trợ dương khí để tiêu âm, c̣n trước tiên dùng thang Phục linh cam thảo để trị chứng hồi hộp ở bên dưới tim do thuỷ ẩm? Ở đây có một vấn đề về thể thức, một là có hàn quyết, hai là có thuỷ ẩm. Trương Trọng Cảnh cảnh báo chúng ta nên trị thuỷ trước, không nên trị hàn trước, nên dùng thang Phục linh cam thảo để điều trị thuỷ, tại sao nên trị thuỷ trước? là “Thuỷ tứ nhập vị, tất tác lợi dă”( 水渍入胃,必作利也)nước ngấm vào vị tất gây tiêu chảy, thuỷ tuy là tiêu (ngọn) dương hư là bản (gốc), nhưng nếu không trừ khứ được thuỷ th́ bệnh nhân vẫn tiêu chảy, mà tiêu chảy sẽ gây tổn thương cho cả dương và âm và như vậy dương khí càng hư tổn hơn, v́ thế trước tiên nên trị thuỷ tà. Trị thuỷ trước nên dùng thang Phục linh cam thảo, sau khi điều trị tốt chứng thuỷ đ́nh trệ trong dạ dày. “khước trị kỳ quyết” (却治其厥), sau đó tái sử dụng thuốc ấm nóng để trị chứng hàn quyết. Cũng có nhà chú giải cho rằng uống thang Phục linh cam thảo, chứng quyết cũng được giải quyết, chứng tâm hạ quư cũng được cải thiện và không cần sử dụng phương thuốc điều trị chứng quyết lănh nào khác, điều này không phù hợp với tinh thần của văn bản gốc.
Liên kết hai điều này cho thấy, một là thực chứng trong ngực, hai là có nước trong dạ dày.
Thực chứng trong ngực là ngăn trở dương khí không thông ra tứ chi, nên sau khi dùng thổ pháp bệnh sẽ biến chuyển tốt. Trường hợp trong dạ dày đọng nước c̣n kèm theo vấn đề hàn quyết là khá phức tạp, đă có chứng quyết lănh do dương hư lại có nước trong dạ dày, cần phải trị nước đọng trong dạ dày trước trước sau đó trị chứng quyết lănh. Bệnh đều có những ảnh hưởng hỗ tương, chứng thuỷ ẩm cũng có ảnh hưởng đối với chứng quyết lănh, v́ thuỷ cũng là hàn, thuỷ hàn (tà) cũng gây cản trở dương khí, v́ thế khi thuỷ ẩm (nước trong dạ dày)được trừ khứ, không những có tác dụng dự pḥng chứng tiêu chảy, mà đối với chứng tay chân quyết nghịch cũng có điểm thuận lợi.
357 伤寒六七日,大下后,寸脉沉而迟,手足厥逆,下部脉不至,咽喉不利,唾脓血,泄利不止者,为难治。麻黄升麻汤主之。 C371
357 Thương hàn lục thất nhật, đại hạ hậu, thốn mạch trầm nhi tŕ, thủ túc quyết nghịch, hạ bộ mạch bất chí, yết hầu bất lợi, thoá nùng huyết, tiết lợi bất chỉ giả, vi nan trị. Ma hoàng thăng ma thang chủ chi. C371
Phương thang Ma hoàng thăng ma Tà thâm dương hăm mạch trầm tŕ Khương Truật Ma hoàng Thăng Quế chi Thược Quy Thiên đông Cầm Thạch Thảo Uy nhuy nhuận phế tá Cầm Tri
Ma hoàng 2,5 lạng, bỏ đốt Thăng ma 1,01 lạng Đương quy 1,01 lạng Tri mẫu Hoàng cầm Uy nhuy đều 18 thù Thạch cao giă nát, bọc bông Bạch truật Can khương Thược dược Thiên môn đông bỏ lơi Quế chi Phục linh Cam thảo nướng đều 6 thù
14 vị trên, dùng 1 đấu nước, đầu tiên nấu vị Ma hoàng sôi một 2 đợt, vớt bọt, cho các vị thuốc vào, đun cạn c̣n 3 thăng, phân 3 lần uống ấm, như nấu 3 thùng gạo, làm xong xuất mồ hôi là khỏi bệnh.
