Trang Chính

  Dược Vị

  Toa Thuốc

  Diễn Đàn

  Đăng Nhập

  Đăng Ký

Diễn đàn >> Kiến Thức YHCT >> Bài giảng Thương hàn luận

<< Đăng Chủ Đề Mới >>
Bài giảng Thương hàn luận - posted by Trường Xuân (Hội Viên)
on November , 22 2023
Bài giảng Thương hàn luận của GS Lưu Độ Châu
Nguyễn Nghị dịch

Lời nói đầu

Sự ra đời của {Thương hàn tạp bệnh luận}, đă xác lập được cấu trúc cơ bản của hệ thống biện chứng luận trị và quy tắc ứng dụng cơ bản của lư pháp phương dược lâm sàng, đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển của y học lâm sàng Trung y. V́ giá trị lư luận và giá trị ứng dụng lâm sàng tuyệt vời, cuốn sách đă được các học giả y học các triều đại xưa coi là “医门之圭臬,医家之圣书”(Y môn chi khuê niết, y gia chi thánh thư) tiêu chuẩn của y học và là thánh thư của các y gia. Nghiên cứu về “Thương Hàn Luận” đă bắt đầu ngay sau khi nó được viết ra không lâu. Sau thời Tống, rất nhiều người đă nghiên cứu “Thương Hàn Luận”. Với tinh thần tích cực chủ trương kế thừa và tiếp nối di sản y học của đất nước, công tŕnh nghiên cứu về “Thương Hàn Luận”đă bước sang một giai đoạn mới, đă xuất hiện một nhóm chuyên gia và nhà giáo dục nghiên cứu “Thương Hàn Luận”. Giáo sư Lưu Độ Châu là một trong những người ưu tú nhất. Trong quá tŕnh giảng dạy “Thương Hàn Luận”, Giáo sư Lưu Độ Châu đă lồng ghép kinh nghiệm lâm sàng và tư duy lư thuyết của cá nhân ḿnh vào bài giảng, điều này không chỉ làm cho lời giải thích sinh động hơn mà c̣n giúp học viên hiểu sâu hơn. May mắn thay, Giáo sư Lưu Độ Châu đă để lại cho chúng tôi một đoạn băng ghi âm khi ông giảng về “Thương Hàn Luận”cho các sinh viên cao học Lư thuyết cơ bản về y học cổ truyền Trung Quốc tại Đại học Y học cổ truyền Trung Quốc Bắc Kinh. Lời giải thích của Giáo sư Lưu Độ Châu dựa trên "Chú giải Thương hàn luận" do Thành Vô Kỷ viết làm bản chính. Ngoại trừ phần có thể tóm tắt và không thể tóm tắt của "Phương pháp biện mạch", "Phương pháp b́nh mạch v.v. Các phần chính được bảo lưu và thứ tự số ① được gán theo thứ tự ban đầu, và sau đó giải thích từng thứ một. (Số đặt ở phía trước là stt của bản thời nhà Tống, số hiệu đặt sau có chữ C là số thứ tự theo bản giải thích của GS Lưu Độ Châu.)
Hy vọng tư tưởng học thuật, nghiên cứu tâm đắc và thái độ học tập của GS được tiếp tục phát huy và nhiều người sẽ được hưởng lợi ích từ đó.
Dựa theo các đệ tử của Giáo sư Lưu Độ Châu như Vương Quốc Khánh và Lư Vũ Hàng, cũng như một nhóm các đệ tử được truyền lại gồm Trần Manh, Trương Đông Mai, Lư Thành Vệ, Thôi Kiện, Hoàng Dĩnh, Vương Dũng, Vi Lan Lan, Trịnh Phong Kiệt, Ngải Diễm Kha, Tôn Yên, Lưu Mẫn, Hứa Hiểu Quyên, Khúc Vinh Ba, Tạ Đ́nh, Trương Hàm Duệ đă điều chỉnh đối chiếu cuốn sách gốc cùng tên mà soạn thành cuốn sách này.

Thương hàn thốt bệnh luận tập
Luận viết: Mỗi khi nghĩ đến Việt nhân vào nước Quắc để vọng chẩn cho Tề hầu, thường thở dài tiếc cho tài năng của ông. Trách kẻ sĩ sống trên đời, không chú ư đến y, dược, nghiên cứu phương thuật, bên trên th́ điều trị bệnh tật cho vua chúa, cha mẹ, bên dưới th́ giúp người bần hàn, ở giữa th́ có thể giữ cho thân ḿnh được sống lâu khoẻ mạnh, nhưng nếu chỉ tranh giành danh lợi, nóng vội, vất vả truy t́m lợi danh, tôn sùng cái ngọn, bỏ bê căn bản, hào nhoáng bên ngoài, nghèo nàn tiều tuỵ bên trong, mà không biết rằng da không c̣n th́ lông dựa vào đâu?.
Đến khi đột nhiên bị bệnh, một căn bệnh ngặt nghèo, hoạn đến, hoạ tới, sợ hăi run rẩy, mất hết sức lực ư chí, t́m đến thày pháp thày bùa, cho rằng bệnh tật là số trời định, thúc thủ chịu thất bại, đem đời sống trăm năm quư giá, giao cho bọn phàm y, thày bói thày cúng, phóng túng sai lầm, ô hô ai tai, không quư trọng thân thể, tin vào thần linh, biến ḿnh thành dị vật, đau thay, cả đời mê muội, không thể giác ngộ, không tiếc sinh mệnh, coi thường sự sống, th́ c̣n nói ǵ đến vinh hoa phú quư! Tiến th́ không yêu người, biết người, thoái không thể yêu ḿnh biết ḿnh, gặp tai hoạ, thân ở nơi nguy hiểm, lúc nào cũng mê mê muội muội, ngơ ngẩn như du hồn. Ôi chính v́ chỉ theo cái phù hoa mà từ bỏ căn bản nên hăm thân nơi nguy hiểm như hố băng hiểm địa. Gia tộc nhà ta rất đông, trên 200 người, từ năm Kiến an đến nay, chưa đầy 10 năm, đă chết mất 2/3, chết v́ thương hàn chiếm đến 7/10. Nghĩ đến sự chết chóc đă qua, lại càng thương cho những người tuổi trẻ chết yểu mà không được cứu, nên ta chú tâm nghiên cứu sách cổ, thu thập các phương, tuyển dụng {Tố vấn}, {Cửu quyển}, {Bát thập nhất nan}, {Âm dương đại luận} , {Thai lư dược lục}, đồng thời b́nh mạch biện chứng, làm thành 16 quyển {Thương hàn tạp bệnh luận}, tuy chưa thể chữa khỏi hết mọi loại bệnh, nhưng có thể biết được nguồn gốc của bệnh, nếu hiểu được ư của ta th́ có thể biết được quá nửa nguyên nhân của bệnh tật. Trời đất dùng ngũ hành để sinh hoá, vận hành vạn vật, con người bẩm thụ ngũ thường (thường khí của ngũ hành) mà có ngũ tạng, kinh lạc phủ du, âm dương hội thông, sâu kín, biến hoá khôn lường, nếu không phải là những người tài cao, hiểu rộng th́ làm sao có thể hiểu được! Thượng cổ có Thần Nông, Kỳ Bá, Bá Cao, Lôi Công, Thiếu Du, Thiếu Sư, Trọng Văn, trung thế có Trường Tang, Biển Thước, Thời Hán có Công Thừa Dương Khánh và Thương Công, sau nữa th́ chưa nghe đề cập đến. Quan niệm về việc làm thuốc hiện nay là không nghĩ đến việc nghiên cứu, t́m hiểu ư nghĩa kinh điển mà tŕnh bày hiểu biết của ḿnh, chỉ theo truyền thống gia đ́nh, trước sau thuận theo như cũ, xem tật hỏi bệnh, sự việc đều do kể lại. Suy đoán một cách tương đối hời hợt mà cấp thuốc, tựa như án bộ thốn mà không án đến bộ xích, khám tay bệnh nhân mà không khám đến chân, Nhân nghênh Điệt dương không tham khảo cả ba bộ, số mạch đập theo hơi thở không đủ 50, không quyết đoán trong thời gian ngắn, không nghĩ đến cửu hậu, chưa bao giờ quan sát Minh đường, Khuyết đ́nh, tầm nh́n hời hợt, hạn hẹp, thế mà muốn phân biệt sống chết th́ chẳng phải khó lắm sao?
Khổng Tử nói: Sinh ra mà biết là bậc trên, học mà biết là á thánh, nghe học nhiều mà biết th́ kém hơn, ta ngày đêm nghiên cứu phương thuật, theo sự việc mà kể lại, nên cũng chỉ là người thường thôi.

Nguồn gốc và sự phát triển của Thương hàn luận.
Thương hàn luận có tên là {Thương hàn tạp bệnh luận} hoặc {Thương hàn thốt bệnh luận}
Là trứ tác của Trương Cơ thời hậu Hán. Trương Cơ, tự là Trọng Cảnh, người ở nam quận Niết Dương (nay là quận Nam Dương) sống trong khoảng thời gian từ năm 150- 219 sau công nguyên. Ông từng theo học danh y Trương Bá Tổ, quá nhiều năm miệt mài nghiên cứu, bất luận là mực độ lư luận y học hay thực tiễn lâm sàng, đều vượt qua thày, có thể nói là “青出于蓝而胜于蓝” (Thanh xuất vu lam nhi thắng vu lam) màu xanh xuất từ màu lam mà thắng màu lam.
I/ Bối cảnh lịch sử và điều kiện chủ quan và khách quan của {Thương hàn luận}
Trương Trọng Cảnh sống vào những năm cuối của thời Đông Hán, do sự bóc lột và áp bức tàn nhẫn của giai cấp thống trị phong kiến thời bấy giờ, đặc biệt là chiến tranh liên miên và dịch bệnh (bệnh truyền nhiễm) nên người dân sống không tốt. Theo lời tựa của "Thương hàn tạp bệnh luận”: Ḍng tộc nhà ta rất đông, khoảng hơn 200 người. Từ năm Kiến an đến nay, chưa đầy 10 năm, đă chết hết 2/3, bị chết v́ sốt thương hàn chiếm 7 phần 10. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp viết {Thương hàn luận} của Trương Trọng Cảnh. Lấy gia đ́nh của Trương Trọng Cảnh làm ví dụ, có hơn 200 người, nhưng chưa đầy mười năm sau năm Kiến An thứ nhất đă có hơn 120 người chết, chiếm 2/3 dân số, trong đó có những người đă chết sốt thương hàn là hơn một trăm người. Đánh giá về số người chết này, dịch bệnh tràn lan vào thời điểm đó là đáng báo động. V́ vậy, Trương Trọng Cảnh, với tư cách là một nhà khoa học y học đầy khát vọng, lập chí chiến đấu và chữa bệnh, cứu người, và sau đó ông đă viết cuốn sách “Thương hàn tạp bệnh luận”.
“Kiến an kỷ niên dĩ lai”, “Kiến an” là niên hiệu của Hán Hiến đế.
Khảo sát theo t́nh huống lịch sử, không phù hợp lắm với mô tả của Trương Trọng Cảnh, và có khả năng đă viết nhầm chữ “Kiến Ninh” thành hai chữ “Kiến An”. Kiến ninh là niên hiệu của Hán Linh Đế, trước Kiến An. Căn cứ theo Hậu Hán thư, trong khoảng 9 năm này có 3 lần đại dịch làm chết nhiều người. Người ta suy đoán rằng Trương Trọng Cảnh đă nhớ lại cái chết của đại dịch thời Kiến Ninh vào thời Kiến An, điều này phù hợp với sự thật lịch sử. Đại dịch xảy ra trong thời kỳ Kiến An là khi nào? Không phải trong ṿng mười năm của Kiến An, mà là 22 năm của Kiến Ninh. Theo ghi chép của "Thái B́nh Ngự Lăm", Cao Thực, con trai của Tào Tháo, nói rằng t́nh h́nh dịch bệnh kích thích trong 22 năm Kiến An đă đạt đến thảm cảnh "nỗi đau của người chết trong mỗi gia đ́nh, sự tang tóc và tiếng khóc có trong mọi nhà ".
Ngoại trừ bối cảnh lịch sử, c̣n có nguyên nhân khác thúc đẩy Trương Trọng Cảnh viết {Thương hàn tạp bệnh luận}.
Ngoài bối cảnh lịch sử của trận dịch vào thời điểm đó, c̣n có một lư do khác đă thúc đẩy Trương Trọng Cảnh viết {Thương hàn tạp bệnh luận}.. Vào thời hậu Hán, sự phát triển của y học Trung Quốc đă tạo điều kiện cho Trương Trọng Cảnh viết sách. Trong lời nói đầu ban đầu, Trương Trọng Cảnh đă liệt kê những cuốn sách y học phong phú mà ông đă tham khảo khi viết {Thương hàn tạp bệnh luận}. bao gồm, tuyển dụng "Tố vấn", "Cửu quyển", "Bát thập nhất nan", "Âm Dương Đại luận", Thai Lư "," Dược lục ", và “B́nh mạch biện chứng” là {Thương hàn tạp bệnh luận} trong 16 quyển.
Trên cơ sở những sách tham khảo này với phương pháp sàng lọc lấy những ǵ tinh tuư nhất (khứ thô thủ tinh) , Trương Trọng Cảnh đă làm nên một tác phẩm vĩ đại. Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của dược học thời Hậu Hán cũng thúc đẩy sự nâng cao tŕnh độ của phương tễ học, các phục phương đă được sử dụng để điều trị bệnh và được sử dụng rộng răi trong thực hành lâm sàng.
Với sự hoàn chỉnh của lư pháp phương dược trong {Thương hàn tạp bệnh luận} nên được gọi là “Phương thư chi tổ” (tổ của các phương thuốc) then chốt là phải hoàn chỉnh là điều kiện tiên quyết. Một số di tích văn hóa được khai quật cũng có thể minh họa cho vấn đề này. V́ vậy, việc xuất bản cuốn {Thương hàn tạp bệnh luận} phản ánh tŕnh độ phát triển và thành tựu của y học Trung Quốc thời hậu Hán.
Trương Trọng Cảnh không chỉ kế thừa những thành tựu y học trước thời Hán mà c̣n phát triển tính sáng tạo. Nói một cách ngắn gọn, ông đă cải thiện đáng kể tŕnh độ biện chứng luận trị trong y học Trung Quốc. Mặc dù phương pháp biện chứng luận trị đă có từ trước Trương Trọng Cảnh, nhưng tŕnh độ vẫn c̣n hạn chế.
{Thương hàn tạp bệnh luận} đă thiết lập một hệ thống hoàn chỉnh về biện chứng luận trị cho các bệnh lâm sàng khác nhau. Sốt thương hàn là một bệnh cấp tính, truyền nhiễm, phát sốt, phát bệnh cấp, phát bệnh nhanh;Tạp bệnh là nhiều bệnh măn tính khác với bệnh thương hàn. Nếu nói rằng tŕnh độ biện chứng luận trị không được nâng cao; Sẽ không thể tưởng tượng là đă thảo luận về bệnh thương hàn lại thảo luận về tạp bệnh. Thí dụ như nói, phương pháp phân chứng lục kinh của {Thương hàn luận} bắt nguồn ở {Tố vấn. Nhiệt luận}, nhưng không giới hạn ở nhiệt chứng và thực chứng, mà là kèm theo hư chứng và hàn chứng, đồng thời phản ảnh khách quan t́nh huống cụ thể tạng phủ kinh lạc, âm dương biểu lư, hàn nhiệt hư thực. Những bệnh biến và hội chứng đều được khái quát hoá, phân chứng lục kinh được toàn diện và phong phú hơn, chính là những cống hiến rất lớn. Trương Trọng Cảnh sử dụng thuốc và thang dịch cũng rất phong phú, {Thương hàn luận} có 113 phương thang, bao gồm 91 vị thuốc, dựa theo từng bước lư pháp phương dược để phù hợp với lâm sàng thực dụng.
Có thể thấy, {Thương hàn tạp bệnh luận} là một trứ tác kết nối quá khứ với tương lai, phát triển lư luận y học từ trước thời nhà Hán, đến hiện tại cũng c̣n ư nghĩa chỉ đạo nhất định. Trương Trọng cảnh có khả năng sáng tạo, không khoe khoang, luôn tiến bộ và phát triển dựa trên nền tảng của những người tiền nhiệm.

II/ Sự lưu truyền và ấn bản của {Thương hàn luận}

Không lâu sau khi xuất bản cuốn {Thương hàn tạp bệnh luận}, cuốn sách đă bị hư hại nghiêm trọng do nạn cướp bóc và chiến tranh, và mười sáu tập gốc cũng bị phân tán ( Khoảng 100 năm kể từ thời kỳ hậu Hán, nơi Trọng Cảnh tọa lạc),
Thái y lịnh Tây Tấn Vương Thúc Hoà rất coi trọng {Thương hàn tạp bệnh luận} của Trương Trọng Cảnh. Sau khi thu thập, phân loại và viết lại, nó đă trở thành mười tập {Thương hàn luận}.
Nếu kiến thức lịch sử này không rơ ràng, trong tương lai mối quan hệ giữa {Thương hàn luận}, {Thương hàn tạp bệnh luận} và {Kim quỹ yếu lược} sẽ rất dễ bị nhầm lẫn.
Thầy thuốc Nhật Bản Sơn Điền Chính Trân từng nói: “Thù bất tri cổ tích thập lục quyển chi bản thị Vương thị bất truyền, tuy Thúc Hoà diệc bất đắc nhi kiến chi hĩ.” Cũng như có ư nói là Vương Thúc Hoà cũng không xem đầy đủ 16 quyển. V́ vậy, Vương Thúc Hoà có công đối với việc lưu truyền“Thương hàn tạp bệnh luận” nếu không chúng ta sẽ không thấy cuốn sách này bây giờ. Khi gặp khó khăn trong quá tŕnh phân loại, Vương Thúc Hoà có thể tham gia vào bằng ư kiến riêng của ông.
Sẽ không công bằng nếu đổ lỗi cho ông đă phá huỷ văn bản gốc. C̣n một số học giả đă cho rằng Vương Thúc Hoà đă chia {Thương hàn tạp bệnh luận} thành hai cuốn sách, kết luận này hiện nay vẫn bỏ ngỏ. Diện mạo và t́nh huống ban đầu của {Thương Hàn Luận}rất khó t́m thấy trong các tư liệu lịch sử, chỉ có một vài manh mối trong sách lịch sử.
Trong {Tuỳ Thư * Kinh Tịch Chí} ghi lại “{Trương Trọng Cảnh biện Thương hàn} thập quyển” , trong{Đường Thư * Nghệ Văn Chí}ghi lại “{Thương Hàn Tạp Bệnh Luận} thập quyển”. Nếu Vương Thúc Hoà lấy {Thương Hàn Tạp Bệnh Luận} phân thành 10 quyển {Thương hàn luận} và 10 quyển {Tạp Bệnh Luận}, th́ v́ sao
{Tuỳ Thư * Kinh Tịch Chí} và {Đường Thư * Nghệ Văn Chí} không ghi lại?
Ngoài ra, trong {Tống Sử * Nghệ Văn Chí} ghi lại “{Thương Hàn Luận} thập quyển, {Kim Quỹ Yếu Lược} tam quyển”.

Sở dĩ có ghi chép này là vào thời Tống Thái tổ, tiết độ sứ Cao Kế Xung đă đóng góp 10 quyển tổng cộng 22 bài trong "Thương Hàn Luận", sau đó, học sĩ hàn lâm Vương Chu đă phát hiện ra ba tập{Kim Quỹ Ngọc Hàn Yếu lược phương} ở trong những nơi chứa sách cũ đă bị mối mọt.
Trong triều đại Trị b́nh của nhà Tống (1065 SCN), chính quyền nhà Tống đă ra lệnh cho các quan y tế Cao Bảo Hành, Lâm Ức, Tôn Kỳ và những người khác sửa chữa y thư. Trong số đó, mười tập "Thương hàn luận" do Cao Kế Xung hiến đă được sửa chữa, sau đó được khắc và in rồi bán ra thị trường. Đồng thời, "Kim Quỹ ngọc Hàm Yếu Lược Phương" do Vương Chu phát hiện ra, và một bản sao riêng của "Thương Hàn Luận", cũng được sửa chữa. Hiện chỉ có ba phiên bản "Thương Hàn Luận" đang được sử dụng: một là phiên bản Niên Gian được khắc lại bởi Triệu Khai Mỹ trong thời Vạn Lịch của nhà Minh, được gọi là Triệu bản; Phiên bản c̣n lại là "Chú Giải Thương Hàn Luận "do Vương Kế Xuyên khắc lại vào thời Gia Tĩnh của nhà Minh, gọi tắt là Vương bản; Ngoài ra c̣n có" Kim Quỹ Ngọc Hàm Kinh ", được cho là do Vương Thúc hoà viết và gồm tám quyển. và hai mươi chín điều, nội dung về cơ bản tương đồng với “Thương Hàn Luận” nhưng cách sắp xếp các điều khoản không hoàn toàn giống nhau, đồng thời điều văn ở trên mà phương dược ghi ở phía sau. . Tại sao lại có "Kim Quỹ Ngọc Hàm Kinh"?
Nghe nói “Thương Hàn luận” rất được các thầy thuốc coi trọng, để tránh thiệt hại do chiến tranh, người ta đă đặt mua một cuốn sách riêng. Cá nhân tôi nghĩ rằng điều này không phải lúc nào cũng đúng, bởi v́ thứ tự của các bài văn, thứ tự sắp xếp của {Kim Quỹ Ngọc hàm Kinh} rất khác với bản của họ Triệu và bản của họ Vương, v́ thế phương pháp, cách hiểu và phương diện học thuật không hoàn toàn tương đồng với {Thương Hàn luận}. Trên đây là diễn biến lịch sử của {“Thương Hàn Luận” }
Như vậy {Thương Hàn Tạp Bệnh Luận} là tên được đặt bởi Trương Trọng Cảnh, v́ sao lại trở thành {Thương Hàn Luận}như hiện nay? Điều này đă có lịch sử lâu đời. {Tuỳ Thư * Kinh Tịch chí} đă đề cập “{Trương Trọng Cảnh biện Thương Hàn} thập quyển”, {Biện Thương Hàn} chính là {Thương Hàn Luận}. Có một số y gia như Kha Vận Bá phàn nàn cho rằng Vương Thúc Hoà đă thay tên {Thương Hàn Tạp Bệnh Luận} thành {Thương Hàn Luận} là không phù hợp. Tuy nhiên {{Tuỳ Thư * Kinh Tịch Chí}đề cập đến “{Trương Trọng Cảnh Biện Thương Hàn} thập quyển”, nhưng {Đường Thư * Nghệ Văn Chí} lại đề cập “{Thương Hàn Thốt Bệnh Luận} thập quyển” ở đây có một từ viết sai, chữ “卒” (Thốt) là chữ việt sai của chữ “杂” (Tạp). V́ thế bắt đầu từ chọn lựa của Vương Thúc Hoà là{Thương Hàn Luận} đến nay vẫn c̣n một nghi vấn {Thương Hàn Luận} hay {Thương Hàn Tạp Bệnh Luận}.


Theo ư kiến cá nhân của tôi, rất ít khả năng Vương Thúc Hoà đă thay đổi {Thương Hàn Tạp Bệnh Luận} thành{Thương Hàn Luận}. Người ta công khai gọi là {Thương Hàn Luận}từ thời nhà Tống. Vào thời nhà Tống, việc sửa đổi sách y học nhân danh chính phủ đă phổ biến trong xă hội, lúc này không c̣n gọi là {Thương Hàn Tạp Bệnh Luận}nữa mà là {Thương Hàn Luận}, có ảnh hưởng rất lớn. Tại sao lại đổi{Thương Hàn Tạp Bệnh Luận} được đổi thành {Thương Hàn Luận}? Có một lư do cho việc này. Truyền thống Trung Quốc rất nghiêm ngặt. Làm sao có thể thay đổi tên sách một cách ngẫu nhiên? Cao Bảo Hành, Lâm Ức và những người khác đă đề cập trong lời tựa của {Kim Quỹ} rằng Trương Trọng Cảnh viết {Thương Hàn Tạp Bệnh Luận} gồm 16 quyển, thời gian gần đây truyền lại mười quyển {Thương Hàn}, {Tạp Bệnh} cũng chưa thấy xuất hiện. V́ thế Vương Thúc Hoà chỉ chọn 10 quyển trong 16 quyển {Thương Hàn Tạp Bệnh Luận} và ông không t́m thấy 6 quyển c̣n lại.
V́ {Thương Hàn Tạp Bệnh Luận} bao gồm mười sáu quyển, trong đó {Thương Hàn Luận} có mười quyển, nên một số học giả cho rằng sáu quyển đó là {Tạp Bệnh Luận}. “Trương Trọng Cảnh viết {Thương Hàn Tạp Bệnh luận} hợp thập lục quyển”, được coi là sự kết hợp của hai cuốn sách trong 16 tập. Cách hiểu này là không đúng. Người xưa viết sách đều dùng chữ “Hợp”, “hợp nhị thập quyển”, “hợp thập ngũ quyển”, “hợp nhất bách quyển” chữ “hợp” này không giống với chữ “hợp” ở hai sách hợp lại.
10 Quyển là {Thương Hàn luận}, 6 quyển là {Tạp Bệnh Luận} là không logic.
V́ vấn đề này không được làm rơ nên đă tạo ra một ảo tưởng rằng{Thương Hàn Luận} được dành cho bệnh ngoại cảm nhiệt. Mọi người có thể nghĩ xem, không có tạp bệnh nào liên quan đến mười quyển {Thương Hàn Luận} của Vương Thúc Hoà tuyển chọn? Đó là điều không thể.
Người viết phản đối tất cả các quan điểm này. {Kim Quỹ Yếu lược}có điều trị thương hàn không?
Có hay không có Thái dương bệnh? Có hay không có lục kinh bệnh? Đơn thuốc đầu tiên là qua lâu Quế chi thang, trị Thái dương bệnh cứng lưng gáy, bất quá cũng chỉ là mạch trầm mà thôi, cho nên gia Qua lâu căn; Bệnh kính “tất giới xỉ”, lại chính là vấn đề của kinh dương minh. V́ thế, {Thương Hàn Luận} và {Kim Quỹ Yếu lược} tuy có những điểm nhấn riêng, nhưng không nên áp đặt, mà chính là có liên hệ hữu cơ.
Thương hàn luận là sách ǵ?
Để học tốt {Thương Hàn Luận}, chúng ta phải giải quyết {Thương Hàn Luận} là sách ǵ? " ‛Về vấn đề này, đă có nhiều tranh căi giữa các thày thuốc trong quá khứ. Một số người bị ảnh hưởng bởi tiêu đề của {Thương Hàn Luận} và tin rằng {Thương Hàn Luận} chỉ để điều trị sốt thương hàn. Có người cho rằng dù là mười quyển nhưng vẫn thiếu sáu quyển, nhưng tôi hiểu từ tinh thần rằng có cả bệnh thương hàn và các tạp bệnh, và vận dụng phương pháp biện chứng luận trị. Cá nhân tôi giữ quan điểm thứ hai. Do đó, không nên giới hạn cuốn sách {Thương Hàn Luận} trong việc điều trị một loại bệnh nào đó hoặc sử dụng một số đơn thuốc nhất định.
Nếu như vậy là {Thương Hàn Luận} đă bị giáng cấp, mà đúng ra chúng ta nên xem {Thương Hàn Luận} chính là một bộ sách của biện chứng luận trị.
I/ Ư nghĩa căn bản của Thương hàn và tạp bệnh
V́ có liên quan đến vấn đề thương hàn và tạp bệnh, cũng như vấn đề biện chứng luận trị, nên cần phải giải thích cụ thể hàm nghĩa của nó. {Thương Hàn Luận} Thuật ngữ “Thương hàn” dùng để chỉ bệnh thương hàn theo nghĩa hẹp, không phải là bệnh thương hàn theo nghĩa rộng. Nghĩa rộng của Thương hàn là chỉ về tất cả các chứng ngoại cảm nhiệt bệnh, như trong "Tố vấn Nhiệt luận", nói rằng “Kim phu nhiệt bệnh giả, giai thương hàn chi loại dă” (今夫热病者, 皆伤寒 之类也) tất cả những người bị sốt ngày nay đều là sốt thương hàn, bao gồm các bệnh sốt do phong, hàn, thấp, ôn, thử và nhiệt, gây ra các bệnh phát sốt đều thuộc loại thương hàn nghĩa rộng này. Nghĩa hẹp của thương hàn chỉ giới hạn trên phương diện ngoại cảm phong hàn. Chúng ta hăy xem nội dung của {Thương Hàn Luận}, bao gồm Trúng phong, sốt thương hàn, bệnh sốt, bệnh phong ôn và nhiều bệnh sốt khác nhau, đây chính là nghĩa rộng của thương hàn. Tuy nhiên, trọng điểm của bài viết lại là quy luật lư pháp phương dược (Lư luận-Trị pháp- Phương dược- Dược vật) của thương hàn nghĩa hẹp, đối với ôn bệnh và phong ôn chỉ có thể nói là đại khái không rơ ràng. V́ thế, {Thương Hàn Luận} là bộ y thư luận về nghĩa hẹp của thương hàn. Tại sao các thế hệ sau phát triển ra học thuyết về ôn bệnh? Cho thấy trên phương diện ôn bệnh cũng có điểm thiếu sót. Nhưng cũng có một số y gia như Trần Tu Viên phản đối điều này, cho rằng {Thương Hàn Luận} cũng có thể trị ôn bệnh, thang Ma Hạnh Thạch cao (tức là Ma Hạnh Cam Thạch thang), Quế chi nhị việt tỳ nhất thang cũng đều là những phương thang trị ôn bệnh, đây chính là cưỡng từ đoạt lư vậy.
Tạp bệnh là ǵ?
Là chỉ về nhiều loại bệnh ngoại trừ thương hàn. Việc phân loại trong thời cổ đại không chi tiết như bây giờ và tất cả các bệnh sốt ngoại cảm cấp tính như sốt thương hàn đều được gọi chung là tạp bệnh. Chúng ta cũng có thể nghĩ rằng một số tạp bệnh cũng tương đương với một số bệnh mạn tính, nhưng không phải là tuyệt đối. Một số tạp bệnh cũng có các bệnh cấp tính. So với sốt cấp tính như sốt thương hàn, các tạp bệnh cũng thuộc phạm vi bệnh mạn tính. Nói cách khác: “Tạp” có nghĩa là “nhiều”, trong đó đề cập đến một loạt các bệnh, trừ bệnh thương hàn.
Thương hàn và tạp bệnh là hai phạm vi bệnh lư, thương hàn là cấp tính ngoại cảm nhiệt bệnh, tạp bệnh chính là những biến hoá như rối loạn tạng phủ âm dương, khí huyết tân dịch thất thường, chính là nhiều loại dạng bệnh. Tuy thương hàn và tạp bệnh là hai phạm vi khác nhau, nhưng trên phương diện cơ thể chúng lại có liên hệ hỗ tương không thể tách rời. V́ thế nếu chỉ luận thương hàn mà không luận tạp bệnh, hoặc chỉ luận tạp bệnh mà không luận thương hàn, th́ đều là thiếu sót. Cũng như câu nói: “ 合而论之则双美,分之而论则两伤” “Hợp nhi luận chi tắc song mỹ, phân chi nhi luận tắc lưỡng thương”.(Hợp mà luận cả hai đều tốt, phân chia ra mà luận th́ cả hai cùng tổn thương) Đặc điểm khoa học của 《Thương hàn tạp bệnh luận 》được biểu hiện ở đó. Để làm rơ sự thật này, người viết sẽ giải thích mối quan hệ giữa bệnh thương hàn và các tạp bệnh về một số vấn đề chính trong chuyên luận về {Thương Hàn Luận}.