Bài viết này thảo luận về hội chứng và điều trị của chứng hỗn hợp hàn nhiệt khạc ra máu mủ và tiêu chảy, nói về chứng hỗn hợp hàn nhiệt chưa bao giờ là một việc dễ dàng, một số nhà chú giải danh tiếng đă lọc bỏ nó, người Nhật bản cũng lọc bỏ. Cá nhân người viết cho rằng không nên bỏ, v́ tổng cộng không có nhiều chứng hỗn hợp hàn nhiệt, nếu lọc bỏ sẽ là một tổn thất.
Trước tiên , hỗn hợp hàn nhiệt của hội chứng thang ma hoàng thăng ma chính là dương khí bị ḱm hăm, tŕ trệ, trị liệu thiên về khai thông phát tán. So sánh mà nói, việc cùng sử dụng các vị thuốc hàn nhiệt của Ô mai hoàn thiên về tác dụng thu liễm, cũng như vậy ở thang Can khương Hoàng cầm Hoàng liên Nhân sâm lại thiên về giáng nghịch, ở thang Ma hoàng Thăng ma th́ thiên về khai thông tuyên phát, ở thang Hoàng liên và thang Bán hạ tả tâm th́ thiên về hoà trung (điều hoà trung tiêu). Việc cùng sử dụng vị thuốc hàn và nhiệt bao gồm 4 phương diện này. Nếu như loại bỏ phương diện khai thông dương uất của thang Ma hoàng Thăng ma, chỉ c̣n tác dụng giáng nghịch mà không c̣n tác dụng khai thông. Tiếp nữa, {Thiên kim phương} có thang Thiên kim Nuy nhuy trị chứng âm hư ngoại cảm, chính là được phát triển từ phương thuốc này, điều này cho thấy phương thuốc có thể sử dụng. Thang Thiên kim Nuy nhuy trị bệnh ǵ? “Nuy nhuy Quế chi Sâm Bạch hổ, nhất nghịch dẫn nhật tái mệnh chung. Xuân ôn nguyên tự cảm xuân phong, ngộ hăn chước nhiệt hăn tân sinh” Đông cảm hàn Xuân tất bệnh ôn….., đây chính là tóm tắt của {Y tôn kim giám * Thương hàn tâm pháp yếu quyết}. thứ ba là thực tiễn lâm sàng đă chứng minh thang Ma hoàng thăng ma có tác dụng điều trị rất tốt đối với đại diệp tính phế viêm (viêm phổi thuỳ) và chứng tiêu chảy. V́ thế, không thể loại bỏ nó. V́ sao phải nói như vậy? V́ có một số đại gia như Hà Vận Bá đều cho rằng điều này không hiệu quả, sẽ sản sinh những ảnh hưởng không tốt. Chúng ta không nên bị ảnh hưởng bởi những nhận định này, mà cần phải kế thừa toàn bộ.
Bệnh này do cảm thương hàn gây ra. Thương hàn đă 6,7 ngày, phong hàn hoá thành nhiệt nhưng chưa thành thực. Thày thuốc hạ nhầm nên dẫn đến hậu quả, “Thốn mạch trầm nhi tŕ, hạ bộ mạch bất chí” Trước khi dùng phép tả hạ, v́ có nhiệt nên có khả năng là mạch sác mà cấp, sau khi tả hạ bệnh tà dương nhiệt bị ức uất, mạch thốn thuộc dương ở trên, v́ thế mạch thốn trầm tŕ. Mạch trầm không phải là hàn, chính là phản ảnh của dương khí bị uất tích (tích tụ). Sau khi đại hạ (tả hạ mạnh mẽ), âm khí thụ thương, đồng thời dương tà bị uất trệ ở thượng tiêu, v́ thế mạch ở hạ bộ không nổi lên được, như vậy khí âm dương không nối tiếp nhau thuận lợi dẫn đến tay chân quyết nghịch, quyết nghịch là có vấn đề của dương uất, cũng có vấn đề chính khí thụ thương sau khi tả hạ, nhiệt của dương uất ở trên v́ thế mạch trầm và tŕ, yêt hầu không thuận lợi mà khạc ra máu mủ; Ở dưới có hàn nên tiêu chảy không ngừng, trên nóng dưới lạnh ở giữa khí hư (thượng nhiệt hạ hàn trung khí hư) trị nóng th́ ngại lạnh, trị lạnh th́ ngại nóng, bổ hư th́ ngại thực, tả thực th́ ngại hư, v́ thê Trương Trọng Cảnh nói, là bệnh khó trị.
Thang Ma hoàng thăng ma hàn nhiệt cùng sử dụng, thiên về khai thông thăng tán tà khí. Phương thang này có hai đặc điểm, một là gồm nhiều vị thuốc, gồm 14 vị thuốc, là phương thuốc nhiều vị nhất của Trương Trọng Cảnh trong {Thương hàn luận}, các đơn thuốc của Trương Trọng Cảnh phần nhiều vào khoảng từ 5~8 vị thuốc. Một số đại gia th́ cho rằng đây không phải là phương thang của Trương Trọng Cảnh. Không dễ để sử dụng điều này như một suy luận logic, các vị thuốc trong các đơn thuốc như Thự dự hoàn, Đại hoàng cẩn trùng hoàn, Miết giáp tiễn hoàn đều có nhiều vị thuốc hơn, và không thể kết luận dựa trên số vị thuốc nhiều hay ít.
Một đặc điểm khác là trọng lượng vị thuốc sử dụng rất nhỏ, “nhất phản Trọng Cảnh chi trường, kỳ tễ lượng hà kỳ chi tiểu dă” (一反仲景之长,其剂量何其之小也)ngược lại với điểm mạnh của Trọng Cảnh, mà tễ lượng nhỏ như vậy, tại sao liều lượng cuả thuốc lại nhỏ như vậy? Có điểm giống như Quế Ma các bán thang, Quế chi việt tỳ thang, 1 lạng 6 phân, 1 lạng một phân, 18 thù. Lượng thuốc rất nhỏ, cũng xuất phát từ hội chứng khách quan, v́ dương bị uất, dùng hàn dược nhiều th́ cản trở nhiệt, dùng nhiệt dược nhiều th́ cản trở hàn. Bên trên khạc ra máu mủ, cổ họng bất lợi, Can khương, Quế chi có thể nhiều ư?, nếu dùng nhiều cổ họng sẽ bị tổn thương. Tri mẫu, Nuy nhuy, Thạch cao quá nhiều, bên dưới c̣n tiêu chảy, bên trên c̣n có dương khí kiềm nén ở bên trong không xuất ra. Khi học cần trải nghiệm, dùng phương để suy đoán hội chứng, dựa theo tễ lượng của đơn thuốc để t́m hiểu những nhu cầu của hội chứng, có thể đạt được một số gợi ư.
Theo tiền đề là nhiều vị thuốc và lượng thuốc nhỏ, Ma hoàng 2,5 lạng, Thăng ma 1,01 lạng, Ma hoàng, Thăng ma có lượng lớn hơn một chút trong tất cả các loại thuốc khác trong đơn, các vị thuốc đều có trọng lượng là 18 thù, Thạch cao chỉ có 6 thù, lượng thuốc đều quá nhỏ. Do đó có thể thấy, Ma hoàng, Thăng ma dưới nguyên tắc trị liệu hỗn hợp hàn nhiệt như vậy thiên về tán phát dương uất.
Thời cổ đại dùng Thăng ma để thanh nhiệt, giống như hiện nay dùng Tê giác, có tác dụng giải nhiệt trừ ôn độc, là một vị thuốc có tác dụng tuyên thấu, Hoàng cầm, thạch cao thanh nhiệt ở phổi và dạ dày, Quế chi, Can khương ấm áp trung tiêu thông dương khí, Đương quy dưỡng huyết, Tri mẫu, Thiên đông, Nuy nhuy tư dưỡng tân dịch của phổi và dạ dày, Cam thảo, Bạch truật, Phục linh kiện tỳ, trị tiêu chảy, bổ trung tiêu, đồng thời có thể giao thông trên dưới, âm dương. Tại sao không dùng Nhân sâm? V́ có chứng dương uất, gia thêm vị Nhân sâm sẽ không có lợi cho việc giải uất. Linh, Truật, Thảo phối với Can khương có thể làm ấm trung tiêu, toàn phương thang có tác dụng thông thượng tiêu, ấm hạ, trung tiêu, và thông suốt dương uất. Chúng ta gặp trường hợp bệnh nhân sau khi được dùng phép tả hạ mạnh trên lâm sàng, nếu như thuộc bệnh ngoại cảm, dương uất ở tâm hung, mà hạ tiêu lại bị lạnh, tay chân quyết nghịch, bên trên thổ ra máu mủ, mạch bộ trên trầm tŕ, mạch bộ dưới không đến, thuộc dương uất bất thân (không duỗi thẳng) mà âm dương bất hoà, có thể t́m hiểu phương thang này. Trên thực tế, phương thang này c̣n thiên về mát lạnh, không có quá nhiều vị thuốc có tính ấm nóng.