II/ Biện chứng lục kinh của {Thương Hàn Luận}.
Biện chứng lục kinh là vấn đề quan trọng nhất của {Thương Hàn Luận}, là biện chứng chủ yếu của {Thương Hàn Luận}. Rốt cuộc có phải biện chứng lục kinh dùng để biện chứng thương hàn và biện chứng tạp bệnh? “太阳之为病,脉浮,头项强痛而恶寒”;“阳 明之为病,胃家实是也”;“少阳之为病,口苦、咽干、目眩是也”;“太阴之为病, 腹满而吐,食不下, 自利益甚,时腹自痛,若下之,必胸下结硬” “Thái dương chi vi bệnh, mạch phù đầu hạng cường thống nhi ố hàn” , “Dương minh chi vi bệnh vị gia thực thị dă” ; “Thiếu dương chi vi bệnh, khẩu khổ, yết can, mục huyễn thị dă”; “Thái âm chi vi bệnh, phúc măn nhi thổ, thực bất hạ, tự lợi ích thậm, thời phúc tự thống, nhược hạ chi, tất hung hạ kết ngạnh”Bệnh của kinh Thái dương, mạch phù đau cứng cổ gáy và ghét lạnh; Bệnh ở Dương minh, chính vị gia thực (thực chứng của dạ dày và ruột); Bệnh ở Thiếu dương, miệng đắng, họng khô, hoa mắt; Bệnh ở Thái âm đầy bụng ẩu thổ, ăn không tiêu (bất hạ), tiêu chảy tệ hơn, đau bụng, nếu dùng phép hạ, tất dưới ngực sẽ kết cứng lại . Đây là tất cả về bệnh thương hàn, hoặc nó bao gồm cả tạp bệnh? Một số người nghĩ rằng đó là bệnh thương hàn. Điều này không đúng, bởi v́ Trương Trọng Cảnh là một người Hán và viết sách rất nghiêm cẩn. Nếu v́ là bệnh thương hàn, sẽ không nói "Thái dương chi vi bệnh", mà nên nói là "Thái dương chi thương hàn", v.v. Đă không nói đến “Thương hàn” tức là một cách nh́n có nghĩa rộng. Hơn nữa, ở “Thái dương chi vi bệnh” phần tổng cương biểu chứng ở phần dưới có câu “Thái dương bệnh, hoặc dĩ phát nhiệt, hoặc vị phát nhiệt, tất ố hàn, thể thống, ẩu nghịch, mạch âm dương câu khẩn giả”(Bệnh ở kinh Thái dương, hoặc đă sốt hoặc chưa, tất ớn lạnh, đau người, ẩu thổ, mạch âm dương đều khẩn), gọi là bệnh thương hàn. Các y gia như Kha Vận Bá và Phương Hữu Chấp đă nh́n ra vấn đề này, đề xuất “六经为诸病而设”,“非为伤寒一病而设” (Lục kinh vi chư bệnh nhi thiết), (Phi vi thương hàn nhất bệnh nhi thiết) Lục kinh được thiết lập cho mọi bệnh, không thiết lập riêng cho thương hàn; Nhấn mạnh Lục kinh chính là tổng kết quy luật phát bệnh của kinh lạc tạng phủ từ biểu vào lư (từ ngoài vào trong).
Nếu chúng ta có kinh nghiệm thực tiễn, sẽ thấy dù sử dụng lư luận {Thương Hàn Luận} trên lâm sàng, hay dùng Lục kinh biện chứng, không những điều trị thương hàn mà cũng kiêm trị được tạp bệnh. Thực tiễn chính là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lư duy nhất. V́ lập luận của Trương Trọng Cảnh là từ biểu vào lư, từ dương đến âm, v́ thế chỉ có Thái dương bệnh là cương lĩnh của biểu chứng, “Vị gia thực”(thực chứng của dạ dày và ruột) của Dương minh bệnh chính là do thương hàn truyền kinh đến Vị, tân dịch của Vị bị tổn hại tạo thành chứng táo nhiệt, phân khô thành chứng táo bón, gọi là Dương minh bệnh. Đồng thời, trong {Thương Hàn Luận} c̣n có những nguyên nhân như thực phẩm qua đêm không tiêu hoá hoặc các nguyên nhân khác tạo thành đại tiện táo kết (táo bón). V́ thế, trong {Thương Hàn Luận} đă có đến 3 thang Thừa khí, c̣n có Tỳ ước hoàn (là Ma tử nhân hoàn). Chứng đại tiện táo kết có nhiều nguyên nhân, cũng phát sinh ở tạp bệnh, cấp phúc chứng hoặc tắc ruột, mà bệnh không phải do truyền từ Thái dương vào Dương minh, chỉ cần thấy có các hội chứng như bĩ đầy, táo thực kiên là có thể dùng thang Đại thừa khí hoặc Đại sài hồ để điều trị. Thiếu dương bệnh cũng vậy, có biểu hiện “Miệng đắng, họng khô, hoa mắt” Phương trị liệu chủ yếu là thang Tiểu sài hồ. Bệnh viêm gan trên lâm sàng hiện đại, mà bệnh không do Thái dương bệnh truyền biến, chỉ cần có các hội chứng như ngực, cạnh sườn trướng đầy, tâm phiền ẩu thổ, thường dùng Tiểu sài hồ gia giảm để điều trị, có thể thu được hiệu quả trị liệu rất tốt.
Tóm lại, nên xem xét bệnh của lục kinh theo nghĩa rộng, đây chính là tổng kết quy luật phát bệnh của Trương Trọng Cảnh đối với tạng phủ kinh lạc, chọn lục kinh với 6 loại h́nh để điều khiển các bệnh, có âm có dương, có biểu có lư, có hàn có nhiệt, có hư có thực, đều là từ một phân thành hai (ư nói về tính đối lập). Quan hệ giữa bệnh Tam dương và thương hàn khá dễ hiểu, tam âm bệnh th́ tương đối khó hơn. Thí dụ như, thái âm bệnh là bệnh tỳ vị có tính hư hàn, thượng thổ hạ tả; Không có khả năng đều do ngoại cảm truyền vào, ăn uống sống lạnh, tố chất tỳ dương hư đều chính là nguyên nhân bệnh. Xét theo phương pháp phân chứng lục kinh, chính là thương hàn tạp bệnh cộng luận (luận chung cả thương hàn và tạp bệnh). Trong quá tŕnh dùng phương pháp phân chứng của lục kinh để điều khiển và khái quát bệnh trên lâm sàng, gọi là biện chứng luận trị, làm sao có thể nói đơn thuần là truyền biến của thương hàn? V́ thế, Trương Trọng Cảnh có câu nói: 虽未能尽愈诸病,庶可以见病知源,若能寻余所集,思过半矣。” “Tuy vị năng tận dũ chư bệnh, thứ khả dĩ kiến bệnh tri nguyên, nhược năng tầm dư sở tập, tư quá bán hĩ”(Tuy chưa có thể trị hết bệnh, để có thể thấy bệnh biết được nguồn gốc, t́m được phần c̣n lại là đă làm được quá phân nửa rồi)
III/ Biến chứng của Thương hàn
Biến chứng thương hàn là do bệnh thương hàn phát triển thành, chính là do trị liệu không đúng, hoặc do phát hăn nhầm, hoặc phát hăn quá nhiều, hoặc dùng hoả liệu, hoặc thổ nhầm, hạ nhầm, hoặc do ngậm nước lạnh mà thành bệnh. Do điều trị không đúng, tạo thành một bệnh hoàn toàn khác, bệnh lúc đầu là thương hàn cũng được, là trúng phong cũng được, đều không c̣n tồn tại, xuất hiện một bệnh mới. Loại bệnh mới này có tính hàn, tính nhiệt, tính hư, tính thực, t́nh huống phức tạp phi thường. Trong 《Thương hàn luận》 chiếm 1/3 nội dung chính là luận về biến chứng. Về phương diện điều trị biến chứng, tuy bắt đầu là do thương hàn, nhưng sau khi điều trị sai lầm mà phát sinh biến hoá, phân tích và trị liệu đều phức tạp hơn lúc chưa điều trị sai lầm, có phép ổn định rối loạn, có phép cấp cứu, phân tiêu bản hoăn cấp (gốc ngọn, nhanh chậm) v.v…Biến chứng tuyệt đối không phải là thương hàn đơn thuần, trên thực tế có liên quan đến rất nhiều tạp bệnh. Thí dụ như sau khi phát hăn bụng trướng đầy, trước đó có khả năng có Thái dương bệnh, sau khi phát hăn, biểu đă giải, nhưng bụng lại trướng. Chứng đầy bụng ở thời điểm này là do tạng Tỳ không kiện vận, đàm khí ngưng kết gây ra; Điều trị nên dùng thang Hậu phác Sinh khương Bán hạ Cam thảo Nhân sâm. Đây là thang tễ dùng để điều trị tạp bệnh, là phép tam bổ thất tiêu (Ba phần bổ bảy phần tiêu), rất thường sử dụng trên lâm sàng. Và c̣n rất nhiều những trường hợp tương tự như vừa nêu. V́ thế, trong biến chứng ở sách {Thương Hàn Luận} có một nội dung nhất định chính là luận về ư nghĩa của tạp bệnh.