358伤寒四五日,腹中痛,若转气下趋少腹者,此欲自利也。 C372
358 Thương hàn tứ ngũ nhật, phúc trung thống, nhược chuyển khí hạ xu thiểu phúc giả, thử dục tự lợi dă. C372
Điều này tŕnh bày hội chứng tiên phong (đi trước) của chứng tiêu chảy do bị lạnh.
Bên trong có lạnh nên phát bệnh tiêu chảy gọi là hàn lợi, trước khi bệnh phát tác có một hội chứng, đó là “Chuyển khí hạ xu thiểu phúc”, bệnh tà thương hàn chuyển vào trong hoá hàn, đau bụng, tỳ dương suy yếu, khí của tỳ dương không thăng, có cảm giác trong bụng có hơi (khí), kèm theo âm thanh của khí chuyển động, đến bụng dưới th́ không ra ngoài, đau bụng dưới, “thử dục tự lợi dă”, sẽ tiêu chảy.
Đó là cảm giác cơn đau bụng v́ lạnh, mô tả rất hiện thực. Đây chính là hàn tà đă gây tổn thương dương khí ở trung tiêu, trung khí bị hăm xuống liền xuất hiện khí đi xuống dưới. Đây là chứng được sinh ra dưới tiền đề (điều kiện) của chứng đau bụng, không giống với chứng chuyển trung khí v́ có phân khô của Dương minh bệnh vị gia thực. Đây là chứng chuyển khí ở bụng dưới, thuộc về vấn đề hàn tà.
359 伤寒本自寒下,医复吐下之,寒格,更逆吐下;若食入口即吐,干姜黄连黄芩人参汤主之。C373
359 Thương hàn bản tự hàn hạ, y phục thổ hạ chi, hàn cách, canh nghịch thổ hạ; nhược thực nhập khẩu tức thổ, Can khương Hoàng liên Hoàng cầm Nhân sâm thang chủ chi. C373
Phương thang Can khương Hoàng liên Hoàng cầm Nhân sâm
Cầm Liên khổ giáng tịch Khương khai tế dĩ nhân sâm tuyệt diệu tai
Tứ vật b́nh hành các tam lạng Chư phàm cự cách thử phương cai
Can khương Hoàng liên hoàng cầm Nhân sâm đều 3 lạng
4 vị thuốc trên, dùng 6 thăng nước, nấu cạn c̣n 2 thăng, bỏ bă, phân 2 lần uống ấm.
Điều này tŕnh bày hội chứng và trị liệu của chứng hàn cách.
Chữ “hạ” trong “Thương hàn bản tự hàn hạ”, căn cứ theo kiến giải của {Y Tôn Kim Giám} là “Cách” (格).
Bệnh do thương hàn gây ra, v́ hàn mà phát sinh cách cự (bài xích), đương nhiên là có chứng trạng ẩu thổ, dạ dày lạnh nên bị hạn chế, ăn uống không xuống. Đương nhiên khi bị hàn th́ trị hàn, “y phục thổ hạ chi” nhưng thày thuốc lại dùng phép thổ, phép hạ là nghịch, là không đúng phép khiến chứng trạng càng nặng hơn, “thực nhập khẩu tức thổ”, (ăn khỏi miệng là thổ ra ngay) t́nh trạng tệ hơn trước, dùng thang Can khương Hoàng liên Hoàng cầm Nhân sâm để điều trị. Cũng có người phân điều này thành hai đoạn để giải thích, “Thương hàn bản tự hàn hạ, y phục thổ hạ chi, hàn cách, canh nghịch thổ hạ” (Thương hàn nguyên nhân bệnh là cảm hàn, thày thuốc dùng phép thổ hạ, hàn gây trở ngại (hàn cách), khiến thổ hạ tệ hơn) là có tính hư hàn, nên dùng thang Lư trung hoặc thang Tứ nghịch là những thuốc nóng nhiệt để điều trị. “Nhược thực nhập khẩu tức thổ, Can khương Hoàng Hoàng liên Nhân sâm thang chủ chi” (Nếu ăn vào miệng là thổ ngay, thang Can khương Hoàng Hoàng liên Nhân sâm chủ trị bệnh này ) là làm một so sánh, là nhiệt chứng, là nhiệt cách, nhiệt gây trở ngại không phải là hàn. Ăn vào thổ ngay là biểu hiện của hoả của nhiệt. Trong thang Can khương Hoàng Hoàng liên Nhân sâm có Hoàng cầm, Hoàng liên, có thể thanh nhiệt giáng nghịch. Tại sao lại dùng vị Can khương? Chứng hoả cách (hoả gây trở ngại) gia một chút vị thuốc cay nóng, là thuận theo nhiệt tính mà khiến Cầm Liên có tác dụng thanh nhiệt hạ giáng.
Tóm lại, thang Can khương Hoàng cầm Hoàng liên Nhân sâm chính là thuốc trị ẩu thổ, là phương pháp đồng thời sử dụng hàn dược và nhiệt dược, Can khương là vị thuốc cay, Hoàng cầm, Hoàng liên là vị thuốc đắng, vị cay có tác dụng khai mở, vị đắng có tác dụng hạ giáng, cả hai cùng đi với nhau; V́ ẩu thổ tổn thương vị khí, v́ thế gia Nhân sâm để dưỡng khí của tỳ vị.
Trên lâm sàng, nếu là chứng ẩu thổ có tính hàn th́ có thể dùng thang Can khương Hoàng cầm Hoàng liên Nhân sâm không? V́ thang Can khương Hoàng cầm Hoàng liên Nhân sâm có Can khương phối Nhân sâm có một nửa tác dụng của thang Lư trung, người viết cho rằng cũng có thể. Cầm Liên không cần dùng đến 3 lạng, giảm đi một chút. Trần Tu Viên có câu phương ca: “Cầm Liên khổ giáng tịch Khương khai, tế dĩ Nhân sâm tuyệt diệu tai. Tứ vật b́nh hành các tam lạng, chư phàm cự cách thử phương cai.” (Hai vị Cầm Liên vị đắng có khả năng giáng hạ, Can khương vị cay khai mở cùng với Nhân sâm bổ khí cho tỳ vị, phương này bao quát các loại cự cách (giải quyết mọi trở ngại); Phàm là chứng cách nghịch, hàn hay nhiệt phương này đều có thể trị liệu. Tuy nói vậy nhưng khi điều trị nên ước lượng nặng nhẹ. Nếu là chứng hàn cách (hàn gây trở ngại), có thể tăng lượng Can khương một chút và lượng Cầm Liên thấp xuống một chút; Nếu là nhiệt cách, th́ có thể tăng lượng Cầm Liên khổ giáng và hạ bớt lượng Can khương; Nếu tỳ hàn vị nhiệt, bên trên ẩu thổ mà ở dưới tiêu chảy, th́ dùng lượng Can khương và Cầm Liên nên bằng nhau, v́ vậy, phương thang này như thế nào là phụ thuộc vào sự gia giảm biến hoá thêm bớt của nó. Chứng cách nghịch có tính hàn không có nhiệt, có thể dùng thang Đinh Du Lư trung, chính là thang Lư trung gia Đinh hương, Ngô thù du. Loại ẩu thổ do lạnh này không phải là loại ăn khỏi miệng là thổ (thực nhập khẩu tức thổ), mà thời gian ăn vào rồi thổ ra dài hơn, “Số vi khách nhiệt bất năng tiêu cốc, triêu thời mộ thổ, mộ thời triêu thổ” (Khách nhiệt không thể tiêu hoá ngũ cốc, sáng sớm (hoặc trước buổi trưa) ăn vào thi buổi tối thổ ra hoặc ngược lại) thuộc hàn tính th́ thổ muộn, ăn vào thổ ngay mà có nhiệt tượng là chứng cách (trở ngại) của hoả nhiệt, có thể dùng thang Can khương Hoàng cầm Hoàng liên Nhân sâm, v́ sao gia thêm vị Can khương, v́ có nhiệt cách (trở ngại của nhiệt), dùng thêm một chút vị thuốc cay nóng là đầu kỳ sở dục* (投其所欲)làm điều nó muốn, khiến cho không phát sinh cách cự (trận đấu đề kháng), cũng chính là chiến lược trị liệu của Trung y. Đương nhiên khi vị nóng tỳ lạnh, tỳ vị bất hoà, cũng có thể linh hoạt sử dụng thang Can khương Hoàng cầm Hoàng liên Nhân sâm là phương thang bao gồm cả hàn và nhiệt dược.