IV/ Chứng hỗn hợp trong {Thương Hàn Luận}
Chứng hỗn hợp là chỉ về các tật bệnh khác xen lẫn trong thương hàn. Sự vật khách quan đều có tính phức tạp, Con người bị bệnh cũng không đơn giản. Sau khi bị sốt thương hàn, tồn tại những t́nh huống xác thực biểu hiện như ớn lạnh phát sốt, đầu và thân thể đau nhức, nhưng cũng thấy thương hàn luôn luôn có chứng chen lẫn. Chứng chen lẫn là ǵ? Thí dụ như, thông thường hay nói sốt thương hàn kèm theo thương thực chính là bên trong ăn không tiêu kèm theo ngoại cảm phong hàn, tại thời điểm này, phương pháp đổ mồ hôi để điều trị bệnh thương hàn đơn thuần là không đủ. Lại như, với gia đ́nh hen suyễn, thang Quế chi gia Hậu phác hạnh tử quế, gia đ́nh hen suyễn là người có tố chất bệnh suyễn, thậm chí là người có tạng tâm suy yếu. Sau khi bị sốt thương hàn, không những có khả năng biến chứng suyễn phức tạp, c̣n có thể tiến thêm một bước, xuất hiện mạch kết đại, tim hồi hộp, thời điểm này dùng Ma hoàng thang trị liệu có thích hợp? Cần phải nhanh chóng sử dụng thang Chích cam thảo.
Lại như, người hư yếu sau khi bị ngoại cảm, hồi hộp phiền muộn, nên sử dụng thang Tiểu kiến trung, đây là loại h́nh chính hư tà thực (chính khí hư, tà khí thực), có vấn đề tiêu bản hoăn cấp. Lại như, sau khi bị thương hàn toàn thân đau nhức, lại có chứng trạng hư hàn bên trong hạ lợi thanh cốc (đại tiện ra nước trong kèm theo thực phẩm chưa tiêu hoá, không có mùi phân), Trương Trọng Cảnh nhấn mạnh không nên phát hăn, V́ bên trong cơ thể hư hàn, không có hoả để làm chín thuỷ cốc, làm sao c̣n có thể phát hăn? Nên cấp cứu bên trong (cấp cứu kỳ lư), dùng thang Tứ nghịch, v́ thế việc đầu tiên là dùng thang Tứ nghịch để cứu lư, đợi đến khi chứng hạ lỵ thanh cốc (đi đại tiện ra nước)khỏi hẳn, sau đó dùng thang Quế chi để cứu biểu. V́ thế, chứng hỗn hợp rất phức tạp, hỗn hợp hư thực, hỗn hợp hàn nhiệt, hỗn hợp đàm thuỷ, huyết ứ khí trệ, c̣n có những vấn đề như kinh nguyệt phụ nữ v.v… , nếu không có những nhận thức về tạp bệnh th́ hiển nhiên không thể giải quyết các chứng hỗn hợp nêu trên, phương án tốt nhất là cần phải chú trọng cả hai phương diện thương hàn và tạp bệnh.
Nói đến kinh nguyệt của phụ nữ, có đặc điểm sinh lư và bệnh lư, khi xuất hiện bệnh phụ khoa nhiệt ứ huyết thực, nếu không hiểu biết về phụ khoa th́ có khả năng trị bệnh không? Đơn thuần trị thương hàn, đơn thuần dựa vào thang Ma hoàng, thang Quế chi, thang Đại, Tiểu thanh long có được không? Khẳng định là không. Lại như, ,“老怕伤寒少怕痨” lăo phạ thương hàn thiểu phạ lao (Người già sợ thương hàn, người trẻ sợ bệnh lao), người già dương khí đă suy, năng lực kháng bệnh thấp kém, khi cảm thụ phong hàn, phần lớn do Thái dương bệnh phát triển nhanh chóng thành Thiếu âm bệnh, xuất hiện mạch vi tế nhưng có hội chứng muốn ngủ. Thái dương và Thiếu âm có quan hệ biểu lư, Thiếu âm dương khí suy trước, tự nhiên dễ xâm nhập Thiếu âm. Thời điểm này nếu chỉ nhấn mạnh vào thương hàn là thiếu sót, v́ thế {Y tông kim giám – Thương hàn tâm pháp yếu quyết} viết: :“六经为病尽伤寒,气同病异岂期然,推其形 藏原非一,因从类化故多端。” “Lục kinh vi bệnh tận thương hàn, khí đồng bệnh dị khải kỳ nhiên, thôi kỳ h́nh tàng nguyên phi nhất, nhân ṭng loại hoá cố đa đoan.” Đoạn văn trên rất khoa học, nhấn mạnh được vấn đề quan hệ giữa nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài. Nguyên nhân bên trong là nguồn gốc là căn nguyên, nguyên nhân bên ngoài chính là điều kiện. Nếu như chỉ xem xét cơ chế ngoại cảm của thương hàn, không suy xét đến cơ chế nội thương, như tố chất tạng phủ, giới tính nam nữ, tuổi tác già trẻ, khu vực sinh sống, như thế có thể gọi là biện chứng luận trị sao? Làm thế nào để có thánh thư của y học, có nguyên tắc của y học, để đánh giá cao về nó?
V/ Tạp bệnh trong Thương hàn luận
Rất nhiều bài văn trong THL (Thương hàn luận)
đă không đề cập đến các tên bệnh của lục kinh như Thái dương bệnh, cũng không đề cập đến những tên bệnh cụ thể như trúng phong (đột quỵ) hoặc thương hàn, chỉ viết kèm với , bệnh có.. như bệnh có phát nhiệt ớn lạnh, bệnh thường xuất mồ hôi, bệnh bĩ ở dưới cạnh sườn, căn bản không liên quan với thương hàn, hiển nhiên là luận về tạp bệnh. Bệnh bĩ dưới cạnh sườn, cũng là hiện nay chúng ta nói đến chứng Can Tỳ thũng đại (gan tuỵ sưng lớn), với thương hàn có quan hệ ǵ? Do đó, {Thương Hàn Luận} là một bộ sách y học điều trị cả thương hàn và tạp bệnh, và đích thực là một bộ sách biện chứng luận trị. Như vậy nói về học tập, bộ sách đă giúp chúng ta có một tầm nh́n rất xa, và đă nâng biện chứng luận trị lên một tầm cao mới.
Bản {Kim quỹ yếu lược} hiện nay chính là tại thời nhà Tống, được học sĩ hàn lâm Vương Chu thu được trong một gian hàng và đă bị mối mọt.

Giới thiệu Lục kinh
Có thể thấy được lịch sử lâu đời của nó, sự khiếm khuyết không toàn vẹn cũng khó tránh khỏi. Từ nội dung, KQYL (Kim quỹ yếu lược) là tác phẩm của Trương Trọng Cảnh, với 10 quyển phương tễ {Thương Hàn Luận} bổ sung, một số bài văn c̣n tồn tại những đoạn lặp lại, như {{Thương Hàn Luận} - Quyết âm bệnh} và { Kim quỹ yếu lược - Ẩu thổ uế hạ lợi bệnh}. Sau thời Tống, một vài y gia cường điệu phân biệt 10 quyển {Thương Hàn Luận} và {Kim quỹ yếu lược} phân biệt là sách trị thương hàn và tạp bệnh, đă triệt để tách rời {Thương hàn tạp bệnh luận}, những nhận thức này c̣n ảnh hưởng đến ngày nay. Sự thực là, hai bộ sách tuy có những điểm nhấn riêng, nhưng chúng cũng đan xen chồng chéo nhau, không thể tách rời.
III/ Lục kinh là ǵ?
{Thương Hàn Luận} chính là trung tâm của biện chứng lục kinh. Vậy, lục kinh chính xác là ǵ? Lục kinh là tên hay là vật? Về điều này ư kiến trong giới Trung y cũng không thống nhất. Từ sau thời nhà Tống, Thành Vô Kỷ với {Chú giải {Thương Hàn Luận} }, Chu Hoành {Nam dương hoạt nhân thư} v.v…và các sách chú thích {Thương Hàn Luận} khác, từ đó các quan điểm về lục kinh cũng tăng lên.

1/ Nhận thức của các nhà chú giải lục kinh qua các thời đại
Từ nhà Tống đến nhà Minh, phần lớn các nhà chú giải đều thừa nhận lục kinh có tính vật chất, đồng thời không chỉ đơn thuần là tên gọi, v́ hội chứng của lục kinh đều được kiến lập trên cơ sở vật chất nhất định, cơ sở vật chất này chính là phản ảnh sinh bệnh lư của tạng phủ kinh lạc, cho nên gọi chúng là lục kinh. Đến thời nhà Thanh, một số y gia bắt đầu phủ định sự quan hệ giữa lục kinh và kinh lạc. Đến thời gian gần đây, nhiều nhà chú giải công khai cho rằng lục kinh chỉ là một cái tên mà thôi, gọi là Thái dương bệnh cũng được mà gọi là ABCD cũng được, chỉ thừa nhận hội chứng bệnh của lục kinh. Ở Nhật bản cũng có những nhà chú giải duy tŕ quan điểm này, đồng thời đổ lỗi cho những người nói về tạng phủ kinh lạc, phủ nhận lục kinh của {Thương Hàn Luận} là kế thừa một khía cạnh của {Tố vấn – Nhiệt luận}.

2/ Thực chất của lục kinh

Căn cứ trên tinh thần “Bách hoa tề phóng, Bách gia tranh minh”(Trăm hoa đua nở, trăm trường phái tư tưởng) cá nhân tôi cho rằng lục kinh là vật chất. Trung y loại bỏ gắn bó giữa tạng phủ và kinh lạc, như vậy sẽ nói thế nào về truyền thống? Trương Trọng Cảnh nói rất rơ ràng, tuyển dụng {Tố vấn}, {Cửu quyển}, {Thập bát nan}, {Âm dương đại luận}, {Thai lô}, {Dược lục}, làm sao có thể từ bỏ kinh mạch của lục kinh phân chứng trong {Tố vấn – Nhiệt luận}, câu đầu tiên chính là “太阳之为病,脉浮,头项强痛 而恶寒”(Thái dương chi vi bệnh, mạch phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn), với {Tố vấn – Nhiệt luận}, Cự dương là nơi tụ hội của dương (là tên khác của kinh Thái dương), mạch nối với Phong phủ, ứng với nhau, chính là phản ứng bệnh lư giống nhau. Đồng thời, {Thương Hàn Luận} có nhiều nơi nói đến kinh lạc và truyền kinh. Thí dụ như, thái dương bệnh, đau đầu 7 ngày trở lên th́ tự khỏi, là do thời gian đi hết kinh Thái dương. Nếu lại muốn tái kinh, châm kinh Túc dương minh, khiến kinh không truyền mà khỏi bệnh, nếu không có kinh mạch sẽ không thể châm thích Dương minh. Lại như, thái dương bệnh lúc đầu uống thang Quế chi, bệnh không khỏi lại thêm khó chịu, châm hai huyệt Phong Tŕ, Phong phủ và không uống thang Quế chi liền khỏi bệnh, như vậy việc phủ nhận kinh mạch có đúng không? Trung y được xây dựng trên phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật. Học thuyết tạng phủ kinh lạc chính là sinh lư học của Trung y, nếu như phủ định điều này th́ chắc chắn không thể theo đó mà luận bệnh. Hội chứng bệnh lục kinh phát sinh ở ngoài lục kinh, ở da hay ở lông ư? Gọi là biện chứng, chính là nhận thức chính xác biến hoá sinh bệnh lư của kinh lạc tạng phủ. Biến hoá sinh bệnh lư của kinh lạc tạng phủ, doanh vệ khí huyết phản ảnh được bản chất của bệnh. Nếu như không có vận động của vật chất, làm sao có thể biện chứng? Biện chứng lục kinh của Thương hàn luận chính là phân biệt những phản ảnh khách quan của tạng phủ kinh lạc. Nếu như tách rời tiền đề thảo luận về phân chứng lục kinh th́ chính là điều không tưởng. Y gia Trương Giới Tân (thời Minh) từng nói: Kinh mạch giả, tạng phủ chi chi diệp; Tạng phủ giả, kinh mạch chi căn bản (Kinh lạc là cành là lá của tạng phủ, tạng phủ là căn bản (gốc rễ của kinh lạc)); Phương pháp trị liệu thập nhị kinh là: Thấy rơ âm dương, phân tích biểu lư, phân biệt khí huyết, thấy rơ hư thực. Sự sống của con người, bệnh tật, con người sở dĩ trị được bệnh, nguyên nhân của bệnh, đều do như vậy. Sự hiểu biết này về kinh mạch và các tạng phủ nói chung có lợi cho sự hiểu biết của chúng ta về lục kinh. Tạng phủ và kinh lạc liên quan với nhau, kinh lạc thông hành trong ngoài, như cành lá của cơ thể; Tạng phủ ẩn tàng trong cơ thể, tựa như gốc rễ của cơ thể, cấu thành một kết cấu chỉnh thể. V́ thế, một vài sinh bệnh lư của tạng phủ có thể thông qua kinh lạc phản ảnh ra ngoài, mà tật bệnh của kinh lạc cũng có thể truyền vào tạng phủ, cấu thành một quan hệ xuất nhập hữu cơ của biểu lư âm dương. Chúng ta trên lâm sàng có thể nắm vững sinh bệnh lư của thập nhị kinh mạch, cũng chính là nắm được sinh bệnh lư của tạng phủ kinh lạc, như vậy sẽ có thể khi biện chứng biết rơ âm dương, thông đạt biểu lư, biết hàn nhiệt, phân rơ hư thực, từ đó sẽ có năng lực phân tích và điều trị bệnh. Đó chính là đặc điểm hàng đầu của Trung y. Lục kinh phản ảnh được bệnh biến của thủ túc kinh mạch với tạng phủ tương ứng, chính là tổng quát của tạng phủ kinh lạc. Thí dụ như, Thái dương bệnh trên thực tế chính là bệnh biến của Thủ Túc Thái dương kinh và bàng quang, tiểu trường. Lại như, bệnh của kinh dương minh, cũng chính là vị gia thực (tên bệnh dạ dày do nhiệt kết ở dương minh), chính bệnh biến ở vị phủ.
III/ Thực chất của Biện chứng lục kinh
{Thương hàn luận} với lục kinh là trung tâm. Nếu như lục kinh chỉ đơn thuần là một tên gọi, không phản ảnh biến hoá sinh bệnh lư của tạng phủ kinh lạc, th́ việc biện chứng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Biện chứng luận trị của Trung y được chỉ đạo bởi học thuyết âm dương, lại có thể phân thành 8 phương diện cụ thể gồm: Âm dương, Biểu Lư, Hàn Nhiệt và Hư Thực. Tám phương diện này hỗ tương đối lập, hỗ tương nương dựa tồn tại, Với âm dương là hai cương lĩnh tổng quát. Thí dụ như, Thái dương bệnh chính là dương bệnh, thuộc lục phủ, là kinh dương chủ quản thể biểu và thống lĩnh phần bảo vệ cơ thể. Nếu không có thái dương phủ và Thái dương kinh, th́ làm sao xác lập được Thái dương biểu chứng và Bàng quang lư chứng? Đồng thời Thái dương và Thiếu âm có quan hệ biểu lư, Bàng quang và Thận cũng như vậy. Thực là Thái dương, hư là Thiếu âm. Nếu như có đủ điều kiện khí của Thái dương hư hàn, thần vong sỉ hàn (Môi hở răng lạnh), là có thể từ Thái dương nhập vào Thiếu âm. Quan hệ giữa Dương minh với Thái âm, giữa Thiếu dương với Quyết âm cũng như vậy. Gọi là then chốt xuất nhập của âm dương biểu lư. Lục kinh chính là phản ảnh của Tạng Phủ, Ba kinh dương phản ảnh lục phủ, ba kinh âm phản ảnh ngũ tạng. Đường lối của Dương là Thực mà đường lối của âm là hư, v́ thế hội chứng của ba kinh dương đều phản ảnh thực chứng, nhiệt chứng, biểu chứng, hội chứng của 3 kinh âm đều phản ảnh hư chứng, hàn chứng, lư chứng, tất cả đều có tính quy luật. Bệnh tật phát triển đến ba kinh âm là do lực kháng bệnh của chính khí suy yếu gây ra, v́ thế thường xuất hiện một số hội chứng hư suy. Người thày thuốc cần nắm vững biện chứng luận trị, đầu tiên cần nắm vững âm dương, phân bệnh tật thành hai loại âm chứng với dương chứng. Nói theo biện chứng lục kinh, th́ trước tiên phân thành tam dương bệnh và tam âm bệnh, sau đó tái sử dụng hai cương lĩnh âm dương để quản lư những t́nh huống cụ thể của Biểu Lư, Hàn Nhiệt, Hư Thực. Trương Tiên sinh sử dụng tam âm tam dương là cương lĩnh, trị bệnh cần trị tận gốc, gốc là âm dương. Như vậy là có tác dụng chỉ đạo đối với mọi loại bệnh tật. Biện chứng lục kinh bao quát vấn đề của hai phương diện. Quan hệ của cả hai như lư thuyết gốc ngọn của Trương Cảnh Nhạc, nên lục phủ có kỳ kinh, ngũ tạng cũng có kỳ kinh, khi lâm sàng biện chứng nên phân biệt rơ ràng. Tà khí nông th́ bệnh ở kinh mạch, tà khí sâu th́ bệnh đến tạng phủ, đều xuất hiện hội chứng tương ứng. Thí dụ như, Thái dương bị bệnh, mạch phù, đầu gáy cứng đau mà sợ lạnh, chính là chứng của kinh Thái dương, giống như bệnh ở cành cây, lá cây; Khi xuất hiện các chứng trạng của Thái dương trữ nước như phiền khát, nóng người, tiểu tiện không thuận lợi, chính là bệnh chứng của Thái dương phủ, giống như bệnh ở gốc rễ. Tuy cùng là bệnh ở kinh Thái dương, nhưng phân thành kinh và phủ. Các kinh khác cũng đều như vậy. Thí dụ như Dương minh bệnh xuất hiện mặt đỏ, đau vùng trán, đau mắt, mũi khô, nằm ngủ không yên, chính là chứng của dương minh; Nếu xuất hiện đầy bụng, phân cứng, cự án (không thích ấn nắn), đau, sốt sau trưa (triều nhiệt) là hội chứng của dương minh phủ chứng. Thứ hai, tạng với phủ, kinh với kinh chính là những liên hệ hữu cơ, tạng phủ với những thay đổi của biểu lư âm dương, và đó cũng là cơ sở để thoát khỏi bệnh tật. Thí dụ như, thiếu âm bệnh sau khi dương khí hồi phục có khả năng kháng bệnh, có khả năng xuất hiện hội chứng của biểu bệnh, như nóng toàn thân và tiểu tiện ra máu, chính là tà khí của Thiếu âm thận xuất vào bàng quang. Lục kinh bao gồm đặc điểm khí hoá của tạng phủ kinh lạc, đó chính là lư luận độc đặc của Trung y. Như ngoại giới có một dạng lục khí: Phong, hàn, thử, thấp, táo, hoả, lục kinh của cơ thể cũng có lục khí: Phong, hàn, hoả, nhiệt, táo, thấp, khi phát bệnh sẽ phản ảnh đặc điểm của bệnh. Thí dụ như, thái dương là kinh hàn thuỷ nên bệnh lư thái dương thường là thuỷ chứng và hàn chứng, như Ngũ linh tán chứng, Linh quế truật cam thang chứng, Chân vơ thang chứng tất cả đều là thuỷ chứng. Lại như, khí của dương minh là táo, thường gặp ở hội chứng bĩ măn táo kiên thực của táo bệnh; Khí của Thái âm là thấp, thường gặp hội chứng của bệnh thấp là đi tả; Bệnh ở thiếu dương sẽ xuất hiện chứng trạng đắng miệng, v́ khí của thiếu dương là hoả, đắng chính là vị của hoả; Bệnh ở Quyết âm sẽ xuất hiện khí thăng lên tâm, v́ quyết là tận cùng, đạt đến cực đoan, mà khí thuộc phong mộc, nên có lực đi lên, nếu mạnh quá gây chứng đau tim, đói mà không muốn ăn. Phương pháp phân chứng lục kinh của cổ nhân tóm tắt trong hai câu nói: Một là, ,“经者,径也” (kinh giả kính dă) kinh là con đường. Lục kinh tương tự như những con đường, chính là đường ra (tiến thoái)của tà khí, khi biện chứng cần phải căn cứ vào kinh để nhận biết. Dân gian Trung quốc giữ lại dấu vết lịch sử này, người bệnh lớn tuổi thường hỏi thày thuốc: Bệnh của tôi ở kinh nào? V́ sự phân bố của kinh mạch có những đặc điểm, kinh Thái dương ở biểu, kinh Thiếu dương thuộc bán biểu bán lư, kinh Dương minh thuộc lư. Câu thứ hai: ,“经者,界也” (Kinh giả, giới dă). Bệnh của Lục kinh có giới hạn và phạm vi riêng, bao gồm tạng phủ phát bệnh, quan hệ chính tà, t́nh huống phát bệnh v.v…V́ thế khi lâm sàng biện chứng nên căn cứ theo kinh mạch để nhận biết chứng, đây chính là ư nghĩa lâm sàng trọng đại của biện chứng lục kinh, phản ảnh được quy luật khách quan và bệnh biến hoàn chỉnh của tạng phủ kinh lạc của bệnh ở mỗi đường kinh.
{Thương hàn luận} căn cứ theo kinh để nhận biết chứng, căn cứ vào chứng để lập pháp, căn cứ vào pháp để xử phương, là đưa ra một phương pháp dùng đơn giản để chế ngự phức tạp. Lư pháp phương dược, lư chính là lư của biện chứng, điều cần trước tiên là nhận biết “Kinh”, và đây là khâu then chốt.
IV/Truyền biến của lục kinh bệnh
Lục kinh của cơ thể sau khi bị bệnh, tất nhiên sẽ h́nh thành một cục diện tà và chính đấu tranh, sẽ liên quan đến vấn đề truyền kinh. Thí dụ như, Thái dương bệnh là biểu chứng, tà chính đấu tranh cũng ở biểu, nếu như một vài ngày sau các chứng trạng như đau đầu, sợ lạnh, phát sốt không c̣n, mà xuất hiện ngực cạnh sườn đầy trướng, đắng miệng, tâm phiền hay nôn, văng lai hàn nhiệt là chứng trạng của kinh Thiếu dương, hoặc giả đại tiện táo kết là chứng trạng của kinh dương minh thực chứng, điều này gọi là truyền biến.
1/Điều kiện truyền biến của lục kinh bệnh 11