360下利,有微热而渴,脉弱者,今自愈。 C374
361 下利,脉数,有微热汗出,今自愈。设复紧,为未解。 C375
362 下利,手足厥冷无脉者,灸之不温,若脉不还,反微喘者,死。 C376
362少阴负趺阳者,为顺也。 C377
360 Hạ lợi, hữu vi nhiệt nhi khát, mạch nhược giả, kim tự dũ. C374
361 Hạ lợi, mạch sác, hữu vi nhiệt hăn xuất, kim tự dũ, thiết phục khẩn, vi vị giải. C375
362 Hạ lợi, thủ túc quyết lănh vô mạch giả, cứu chi bất ôn, nhược mạch bất hoàn, phản vi suyễn giả, tử. C376
362 Thiếu âm phụ Phu dương giả, vi thuận dă. C377
Đây là 4 điều đều bắt đầu bằng hạ lợi (tiêu chảy), hạ lợi đều chính là chỉ về chứng tiêu chảy do lạnh của kinh Quyết âm, phản ảnh lư hàn (bên trong lạnh)
Điều C374 “Hữu vi nhiệt” là phát nhiệt nhẹ, không phải đại nhiệt (sốt cao), cũng không phải là tráng nhiệt (sốt rất cao). “Nhi khát”, người này c̣n khát nước. Tiêu chảy là âm chứng, khát nước nhẹ, đây là dấu hiệu của dương khí trở lại, cũng có thể nói trong âm chứng thấy hiện tượng dương. “Mạch nhược giả”, là mạch vô lực, phản ảnh tà khí không mạnh. Sau khi tiêu chảy chính khí bị tổn hại nhẹ, mạch và chứng phù hợp với nhau, bệnh sẽ tự lành. Sốt nhẹ và khát kết hợp với mạch nhược (mạch vô lực) cho thấy dương khí không khôi phục thái quá, mà chính là ở mức độ thích hợp.
Chứng tiêu chảy ở điều C375 cùng dạng với điều bên trên, cũng là chứng âm hàn. “Mạch sác”, là âm chứng nhưng thấy dương mạch, “hữu vi nhiệt, hăn xuất” (sốt nhẹ, xuất hăn), đây chính là dương khí phá âm, dương khí đă khôi phục có thể phân bố trên bề mặt cơ thể, v́ thế sốt nhẹ và xuất hăn không có ư nghĩa là cách dương đái dương*, mà chính là biểu hiện của dương khí khôi phục ở âm chứng, then chốt ở chữ “Vi”(Nhẹ). “Kim tự dũ”(bây giờ tự lành bệnh), ngoài việc xuất hiện mạch sác như vậy là âm chứng thấy dương mạch, mà c̣n có hiện tượng tốt là sốt nhẹ xuất hăn của dương khí khôi phục. Giả thiết nếu lại là mạch khẩn, mạch khẩn cũng có ư nghĩa của mạch sác, cũng có nhà chú giải cho rằng “Thiết phục khẩn” chính là thấy âm mạch, v́ cũng là âm mạch, âm chứng c̣n thấy âm mạch, mạch khẩn chủ vệ bên trong rất lạnh, “vi vị giải”, bệnh này chưa tốt, v́ thế chứng tiêu chảy nếu thấy dương mạch là có thể chữa khỏi bệnh.
Điều C376 “Hạ lợi, thủ túc quyết lănh, vô mạch giả”, hàn tà rất mạnh, dương hư nên tay chân quyết lănh, khí huyết không liên tục nên không có mạch, bệnh rất nguy cấp, ở thời của Trương Trọng Cảnh, cấp cứu chỉ có phương pháp cứu (đốt huyệt), cứu huyệt Khí hải, Quan nguyên, Đại đôn, Thái xung… “Cứu chi bất ôn”(đốt mà tay chân vẫn lạnh). “Nhược mạch bất hoàn” nếu mạch không đến là khí huyết không thông; Không những là thận dương hư mà tâm dương cũng đă không đầy đủ. “Phản vi suyễn giả” lại thêm chứng suyễn nhẹ, là biểu hiện của nguyên khí thoát ở trên, là hội chứng chết.