Truyền biến của bệnh được quyết ở điều kiện, đó chính là so sánh sức mạnh của bệnh và năng lực kháng bệnh (Chính và Tà), trong đó then chốt là ở chính khí. Nếu chính khí kháng bệnh mạnh mẽ, bệnh sẽ không truyền kinh. Ngoài ra có một loại t́nh huống, bệnh tà đă truyền vào trong, thậm chí đă truyền đến kinh âm, do v́ chính khí khôi phục và tà khí suy thoái, bệnh tà có thể thoái xuất từ âm kinh, rét run và đổ mồ hôi trên lâm sàng là những trường hợp điển h́nh. Do đó có thể thấy tính trọng yếu của chính khí, Trần Tu Viên tổng kết 397 phép và 113 phương trong {Thương hàn luận} thành 6 chữ : “保胃气,存津液”( Bảo vị khí, tồn tân dịch). {Thương hàn luận} viết: Phàm là bệnh, nếu phát hăn, nếu thổ, hạ, mất máu, mất tân dịch (mất nước), nếu âm dương hoà bệnh tất sẽ tự khỏi. Tại sao như vậy? Đó chính là nhấn mạnh việc bảo dưỡng chính khí. Tuy nhiên việc truyền biến của Lục kinh bệnh có quan hệ mật thiết với t́nh trạng mạnh yếu của tà khí, với công việc điều trị và chăm sóc thích đáng hay không, nhưng vấn đề then chốt vẫn là chính khí (năng lực kháng bệnh) của bệnh nhân. Trị pháp dùng dược xử phương của {Thương hàn luận} đều là một phân thành hai, đồng thời với việc sử dụng thang Ma hoàng để phát hăn là nói đến chống chỉ định, với những điều kiện nào th́ có thể phát hăn, như thế nào th́ không thể phát hăn, loại dạng mồ hôi nào th́ nên phát hăn, và mức độ xuất hăn như thế nào là phù hợp. Nếu như ta cảm nhận tinh tế, đó chính là cùng với việc trừ khứ tà khí, cũng cần phải bảo tồn chính khí. Bản thân việc trừ khứ tà khí cũng là bảo vệ chính khí, nhưng ngàn vạn lần không nên v́ trừ khứ tà khí mà làm tổn thương chính khí, là làm cho việc điều trị bệnh thất bại. Trên lâm sàng phân tích truyền kinh như thế nào, chính là một vấn đề trọng yếu. Theo Thánh y Trọng Cảnh điểm then chốt của truyền kinh hay không là t́nh trạng Tĩnh hoặc không Tĩnh của mạch và chứng, cũng chính là mạch và chứng có hay không phát sinh những biến hoá mới. Nguyên văn chính là: Nếu mạch tĩnh là không truyền; buồn nôn nhẹ, nóng vội phiền muộn, mạch sác cấp, là bệnh truyền kinh. Đây là nói về Thái dương bệnh, chính là giai đoạn Thái dương biểu chứng, nếu như mạch vẫn c̣n phù, chứng vẫn c̣n sợ lạnh phát sốt, đầu gáy cứng đau, là biểu hiện của bệnh không truyền kinh, bệnh tà vẫn ở phạm vi Thái dương; Nếu như thấy mạch sác cấp, các chứng trạng xuất hiện như phát phiền, lợm giọng buồn nôn, đó chính là biểu hiện của truyền kinh, tà khí từ Thái dương kinh truyền đến hai kinh Dương minh hoặc Thiếu dương kinh. Do đó, truyền kinh cần giải thích từ biện chứng, từ góc độ của mạch, và từ góc độ của chứng.
II/ Loại h́nh truyền biến của lục kinh bệnh
H́nh thức truyền có một số loại h́nh. Loại thứ nhất là truyền dựa theo thứ tự mỗi kinh. Loại h́nh thức truyền biến này gọi là tuần kinh (men theo). Thí dụ bệnh tà của kinh Thái dương, sẽ truyền đến Dương minh hoặc Thiếu dương. Cuối cùng chính là truyền Dương minh và truyền Thiếu dương, c̣n lại chưa thể kết luận.
Có người chiếu theo thứ tự Thái dương, dương minh, thiếu dương, cho rằng Thái dương truyền Dương minh, Dương minh truyền Thiếu dương. Điều này không phải đă biến quan hệ giữa chính tà có tính chất giáo điều sao? Như vậy không gọi là biện chứng luận trị. Ở phần Thái dương bệnh, thái dương bệnh đă truyền Dương minh, cũng đă truyền đến Thiếu dương, có nhiều loại khả năng. H́nh thức truyền kinh được xây dựng trên những điều kiện nhất định. Thái dương truyền dương minh luôn luôn do tân dịch của Túc dương minh vị kinh không đầy đủ, như sau khi uống thang Quế chi ra nhiều mồ hôi, chứng phiền khát không giải, mạch hồng đại, Bạch hổ thang gia nhân sâm dùng trong trường hợp này. Thái dương truyền Thiếu dương thường do khí huyết hư suy, như huyết nhược, khí tận, thấu lư (thớ thịt) khai mở, tà khí nhân đó xâm nhập, chính tà đấu tranh, kết dưới cạnh sườn. V́ thế, h́nh thức truyền kinh đầu tiên được quyết định ở lực lượng đề kháng ngoại tà của chính khí, lực lượng đề kháng bệnh tà của một kinh nào suy yếu, sẽ dễ bị bệnh tà xâm phạm. Chính cái đó gọi là, tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư.(Tà khí tập hợp được là chính khí đă hư tổn rồi).
Loại thứ hai chính là dương kinh truyền trực tiếp đến âm kinh, h́nh thức truyền kinh này gọi là truyền biểu lư. Thí dụ như. Thái dương và Thiếu âm là quan hệ biểu lư, nếu dương khí của Thiếu âm không đủ, sẽ xuất hiện tà của Thái dương truyền vào Thiếu âm.
Loại thứ ba là không có thứ tự của ba kinh dương, bị bệnh là xuất hiện hội chứng của ba kinh âm, loại h́nh thức truyền kinh này gọi là trực trúng. Trực chính là trực tiếp, trúng tức là thương trúng, căn nguyên của trực trúng đa phần là do tà khí khá mạnh và khí huyết hư suy, thường gặp ở người lớn tuổi. Trên lâm sàng thường gặp người lớn tuổi khi cảm mạo liền xuất hiện hội chứng Thiếu âm hàn chứng như mạch trầm, mê man chỉ muốn ngủ, đầu ngón tay lạnh, nên nhanh chóng cho uống thang Phụ tử, mà không được phát hăn, nếu không phế khí sẽ bị tổn hại. Như khi phát bệnh ở ba kinh dương, không phải là h́nh thức truyền kinh, mà chính là đồng thời xuất hiện hội chứng của hai kinh hoặc cả ba kinh, không có phân thứ tự trước sau là hợp bệnh. Thí dụ như, đă có Thái dương bệnh đầu gáy cứng đau, cũng có khả năng ngực cạnh sườn trướng đầy đắng miệng là hội chứng Thiếu dương, c̣n có thể dương minh bệnh như khát nước, thích uống nước. Hợp bệnh có nhị dương hợp bệnh, như Thái dương Dương minh hợp bệnh, Thái dương Thiếu dương hợp bệnh, cũng có tam dương hợp bệnh. Hợp bệnh chính là nguyên phát, mà nguyên nhân thường là tà khí khá mạnh mà chính khí không suy. Nếu như chính khí đă suy, có khả năng sẽ xuất hiện âm chứng.
C̣n một loại t́nh huống, là bệnh của một kinh chưa khỏi, một kinh khác lại phát bệnh, khi phát bệnh có phân thứ tự trước sau, tựa như tà khí truyền kinh như bất tận, gọi là hợp bệnh. Thí dụ như: Thái dương biểu chứng chưa hoàn toàn giải trừ, lại xuất hiện Thiếu dương chứng như khó chịu ở ngực cạnh sườn, bực bội hay nôn (hung hiếp khổ măn, tâm phiền hỉ ẩu), Thái dương bệnh ở phía trước, Thiếu dương bệnh ở phía sau, chính là Thái dương Thiếu dương hợp bệnh, chính là tà của Thái dương cần hướng về hợp lại với kinh Thiếu dương, dù cho h́nh thức này cũng có ư nghĩa của truyền kinh. V́ thế, tính bệnh (bệnh phát kèm theo) đều là bệnh kế phát. Hợp bệnh và Tính bệnh đều không phải là bệnh của một kinh, mà chính là bệnh của hai kinh hoặc hai kinh trở lên. So sánh mà nói, hợp bệnh là nguyên phát, Tính bệnh là kế phát; T́nh trạng bệnh của hợp bệnh khá cấp bách, c̣n Tính bệnh hoà hoăn hơn. Sau này khi giảng về bệnh , đối với phương cách điều trị hợp bệnh, phương cách dùng cho Tính bệnh, sẽ có những phân giải cụ thể. Ngoại hợp bệnh và Tính bệnh chỉ giới hạn trong phạm vi của ba kinh dương, nên phần nhiều là chứng thực nhiệt.
V/ Chủ chứng, kiêm chứng, biến chứng và hỗn hợp chứng của lục kinh bệnh
Nói rộng hơn, các loại hội chứng trong{Thương hàn luận}không ngoài các loại sau: Chủ chứng, kiêm chứng, biến chứng, giáp tạp chứng (chứng xen lẫn). Đối với 4 loại hội chứng này, nhất định cần phải rơ ràng, khi lâm sàng biện chứng không thể xem nhẹ. 27
1/ Chủ chứng là ǵ?
Khi lâm sàng biện chứng, nên phân biệt rơ chủ chứng là ǵ, kiêm chứng là ǵ, biến chứng là ǵ, chứng hỗn hợp là ǵ, nhất định cần phải phân tích có thứ tự lớp lang.
Chủ chứng, nghe tên hiểu nghĩa, chính là chiếm địa vị chủ đạo của hội chứng, chính là vị trí đệ nhất.
Sau chủ chứng chính là kiêm chứng, rồi đến biến chứng, chứng hỗn hợp. Chủ chứng là căn cứ chủ yếu của biện chứng, cho nên cần phải nắm vững chủ chứng. Cá nhân cho rằng , biện chứng trước tiên phải có tính kế thừa, v́ y học chính là đang trong quá tŕnh tích luỹ kinh nghiệm mà thành. Tại sao chúng ta vẫn nghiên cứu "Thương hàn luận" của 1700 năm trước? V́ chúng ta cần kế thừa, hấp thụ những kinh nghiệm và phương pháp khoa học. Biện chứng lục kinh chính là những tổng kết của cuộc đấu tranh với bệnh tật của người xưa. V́ thế, chủ chứng và chủ phương rất quan trọng trong "Thương hàn luận" đều cần phải được ghi nhớ và tập trung vào những kỹ năng cơ bản. Trên cơ sở một lượng lớn kế thừa, cần phải có những lĩnh hội nhận thức của riêng ḿnh, vươn lên lư thuyết và phương pháp tư duy, h́nh thành những hiểu biết chính xác, nhận biết chính xác đối với lục kinh biện chứng, âm dương biểu lư, hư thực hàn nhiệt và tạng phủ kinh lạc, nghĩ một ra ba, từ đó nghĩ đến đây, từ biểu đến lư, suy luận rộng lớn hơn mà sử dụng. Các đại gia sau thời nhà Hán như Lư Đông Viên, Trương Tử hoà, Chu Đan Khê đều hiểu và chịu ảnh hưởng sâu sắc {Nội kinh} và {Thương hàn luận} mà vẫn có những phát huy của riêng ḿnh.
2/ Kiêm chứng là ǵ?
Kiêm chứng chính là trên cơ sở chủ chứng có kèm theo hội chứng. Thí dụ như, dưới tiền đề của Thái dương trúng phong, có chứng suyễn nhẹ, dùng thang Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang, lưng gáy cứng dùng thang Quế chi gia Cát căn thang. Trường hợp trước là ảnh hưởng bởi phế khí bất lợi, trường hợp sau chính là ảnh hưởng bởi khí vận chuyển của Thái dương kinh không thuận lợi, đều không có hội chứng của chủ chứng Thái dương trúng phong, nên gọi là kiêm chứng. Là trường hợp thí dụ của Trương Trọng Cảnh, chúng ta cần dùng nó làm phần mở đầu để t́m hiểu về chủ chứng, kiêm chứng, biến chứng và hỗn hợp chứng của lục kinh bệnh và suy từ đó ra các loại khác.
28
Thời nhà Thanh có một danh gia thương hàn tên là Từ Linh Thai, ông ta cho rằng khi ứng dụng thang Quế chi trị liệu trên cơ sở vinh vệ bất hoà, vinh khí hư gia Đương quy, vệ khí hư gia Hoàng kỳ. Nội dung này không phải của {Thương hàn luận} vốn có, mà chính là do Từ linh Thai linh hoạt trong học tập và sử dụng thuốc. Thang Quế chi có thể gia hoặc không gia Hoàng cầm? có thể hoặc không thể gia Thạch cao? Những việc này là có thể, nhưng cần căn cứ theo những t́nh huống cụ thể trên lâm sàng để xử lư.
III/ Biến chứng là ǵ
Biến chứng trong {Thương hàn luận} tựa hồ chiếm đến 1/3
1/ T́nh trạng biến hoá của bệnh
Sau khi h́nh thành một loại bệnh riêng. Biến chứng h́nh thành không thông qua h́nh thức truyền kinh, mà chính là do điều trị sai lầm. Ngộ trị trong{Thương hàn luận}có liên quan đến các trị pháp như: Hăn, thổ, hạ, hoả liệu, thuỷ liệu. Năm loại trị pháp này dùng không đúng phép, khiến bệnh phát sinh biến hoá mới, nếu vấn đề ban đầu không tồn tại, th́ đó gọi là biến chứng. Trong một bộ sách y học, cần cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, cần cả những nội dung điều chỉnh (bỏ rối loạn, giữ điều tốt đẹp tích cực), trong {Thương hàn luận} có rất nhiều điều để nói về vấn đề này, cho thấy tŕnh độ thày thuốc thời nhà Hán vẫn c̣n rất thấp. Cá nhân tôi cho rằng, biến chứng không chỉ là bản tóm tắt của Trương Trọng Cảnh về một số điều trị sai lầm, mà c̣n là một phương pháp viết được sử dụng để viết về tạp bệnh, để tăng cường mức độ phân biệt và điều trị hội chứng, và hỗ trợ sự thiếu hụt phân biệt hội chứng trong Lục kinh. Nh́n thấy điều này, nó có ư nghĩa lớn hơn đối với hướng dẫn lâm sàng của chúng tôi. V́ thế không nên học {Thương hàn luận} một cách cứng nhắc, kém linh hoạt, nếu không sẽ phạm sai lầm như ôm cây đợi thỏ, đối với nhận thức biến chứng, nên chú trọng vào biến hoá của bệnh cơ và trên thực chất của hội chứng. Thí dụ như, sau khi phát hăn đă có thể xuất hiện vong dương, cũng có thể xuất hiện hoá nhiệt, các loại các dạng đều có. Sau khi phát hăn, ớn lạnh là biểu hiện của HƯ; Không ớn lạnh, nhưng nóng, là biểu hiện của THỰC.
29
Đối với biến chứng cần phải thẩm tra tường tận, phân tích kỹ lưỡng, tuân theo nguyên tắc {Thương hàn luận}, quan sát mạch chứng,biết sai phạm ở đâu, điều trị tuỳ theo chứng. Quan sát có nghĩa là không chỉ nh́n, mà c̣n có ư nghĩa là quan sát sâu sắc, xâm nhập quan sát mạch và chứng, khi biết sai phạm ở đâu, ta mới có thể biết các biến chứng là kết quả của các sai lầm từ pháp hăn, phép thổ, phép hạ, sau đó , tuỳ theo chứng để điều trị. V́ thế, nếu như nói biện chứng lục kinh chính là có tính quy luật, sự xuất hiện của biến chứng chính là tính linh hoạt, tính phức tạp đa biến, chỉ bằng cách này, những thay đổi phức tạp khác nhau của một căn bệnh trong các khía cạnh khác nhau của cơ thể con người có thể được phản ánh.
Chủ chứng của lục kinh là bệnh không thay đổi, cũng chính là quy luật phát bệnh khách quan của lục kinh bệnh, có tính đại biểu. Từ tiền đề chủ chứng phát hiện kiêm chứng, hỗn hợp chứng, biến chứng gọi là biến hoá của bệnh. Biết rằng các phương b́nh thường có khả năng đạt biến, nên nắm vững cả hai phương diện, để có thể đạt được mục đích biện chứng luận trị.
 