Điều C377 “Thiếu âm phụ Phu dương giả, vi thuận dă”, bản của họ Triệu lấy điều này hợp với điều kế bên trên hợp thành một điều. Bản của họ Thành lại phân ra. Đối với việc giải thích điều này cũng có hai loại: Một loại là quan điểm của Thành Vô Kỷ, ông cho rằng Thiếu âm chính là thận thuỷ, Phu dương chính là tỳ thổ, tiêu chảy là thận tà mạo phạm tỳ, nếu như thuỷ không thể thắng thổ, th́ là tà nhỏ, là thuận. Chiếu theo học thuyết ngũ hành, Thiếu âm thuộc về thuỷ, Phu dương là mạch của vị, thuộc về tỳ vị, tỳ vị thuộc thổ, v́ thế tà của thuỷ phạm vào tỳ vị, đây là thuận, tại sao? V́ thổ có thể khắc thuỷ, thuỷ phạm thổ là một tà nhỏ bé(vi tà), v́ thế là thuận, đó c̣n là lư do, nhưng nó khá gượng ép.
Quan điểm thứ hai cho rằng, Thiếu âm chính là tiên thiên, tỳ vi là hậu thiên, tam âm vi bệnh chính là dương khí hư, hàn khí thịnh. Thua là chết, dương khí của Thiếu âm lúc này không phấn chấn, đây là tất nhiên không thể tránh khỏi. V́ âm dương là bệnh đến một mức độ nhất định sẽ ảnh hưởng đến thận, mà thận lại là căn bản của âm dương, v́ thế bất luận là âm hư hay dương hư, cuối cùng ảnh hưởng đến thận là có nguy hiểm vong âm, vong dương, thương hàn bệnh th́ có nguy hiểm vong dương, ở bệnh ôn nhiệt th́ có nguy cơ vong âm, vong âm, vong dương đều chính là hung tướng (khuôn mặt hung dữ) Phu dương chỉ về vị khí, dương khí của Thiếu âm tuy đă hư suy, nhưng vị khí của hậu thiên c̣n chưa suy bại giống như Thiếu âm, vị khí vẫn tồn tại, cũng là dương khí của hậu thiên tỳ vị, khí của thuỷ cốc c̣n tồn tại, “vi thuận dă”.
Con người với vị khí là căn bản, có ngũ cốc là tốt đẹp phát triển, hết ngũ cốc là tiêu vong. Mạch của ngũ tạng gọi là vị khí, sự sống của con người phải có vị khí, có vị khí th́ sống, không có vị khí th́ chết, v́ thế có vị khí th́ gọi là thuận.
Trong bệnh của quyết âm nêu được vấn đề Phu dương, cũng đề xuất được vấn đề trừ trung* “Phản dư Hoàng cầm thang dục triệt kỳ nhiệt” (反予黄芩汤欲彻其热)lại dùng thang Hoàng cầm để tẩy trừ nhiệt, sẽ dễ biến thành trừ trung, tiên lượng xấu, nếu như không biến thành trừ trung, vị khí c̣n tiếp tục tồn tại, th́ tuy là bệnh nặng nhưng cũng c̣n những biểu hiện thuận lợi tốt đẹp. V́ thế trong thiên Quyết âm bệnh, cuối cùng của tam âm, đề xuất “Thiếu âm phụ Phu dương giả, vi thuận dă”*, chính là một tổng kết ư nghĩa.
Người viết đồng ư với loại giải thích thứ hai, v́ văn tự thời hậu Hán có khả năng rất hỗn tạp.
Đây là một điều có ư nghĩa chỉ đạo lâm sàng rất mạnh mẽ. Tư tưởng của Trung y luôn nhất quán (trước sau như một), chính là khi điều trị bệnh không lúc nào thày thuốc được quên vị khí, cho nên Trần Tu Viên tổng kết {Thương hàn luận} với 6 chữ, một là “Bảo vị khí”, hai là “Tồn tân dịch”. 保胃气‛,‚存津液‛。
363 下利,寸脉反浮数,尺中自涩者,必清脓血。 C378
363 Hạ lợi, thốn mạch phản phù sác, xích trung tự sáp giả, tất thanh nùng huyết. C378
Điều này tŕnh bày mạch chứng của Quyết âm nhiệt lợi.