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-11-22 18:49:19
Điều 01
IV/ Chứng hỗn hợp là ǵ ?
Đồng thời với bệnh mới (tân cảm) luôn luôn xen lẫn các bệnh cũ, vấn đề có nghĩa là hai bệnh. Bệnh cũ có hàn có nhiệt, có hư có thực, chính là chứng hỗn hợp. Khi chúng ta lâm sàng biện chứng, làm thế nào để giải quyết những vấn đề này? Trước tiên cần nắm được vấn đề quan hệ của chính và tà (bệnh và năng lực kháng bệnh), biện hư thực trong biện chứng bát cương là để xem xét tiến thoái của chính tà. Thí dụ như, thương hàn, mạch kết đại, tâm động hồi hộp, dùng thang Chích Cam thảo, bệnh này tuy đến khám chữa bệnh v́ thương hàn, nhưng c̣n hỗn hợp với tạng tâm hư suy dẫn đến mạch kết đại, hồi hộp. Thày thuốc khi biện chứng cần cân nhắc t́nh huống của hai phương diện chính tà, cuối cùng th́ thương hàn có phải là vấn đề thứ nhất? Hay chứng tâm động hồi hộp, mạch kết đại mới là vấn đề thứ nhất? trước tiên phải giải quyết vấn đề nào cho thích hợp? Dùng thang Chích Cam thảo phù tŕ chính khí là chủ, v́ tạng tâm là đại chủ (ông chủ) của ngũ tạng, phải tích cực phù tŕ chính khí là trị liệu ưu tiên hàng đầu trong trường hợp này.
Lại như, bên ngoài có phong hàn phạm biểu toàn thân đau nhức, bên trong dương khí suy hư đi cầu trong lỏng, đă có biểu chứng lại có thêm lư chứng. Thày thuốc khi biện chứng cũng cần cân nhắc trước tiên là phát hăn trị toàn thân đau nhức? Hay ôn bổ để trị chứng đi cầu trong lỏng? Chính vi bản, tà vi tiêu (Chính là gốc, tà là ngọn) tiêu bản không đúng, th́ tà khí không thể tuân theo. Đi cầu trong lỏng phản ảnh thận dương và tỳ dương đă hư suy, nếu như c̣n phát hăn không những tà không giảm, mà sẽ xuất hiện tay chân quyết nghịch là một loạt hội chứng dương hư hàn thịnh. Trường hợp thương hàn chen lẫn thực chứng cũng rất nhiều, như thương hàn biểu không giải, tâm hạ có thuỷ khí; Thái dương dương minh, chính là tỳ bị bó buộc. Chứng hỗn hợp của thương hàn c̣n có các loại h́nh bệnh như xen lẫn hàn, xen lẫn nhiệt, xen lẫn khí, xen lẫn huyết.
VI/Trị pháp và Phương dược của {Thương hàn luận}
Trước khi có {Thương hàn luận} rất ít sách y học ghi lại các bài thuốc, như {Nội kinh} chủ yếu dùng châm cứu để trị liệu, chỉ có khoảng 13 phương thang được ghi chép trong {Nội kinh}, đối với ứng dụng lâm sàng th́ càng rất ít. Điểm quư giá của {Thương hàn luận} chính là ghi lại 113 phương thang, những phương này dùng tổng cộng 91 vị thuốc, so với {Nội kinh} th́ đây chính là đại đại.. phát triển. 113 phương này bao quát những nội dung trị liệu ǵ? Chúng tôi tóm tắt được 8 phương diện. Thứ nhất là hăn pháp (phương pháp gây xuất mồ hôi), bệnh tại biểu, dùng phép phát hăn để giải biểu, dùng các phương Ma hoàng thang, Quế chi thang để giải quyết Thái dương biểu chứng. Thứ hai là phép thổ (gây ẩu thổ), bệnh ở trên, cho nên vượt qua, dùng Qua đế tán để giải quyết thực chứng ở hung cách (ngực, hoành cách mô). Thứ ba là phép hạ (phép công hạ, gây tiết tả), dùng Đại, Tiểu thừa khí thang để giải quyết thực chứng của vị tràng (dạ dày và ruột). Thứ tư là phép hoà giải, dùng Sài hồ thang tễ để trị liệu chứng Thiếu dương bán biểu bán lư. Thứ năm là pháp ôn (làm cho ấm áp), dùng Tứ nghịch bối trị liệu chứng tam âm hư hàn. Thứ sáu là thanh pháp (giảm nóng), dùng Hoàng cầm, Hoàng liên trị chứng nóng ở trong. Thứ bảy là phép bổ (bồi bổ), dùng Nhân sâm, Cam thảo…để điều trị chính khí suy hư. Thứ tám là phép tiêu, dùng Manh trùng, Thuỷ điệt để tiêu trừ ứ huyết. Phần trên chính là hiện nay chúng ta gọi là bát pháp, là được thành lập sau khi có 113 phương trong {Thương hàn luận}
Tại sao gọi là bát pháp? Bát pháp không chỉ là 8 loại phương cách trị liệu.
Pháp chính là có lư luận, có yêu cầu, gọi là phép tắc và không thể bỏ qua. Thí dụ, phép hăn (phép gây xuất mồ hôi) có phép tắc của phép hăn, Quế chi thang, Ma hoàng thang, Đại thanh long thang tuy cùng là phương thang phát hăn, nhưng không giống nhau. Khi uống thang Quế chi để phát hăn nhất định cần 1 thăng cháo nóng, trùm người cho nóng, rồi uống cháo nóng, nếu không sẽ không đổ mồ hôi. Tại sao như vậy? Trong thang Quế chi có vị Thược dược, không như tác dụng phát hăn của thang Ma hoàng, được cung cấp các điều kiện phát hăn nhất định. Ở thời điểm xuất hăn, là loại mồ hôi ǵ? mồ hôi nhẹ nhàng toàn thân, chỉ nên có một chút mồ hôi sẽ tốt hơn, không nên xuất mồ hôi như nước chảy, như vậy không trừ được bệnh, đó chính là phương pháp. Sau khi uống thang Ma hoàng không ăn cháo loăng, nhưng cũng nên trùm mền, xuất một chút mồ hôi để giải bệnh. Uống thang Thanh long th́ không như vậy, v́ lượng Ma hoàng nhiều gấp bội so với thang Ma hoàng, sau khi phát hăn, nếu quá nhiều mồ hôi, dùng phấn ấm, chính là khi mồ hôi ra nhiều không khống chế được, nhanh chóng dùng bột gạo xoa lên cơ thể, để lấp vào lỗ chân lông.
Thuốc là ngọn, chính khí của cơ thể là gốc. Thuốc tác dụng vào cơ thể, cả hai hợp nhau có khả năng khởi phát tác dụng trừ khứ bệnh. Chúng ta không thể nói thang Quế chi sẽ trừ hết phong, thang Ma hoàng sẽ trừ hết lạnh, đó chính là chỉ thấy thuốc mà không thấy người, và đó là đạo lư, v́ vậy nếu phát hăn quá nhiều, sẽ gây tổn thương năng lực đề kháng bệnh của cơ thể, không thể hoàn toàn loại bỏ bệnh, bệnh tật sẽ không giải, phép công hạ cũng như vậy. Trương Trọng Cảnh Tiên sinh đối với ứng dụng phép công hạ khiến mọi người vô cùng khen ngợi. Bệnh tật mười phần phức tạp có lúc giống như Đại thừa khí thang chứng, lại có lúc giống Tiểu thừa khí thang chứng, rất khó khăn nan giải. Phải làm như thế nào? Trương Trọng Cảnh đầu tiên dùng thang Tiểu Thừa khí, nếu như sau khi uống, bụng chuyển thải ra mùi phân, là có phân cứng trong bụng, có thể dùng thang Đại thừa khí để công hạ, c̣n nếu không chuyển mùi phân, là biểu hiện không có phân khô, nhanh chóng sử dụng các trị pháp khác. Bắt đầu không dùng thang Đại thừa khí, v́ khi dùng phương pháp hạ mạnh, dễ tổn thương chính khí của cơ thể.
Khi sử dụng một phương pháp trị bệnh, nhất là các phép như hăn, thổ và hạ pháp, nên phân tích hai mặt của vấn đề. Thang Ma hoàng là phép phát hăn, tiếp theo sẽ nói, các chứng lở loét họng, chảy máu, mồ hôi lạnh là những t́nh huống cấm dùng Ma hoàng. Thang Quế chi tư âm hoà dương, điều hoà vinh vệ, điều hoà khí huyết, điều hoà tỳ vị, chính là phương thang hàng đầu của {Thương hàn luận}, đứng đầu các phương, cũng có chứng cấm kỵ, người uống rượu, không thể uống thang Quế chi, nếu uống sẽ gây ẩu thổ, v́ người uống rượu không thích vị ngọt; Người mạch phù khẩn, sốt không xuất mồ hôi, cũng không nên uống thang Quế chi, và điều quan trọng là phải biết điều này, đừng phạm sai lầm, không chỉ để nói mặt tốt, mà c̣n nhấn mạnh mặt xấu. Lư luận của bát pháp bắt nguồn từ phép biện chứng. Nguyên nhân v́ đầu tiên có hội chứng, như hội chứng Thái dương, hội chứng trúng phong, phải có phương pháp tương ứng để hướng dẫn ứng dụng phương dược. Lư pháp phương dược của {Thương hàn luận} chính là một khâu móc vào một khâu. Tư tưởng và phương pháp này có ư nghĩa chỉ đạo đối với lâm sàng, v́ là ứng dụng của phép biện chứng, đều là nhất phân vi nhị (hai mặt đối lập).
Chúng ta học {Thương hàn luận} không chỉ là học các phương dược như thang Quế chi, thang Ma hoàng, quan trọng hơn chính là học phương pháp nhận thức sự vật, như vậy có thể nâng khả năng lên một cao độ mới.
Pháp truyền theo phương, phương theo phép lập ra, đó cũng là quan hệ của biện chứng. Phương dược của {Thương hàn luận} gọi là “Kinh phương”, hiệu quả rất tốt thể hiện được lư pháp, xác thực là không dễ dàng, với hơn 110 phương thang, khoảng 90 vị thuốc chính là trải qua rất nhiều thực tiễn, sàng lọc, tuyển chọn, cân nhắc, đắn đo, trải qua thí nghiệm lâm sàng hàng vạn ức người mà khẳng định được. V́ thế, những phương thang đều không phải do một ḿnh Trương Trọng Cảnh viết ra mà là kế thừa từ tiền nhân, như Quế chi gia Thược dược Sinh khương đều 1 lạng Nhân sâm 3 lạng tân gia thang, khả năng là Trương Trọng Cảnh trên cơ sở thang Quế chi gia vị mà thành, mà ảo diệu là ở hai chữ tân gia. “汗后身疼脉反沉,新加方法轶医林,方中姜芍还增一,三两人 参意蕴深。
Hăn hậu thân đông mạch phản trầm
Tân gia phương pháp dật y lâm
Phương trung Khương Thược hoàn tăng nhất
Tam lạng Nhân sâm ư uẩn thâm.
Thời đại của y gia Trương Trọng Cảnh đến nay đă hơn 1700 năm, nhiều kinh phương như Quế chi thang, thang Ma hoàng, thang Tiểu kiến trung, thang Tứ nghịch, thang Đại Tiểu sài hồ được y gia các thời đại ứng dụng nhiều lần. Thông qua kiểm nghiệm thực tiễn, chúng ta phát hiện những phương thang này có hiệu quả, thậm chí vượt ra ngoài dự đoán. Phương thang trong {Thương hàn luận} tuy ít nhưng tinh tuư, từ 3 đến 5 vị là nhiều nhất, ít nhất chỉ có 1 vị như thang Cam thảo, nhiều nhất là 7 vị như thang Tiểu sài hồ. Điều này khác với lâm sàng dụng dược càng nhiều càng tốt của y học lâm sàng hiện đại. Người viết trước khi học {Thương hàn luận} đối với hiệu quả trị liệu của kinh phương cũng có thái độ hoài nghi, sau đó trải qua lâm sàng thực tiễn lâu dài đă phải tâm phục khẩu phục. Người viết công tác tại nhân dân y viện huyện Xương Lê khám một bệnh nhân, ở đùi của bệnh phần trên cùng mọc lên một khối to như quả trứng, sau khi khối đó xuất hiện th́ chân bệnh nhân không duỗi thẳng được. Thày thuốc đă đâm xuyên vào nhưng không thấy xuất ra bất cứ vật ǵ, sau đó người viết khám cho bn vừa nêu, bn mạch huyền, chân không duỗi thẳng được, Thược Cam tứ lạng các tương quân, lưỡng cước câu loan bệnh tại cân “芍甘四两各相均,两脚拘季 病在筋”, chính là Thược dược Cam thảo thang chứng, liền cho uống thang này, rất nhanh chóng khỏi bệnh. Lư do là ǵ? Thược dược Cam thảo thang chứng trong {Thương hàn luận} chính là do gân co rút thành chứng sán (tổ chức, nội tạng ph́nh to), h́nh thành cân sán, dùng Thược dược Cam thảo thang cam toan hoá âm, có khả năng hoăn giải co thắt, thông sướng huyết mạch, tự nhiên thu được hiệu quả tốt.
Tinh thần biện chứng luận trị của {Thương hàn luận}
Hiện nay Trung Tây y kết hợp điều trị chứng viêm phúc mạc cấp tính có sử dụng một số phương dược, trên thực tế là thang Đại sài hồ, Đào hạch thừa khí thêm một ít thay đổi mà thành, thu được thành tựu rất lớn, những bệnh nhân từ đầu rất cần thủ thuật (giải phẫu), sau khi uống thuốc t́nh trạng đă tốt và không cần thủ thuật.
Trong {Thương hàn luận} bao quát không chỉ là bát pháp, mà c̣n cả trấn nghịch pháp. Thu sáp pháp v.v…Đó là những phát triển môn phương tễ học của hậu thế, cung cấp các điều kiện đột phá của một phương diện nào đó cho các y gia đời sau. Thí dụ như Lư Đông Viên khi lư luận thang Bổ trung ích khí trong Tỳ vị luận, đă bắt đầu từ thang Tiểu kiến trung, cho thấy ông ta đă xây dựng thang Bổ trung trên cơ sở thang Tiểu kiến trung. V́ sao Trương Trọng Cảnh sử dụng thuốc ngọt? Tất cả đường đều được sử dụng, chính là ấn chứng lư thuyết “Lao giả ôn chi” (劳者温 之)Lao nhọc sử dụng thuốc ấm áp. Lư Đông Viên căn cứ theo mà sáng lập phép Cam ôn trừ đại nhiệt, ứng dụng vào chứng tỳ vị hư suy.
Liên quan đến vấn đề biện chứng luận trị, Tôi đă giới thiệu vấn đề này ở phần trước, tại sao chúng ta phải nói về nó ở cuối? Một là để tóm tắt và hai là để mọi người chú ư hơn. Tuy nhiên biện chứng luận trị không bắt đầu từ {Thương hàn luận}, Trương Trọng Cảnh trong lời nói đầu đề cập đến sách tham khảo 《B́nh mạch biện chứng》 có khả năng là sách chuyên về biện chứng, nhưng {Thương hàn luận} thực hiện được biện chứng luận trị một cách toàn diện và tinh tế.
Trong 《Nội kinh》 có một lượng lớn tài liệu giảng về tư tưởng phép biện chứng. Để hiểu biết bệnh, cần phải thiết lập tư tưởng phép biện chứng, tư tưởng này chính là vận động, toàn diện, biến hoá, không cô lập, tĩnh chỉ (không cách li, bất động). 《Nội kinh》 “Trị bệnh cầu bản, bản vu âm dương” (治病求本,本于阴阳)trị bệnh là trị tận gốc, gốc ở âm dương, đó chính là một loại tư tưởng của phép biện chứng.
Tinh thần biện chứng luận trị của {Thương hàn luận} 《Tố vấn ▪ Phương thịnh suy luận》 đề xướng thày thuốc khi chẩn bệnh cần phải biết xấu biết tốt, biết bệnh biết không bệnh, biết cao biết thấp, biết trái biết phải, bao hàm được những nét mộc mạc của tư tưởng phép biện chứng. Trương Trọng Cảnh kế thừa tư tưởng biện chứng của 《Nội kinh》với âm dương là cương lĩnh để tŕnh bày và phân tích những biến hóa sinh bệnh lư, đối với quan hệ chính tà, quan hệ biểu lư, quan hệ hàn nhiệt, đều chính là phép nhị phân, không xem xét trong cô lập tĩnh chỉ (cách li bất động). Không chỉ như vậy, vinh bị bệnh cần phải biết bệnh ở vệ, bệnh ở vệ cần phải biết bệnh ở vinh, bệnh ở khí cần phải biết bệnh ở huyết, huyết bị bệnh cần phải biết bệnh ở khí, tạng bị bệnh cần phải biết bệnh ở phủ, phủ bị bệnh cần biết bệnh ở tạng, hàn bệnh cần phải biết nhiệt bệnh, nhiệt bệnh cần phải biết hàn bệnh, đều chính là biến hoá, là vận động, là một phân thành hai, bản chất thật của sự vật là như vậy, nếu như không sử dụng tư tưởng này để nhận thức và phân tích vấn đề, các thày thuốc sẽ không có quy tắc nào để chẩn đoán và điều trị. Hiện tại chúng ta nhấn mạnh biện chứng của Trung y, không nói rằng phải nắm vững phương pháp tứ chẩn Vọng, Văn, Vấn, Thiết, thu thập một số tài liệu khách quan để phân tích gọi là biện chứng, c̣n phải có một khái niệm âm dương, một tư tưởng phép biện chứng đơn giản, v́ trong sách {Tố vấn - Phương thịnh suy luận} viết: :“知上不知下,知先不知后,故治不久”(Tri thượng bất tri hạ, tri tiên bất tri hậu, cố trị bất cửu) Biết trên không biết dưới, biết trước không biết sau, v́ vậy việc chữa bệnh không thể kéo dài. Y học hiện đại tiến bộ phi thường, thông qua X quang có thể thấy âm ảnh của phổi, lấy máu ở vành tai hoá nghiệm biết được nhiều loại bệnh. Trung y không có X quang, cũng không hoá nghiệm máu, vậy dựa vào đâu để biết bệnh Chính là tư tưởng phép biện chứng. Nó thông qua phản ảnh khách quan của bệnh, xem bên ngoài mà biết bên trong, xem bên trên mà biết bên dưới, quan sát khí mà biết về huyết, một chuỗi tư duy lô gich, sẽ giải quyết được vấn đề. Khi người viết ở huyện Xương Lê, hoả hoạn do cháy Nitrat và có khói khi bị cháy. Nhiều người đang chiến đấu với mùi lửa này, ai hít phải khói đều bị trúng độc, lănh đạo địa phương nhanh chóng tổ chức nhân viên y tế giải cứu. Người viết cũng tham gia đội ngũ y tế. Một người bị trúng độc nghiêm trọng, t́nh trạng khó thở tệ hại, đau ngực, nhiều đàm, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch huyền, người viết dùng thang Tiểu sài hồ gia thang Tiểu hăm hung, Sài Hăm hợp phương, sau khi uống hiệu quả vô cùng kiến hiệu.