Loại tiêu chảy này là hàn chứng hay nhiệt chứng? Nếu như “Thốn mạch phản phù sác”, mạch phù sác là dương mạch, “Đại Phù Sác Động Hoạt giả dương dă” (大浮数动滑者阳也), đều là dương mạch, là âm chứng mà được dương mạch. “Xích trung tự sáp giả”, mạch ở dưới bộ quan là thuộc âm, mạch Sáp chính là mạch Tŕ, mạch rất nhỏ rất sáp trệ, loại tiêu chảy này là không tốt, không phải là mạch tự hoà của dương khí hồi, âm khí thoái, nên không tốt. “Tất thanh nùng huyết” Phân của người này biến thành máu mủ. Thốn mạch là vị trí dương, lại thấy phù sác là dương mạch, phản ảnh dương khí có thừa, biến thành nhân tố gây bệnh; Mạch xích trệ sáp, phản ảnh âm hư. Dương mạnh thêm vào âm yếu nhược, âm dương đă không thăng bằng, dương nhiệt gây tổn thương âm lạc, sẽ xuất hiện đại tiện có máu mủ.
Tóm tắt h́nh tượng mạch là thốn mạch phản Phù Sác và mạch xích bộ trệ Sáp, cũng tóm tắt biến hoá bệnh lư, dùng mạch thay nguyên nhân bệnh, thay bệnh cơ* là đặc điểm luận bệnh của Trương Trọng Cảnh.
Trong {Thương hàn luận} có rất nhiều câu như vậy, “dương phù giả nhiệt tự phát, âm nhược giả hăn tự xuất”( 阳浮者热自发,阴弱者汗自出)Dương mạch phù tự phát nhiệt, âm mạch nhược tự xuất hăn (mồ hôi) , đều là lời nói về mạch, cũng là nói về bệnh lư, nhất cử lưỡng đắc.
364下利清谷,不可攻表,汗出,必胀满。 C379
364 Hạ lợi thanh cốc, bất khả công biểu, hăn xuất, tất trướng măn. C379
Điều này tŕnh bày chứng dương hư lư hàn không thể công biểu phát hăn.
Hạ lợi hàn tính thuộc dương hư, dượng hư nên không thể phát hăn. Dương hư mà bên trong lạnh (lư hàn), dương khí không thể làm chín thuỷ cốc, v́ thế tiêu chảy ta thuỷ cốc chưa tiêu hoá (thanh cốc). Lúc này có biểu bệnh cũng không thể công biểu phát hăn. Nếu như công biểu, mồ hôi xuất ra, chững những chứng tiêu chảy thanh cốc không được giải trừ mà bụng c̣n bị trướng đầy.
Điều C95 cũng có một diễn đạt tương tự, “Thương hàn y hạ chi, tục đắc hạ lợi, thanh cốc bất chỉ, thân đông thống giả, cấp đương cứu lư; Hậu thân đông thống, thanh tiện tự điều giả, cấp đương cứu biểu. Cứu lư nghi Tứ nghịch thang; Cứu biểu nghi Quế chi thang.” (伤寒医下之,续得下利,清谷不止,身疼痛者,急当救里;后身疼痛,清便自调者,急当救表。救里宜四逆汤;救表宜桂枝汤。)Trương Trọng Cảnh nói cần nhanh chóng cấp cứu bên trong (lư), sau khi uống thang Tứ nghịch, chứng tiêu chảy tự hết, sau đó tái cứu cấp biểu, cứu lư bằng thang Tứ nghịch, cứu biểu bằng thang Quế chi. Hai điều này liên hệ kết hợp lại để xem xét, đây là điều công biểu, khiến bệnh nhân phát hăn th́ sẽ xuất hiện vấn đề như thế nào? Khi xuất mồ hôi th́ sẽ đầy trướng bụng, và đây là những bổ sung cho bộ phận không đầy đủ của điều C95.
Trường Xuân dịch
_________
Câu cấp là tên của chứng trạng. xuất ở {Tố vấn * Lục nguyên chính kư đại luận}. Chi thể bị kéo có cảm giác co rút không thoải mái, co ruỗi không dễ dàng, thường thấy ở chân tay hoặc bụng. Chân tay câu cấp thường do ngoại cảm lục dâm, tổn thương gân mạch, hoặc do huyết hư không nuôi được cân mạch gây ra. Câu cấp ở bụng, thường do thận dương không đầy đủ, khí bầng quang không hoá, thường kèm theo đau lưng, tiểu tiện bất lợi.
 
Reply with a quote

<< Trang trước 1 2 3 4 5 6 7 Trang kế >>

<< Trả Lời >>

Nội Quy | Góp Ý | © 2009 - 2024 yhoccotruyen.org