Đương nhiên, biện chứng luận trị cũng có những thiếu sót nhất định, nhiều lư thuyết c̣n khá thô thiển, và mức độ kết hợp với những thành tựu khoa học c̣n rất thấp, chúng ta nên chú ư cải thiện những thiếu sót nêu trên. Tư tưởng biện chứng luận trị của Trung y được xây dựng trên vật chất. Đối với cơ thể con người mà nói, chính là phản ảnh sinh bệnh lư của tạng phủ kinh lạc, v́ thế biện chứng luận trị không thể tách rời biến hoá vật chất của tạng phủ kinh lạc. Tôi không đồng ư bỏ qua sáu nhóm hội chứng ngoài các tạng phủ kinh lạc, do đó không có cơ sở vật chất và biện chứng không có sức sống,cũng có thể nói rằng nó không thể phản ánh khách quan. Thí dụ như, nói về kinh mạch, đầu gáy cứng đau là Thái dương kinh bị bệnh; Sắc mặt đỏ ửng, đau trán, khô mũi, là kinh Dương Minh thụ tà. Ngực cạnh sườn trướng đầy, đắng miệng là kinh Thiếu dương thụ bệnh; Đầy bụng là bệnh tà ở kinh Thái âm, đau họng là bệnh ở Thiếu âm; Đau ở đỉnh đầu, ẩu thổ đàm dăi là kinh Quyết âm thụ bệnh. Đó là quy luật khách quan của kinh chứng. Chúng ta khi ứng dụng biện chứng lục kinh nên căn cứ theo kinh để nhận chứng, vận dụng tài năng căn cứ theo chứng để luận trị.
Phàm khi phát bệnh, không ngoài hai phương diện âm dương. Một phương diện là căn cứ theo kinh để nhận chứng, căn cứ theo chứng để luận trị. Một phương diện khác, là cần phải nhận thức vấn đề của âm dương chuyển hoá. Đương nhiên, những biến hoá chính là phải có điều kiện. Người xưa tổng kết là: Thực làThái dương, hư là Thiếu âm, thực là Dương minh, hư làThái âm, đă xét được năng lực kháng bệnh tà mạnh yếu của chính khí. Nếu như chính khí hư suy, thường thường do dương chuyển âm; Nếu chính khí khôi phục, sẽ do âm xuất dương.
Tinh thần biện chứng luận trị của {Thương hàn luận}
Trương Trọng Cảnh viết trong lời nói đầu của {Thương hàn luận}: :“人原五常,以有五脏,经络府會,阴阳会通,玄冥幽 微, 变化难极”(Nhân nguyên ngũ thường, dĩ hữu ngũ tạng, kinh lạc phủ hội, âm dương hội thông, huyền minh u vi, biến hoá nan cực)Nhân bẩm thụ ngũ thường, mà có ngũ tạng, kinh lạc hài hoà, âm dương thấu suốt, tăm tối tinh vi, biến hoá khó khăn, đó chính nói về biến hoá, là vận động, là bộ máy chuyển hoá của âm dương, những vấn đề này và vận động của vật chất là không thể tách rời. Đồng thời, cấu trúc văn chương của {Thương hàn luận} cũng dựa trên tư tưởng của phép biện chứng.
Thí dụ như, điều trên nói về nhiệt chứng, thực chứng, điều dưới nói về hàn chứng, hư chứng, để độc giả tự ḿnh xem xét so sánh. Lại như, Tiểu sài hồ thang chứng phát bệnh thường bên trên nối với lồng ngực, bên dưới nối với bụng nhỏ, và Đào hạch thừa khí thang chứng của bụng dưới cấp kết nối cùng một chỗ, khi biện chứng nên tránh lầm lẫn. C̣n rất nhiều đoạn văn giống như vậy, chính là chỉ cần chú ư là có thể sắp xếp an bài. V́ thế, cá nhân tôi không đồng ư đảo lộn thứ tự của các câu trong {Thương hàn luận}, tuy thuận tiện dễ dàng hơn trong việc học, nhưng mất đi phần nào tư tưởng của phép biện chứng. Ngoài ra, {Thương hàn luận} c̣n sử dụng tính chất khác nhau của hai chứng trạng để trị liệu phân biệt bệnh, cũng có rất nhiều khả năng dẫn dắt tư tưởng biện chứng pháp của mọi người. Thí dụ, chứng tự lợi (đi tả) mà khát, thuộc Thiếu âm; Tự lợi (đi tả) mà không khát, thuộc Thái âm, đều là tự lợi, nếu khát th́ thuộc Thiếu âm, không khát sẽ thuộc Thái âm, điều này sẽ phân biệt hạ tiêu thận dương hư đi tả và trung tiêu tỳ dương hư đi tả. Lại như, bàng quang phủ chứng phân thành súc (tích ứ) huyết và súc(tích ứ) thuỷ, tiểu tiện thuận lợi là chứng súc huyết, tiểu tiện không tiện lợi là súc thuỷ, như vậy để chẩn đoán phân biệt, đă có những cách phân định rơ ràng như vừa nêu, giúp chúng ta tăng cường tính quyết đoán trong biện chứng luận trị.
Thái dương bệnh chứng tính trị thượng
[Khái thuyết]
Hiện tại chúng ta đang nói về Thái dương bệnh thiên thượng------ 《Biện Thái dương mạch chứng và trị liệu phần thượng thứ 5》. Ở bài giảng trước, trước tiên là giới thiệu tổng nội dung để mọi người có nhận thức tổng thể. Thái dương bệnh chính là giai đoạn bắt đầu của bệnh ngoại cảm, vị trí đấu tranh giữa chính và tà (năng lực kháng bệnh và bệnh) ở tại thể biểu. Thể biểu là ǵ? Đó chính là da lông, thớ thịt, cơ nhục, tất cả những ǵ vừa kể gọi là biểu. Tà khí khách (khách là tồn tại ngoài ư thức) vào thể biểu, chính khí đề kháng bệnh tà cũng ở thể biểu, v́ thế thường gọi là biểu chứng. Chủ quản phạm vi thể biểu là kinh Thái dương. Thái dương có kinh, có phủ của nó. Kinh chính là Túc Thái dương kinh, phủ chính là bàng quang. Đây là một kinh dương đứng đầu các kinh dương, quan hệ biểu lư với Túc thiếu âm thận. Khí Thái dương bảo vệ bên ngoài nên vững chắc kiên cố, v́ thế khi bệnh tà khách vào thể biểu trước tiên là gây tổn thương cho kinh Thái dương.
Ngoài ra, nói như khí của Thái dương là phủ khí của bàng quang, có tác dụng khí hoá tân dịch, v́ bàng quang được ví như quan Châu đô, có nhiệm vụ trữ tàng tân dịch. Kinh và phủ có liên hệ hỗ tương, hỗ tương cấu thông (khai thông, nối liền). Sinh lư của Thái dương phân thành kinh và phủ, v́ thế khi phát bệnh có hai loại t́nh huống, một gọi là kinh chứng, một gọi là phủ chứng.
Kinh chứng chính là bệnh tà ở thể biểu phát sinh một số bệnh biến; Phủ chứng chính là bệnh tà ở Thái dương không giải, theo kinh nhập vào phủ (phế?), khiến bàng quang khí hoá không thuận lợi mà phát sinh bệnh biến. Kinh chứng là Thái dương biểu chứng (chứng bên ngoài), phủ chứng là Thái dương lư chứng (chứng bên trong); Kinh, bàng (quang) liên hệ với nhau, v́ thế bệnh tà của kinh Thái dương đi vào trong sẽ có khả năng truyền đến phủ của Thái dương.
Nếu dương khí của kinh Thái dương đă hư, bệnh tà có thể truyền vào đến Thiếu âm, v́ Thiếu âm và Thái dương có quan hệ biểu lư, hai kinh này hỗ tương chi viện, hỗ tương cấu thông (khai thông, nối liền)
Chính v́ hai kinh Thái dương và Thiếu âm có quan hệ, v́ thế trong quá tŕnh phát bệnh có hai loại t́nh huống, một loại t́nh huống chính là Thái dương và Thiếu âm đồng thời bị bệnh, trường hợp này gọi là lưỡng cảm, đúng là âm dương lưỡng cảm. Âm dương lưỡng cảm ở đây có những điểm khác biệt nhỏ với lưỡng cảm ở Nội kinh. Lưỡng cảm ở Nội kinh đều là nhiệt thịnh, lưỡng cảm của {Thương hàn luận} thường thường là dương khí hư. Loại t́nh huống thứ hai, Thái dương là pḥng tuyến bảo vệ đầu tiên của cơ thể con người, là tầng đề kháng ngoại tà ở ngoài cùng, nếu như Thái dương khí suy, tà khí có thể vượt qua để vào Thiếu âm. Thêm hai chữ phi độ là để nhấn mạnh ư nhanh chóng. Từ Thái dương đến Thiếu âm, ở giữa cách 3 kinh: Dương minh, Thiếu dương và Thái âm, loại phép nhanh này gọi là phi độ, khi lâm sàng cần phải t́m hiểu ngọn nguồn của bệnh, có thiếu âm bệnh bên trong Thái dương kinh. Đó chính là quan hệ giữa Thái dương và Thiếu âm.
Hiện tại chúng ta nói đến thuyết kinh chứng của Thái dương, kinh chứng của Thái dương bệnh chính là,
“Thái dương chi vị bệnh, mạch phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn” (Thái dương bị bệnh, mạch phù, đầu gáy cứng đau mà ghét lạnh ) , đây không chỉ là hội chứng chung của mọi Thái dương biểu chứng, mà c̣n là cương lĩnh chung của biểu chứng, bao gồm trúng phong, thương hàn, cũng bao gồm biểu chứng tổng cương của các loại ngoại cảm khác. Ở phía dưới tổng cương lại phân thành 2 điều, một là Thái dương trúng phong, hai là Thái dương thương hàn, ngoài hai loại này, lại nói đến một loại nữa là Thái dương ôn bệnh. Thái dương bệnh, phát sốt và khát, không sợ lạnh, là bệnh ôn. Nếu đă phát hăn, thân thể nóng rát, có tên là phong ôn, đề xuất khái niệm phong ôn, bệnh ôn. Thái dương trúng phong dùng thang Quế chi, Thái dương thương hàn dùng thang Ma hoàng. Thái dương thiên thượng chủ yếu giảng về thang Quế chi, thiên trung giảng về thang Ma hoàng, thang Cát căn. Đối với phong ôn, bệnh ôn, đề cập đến hội chứng, nhưng không đưa ra phương pháp trị liệu, từ đó về sau cũng không tŕnh bày thêm về các bệnh này. V́ thế, chứng trúng phong, thương hàn của Thái dương bệnh là nội dung trọng điểm của Thương hàn luận. Ôn bệnh, phong ôn là những loại chứng nói về cách truyền biến, không nói về trị liệu và tiên lượng bệnh. Cho nên với đề xuất loại chứng chính là nhấn mạnh cần phân biệt chẩn đoán bên trong biểu chứng c̣n có ôn bệnh, c̣n có phong ôn, là cùng một loại bệnh với trúng phong, thương hàn, nhưng không thể dùng thang Quế chi, thang Ma hoàng. Nếu dùng sai, sẽ phát sinh ngộ trị (điều trị nhầm). Kế cận cũng đề xuất hai vấn đề. Một là chứng tích nước ở khí phận. Tà khí chuyển đến hạ tiêu, ảnh hưởng khí phận, bàng quang khí hoá bất lợi, sẽ xuất hiện tiểu tiện bất lợi, gọi là chứng súc thuỷ (tích, ứ nước), Hai là chứng súc (tích ứ ) huyết ở huyết phận. Tà ở biểu nhập vào trong (lư) hoá nhiệt, nhiệt ứ huyết kết, đây gọi là chứng súc huyết, cũng gọi là chứng nhiệt kết bàng quang. Một số nhà chú thích hậu thế cho rằng, tích trữ nước trong bàng quang là dễ hiểu, tích trữ huyết trong bàng quang là khó hiểu. Xét theo hội chứng, bụng dưới cấp bách, người bệnh như cuồng, huyết tự xuống, huyết hạ xuống th́ khỏi bệnh, khi chẩn đoán phân biệt c̣n đề xuất tiểu tiện thuận lợi, huyết là đạo lư (lư lẽ), đă không phải tại bàng quang, nhiệt và huyết rốt cuộc bị ứ trệ ở đâu? Có rất nhiều ư kiến, đời nhà Thanh có y học gia tên Thư Tŕ Viễn, ông ta cho rằng súc thuỷ chính là tích ứ ở Túc Thái dương bàng quang, súc huyết chính là tích ứ ở Thủ Thái dương Tiểu trường (Thương hàn tập chú). Ông đưa ra lư do khá đầy đủ, trên lâm sàng bệnh nhân súc huyết c̣n bài xuất một lượng phân đen như sơn, đồng thời v́ Tiểu tràng và tâm là biểu lư, tâm chủ thần chí, cho nên phát cuồng, như cuồng. Ư kiến này có đạo lư nhất định, v́ thế có nhiều đại gia đồng thuận với ư kiến của Thư Tŕ Viễn. Nhưng có điều là vấn đề này vẫn c̣n nhiều tranh luận. Nhiệt tà nhập khi vào trong cơ thể dễ ngưng kết với những vật chất như nước, máu, đàm, thực phẩm v.v… Ngưng tụ lại biến thành nhân tố gây bệnh, phát sinh một loạt hội chứng. Ngoại trừ kinh chứng, phủ chứng, Thái dương bệnh c̣n có một số biến hoá. Một biến hoá là Thái dương biểu tà truyền vào lồng ngực. Ngực là thượng khí hải, là nơi của tâm phế, tâm phế là những tạng khí ban bố doanh vệ (bảo vệ và nuôi dưỡng), v́ thế khí doanh vệ của Thái dương thụ tà, liền truyền vào lồng ngực. Trương Trọng Cảnh Tiên sinh phân bệnh này thành hai loại: Loại thứ nhất là chứng hư phiền. Tà nhiệt đến lồng ngực, người bệnh liền phát phiền, nhưng chỉ có nóng nhiệt mà không có tính thực chất, vật chất, th́ gọi là chứng hư phiền. Gọi là hư chính là nói đến tà nhiệt không kết hợp với thuỷ, đàm, chỉ là tà nhiệt phát triển ngấm ngầm mà thôi, v́ thế gọi là chứng hư phiền, đó cũng chí là Chi tử thị thang chứng. Loại thứ hai là chứng kết hung của nhiệt kết hợp với thuỷ, có nhiều nguyên nhân bệnh, có kế phát, có nguyên phát, có ngộ hạ (hạ nhầm). Sau khi tà nhiệt đến lồng ngực, kết hợp hỗ tương với một loại thuỷ dịch, gọi là kết hợp giữa nhiệt và thuỷ. Phạm vi của nó có thể phân thành thượng, trung và hạ, thời điểm đầu tiên đến lồng ngực, v́ thế phương chứng chính là Đại hăm hung hoàn chứng; Sau đó chính là ngạnh măn ở tâm hạ (dưới tâm đầy cứng), hoặc từ tâm hạ đến bụng dưới đầy cứng và đau không thể cận kề, nên dùng thang Đại hăm hung để trị liệu, hai loại phương chứng này gọi là chứng kết hung, rất giống với chứng viêm màng ngực, viêm màng bụng ngực hiện nay. Sau chứng kết hung là giảng đến tâm hạ bĩ, có 5 chứng tâm hạ bĩ (bế tắc ở dưới tim (dạ dày)). V́ sao lại xuất hiện chứng tâm hạ bĩ tắc? V́ sử dụng sai các trị pháp hăn, thổ, hạ, gây tổn thương khí của tỳ vị, ảnh hưởng đến công năng thăng giáng của tỳ vị, sẽ làm cho đàm thuỷ lưu lại, phát sinh bế tắc dưới tâm, có thể sử dụng thang Đại hoàng Hoàng liên tả tâm, thang Phụ tử tả tâm, thang Bán hạ tả tâm, thang Sinh khương tả tâm, thang Cam thảo tả tâm để trị bệnh. Sau đó sẽ giảng về biến chứng. Khi điều trị nhầm (ngộ trị), sẽ phát sinh hư thực, hàn nhiệt, các loại biến hoá của ngũ tạng lục phủ. Các biến chứng này rất nhiều, nội dung trị pháp cũng rất phong phú, bổ sung được những thiếu sót của biện chứng lục kinh. Đối với biến chứng Trương Trọng Cảnh tiên sinh chỉ ra những nguyên tắc cụ thể, như xem xét mạch chứng, biết chỗ sai nghịch, tuỳ theo chứng mà trị; Ngoài ra c̣n nhắc nhở chúng ta một điều, đó là, phàm bị bệnh, là thổ, là hạ, là phát hăn, mất máu, mất nước, nếu âm dương tự hoà (công năng tự thân điều tiết giữ âm dương thăng bằng) tất bệnh sẽ tự khỏi. Bản chất của bệnh tật là âm dương bất hoà. Vậy phải làm ǵ để hoà hợp âm dương? Không ngoài hai phương diện sau, một là bồi dưỡng các điều kiện để hoà hợp âm dương, nếu như không thể th́ buộc phải dùng thuốc để hỗ trợ.
Trong các phương pháp trị liệu, chủ yếu nói về hăn pháp (phép xuất mồ hôi), nhắm vào chứng của kinh biểu (kinh mạch ở phần ngoài) chính là phép phát hăn, dùng các phương thang như thang Ma hoàng, thang Quế chi, thang Đại thanh long, Tiểu thanh long, thang Cát căn. Đối với phủ chứng, một phép là thông dương hành thuỷ, dùng Ngũ linh tán để trị liệu; Một phép nữa là phá huyết trục ứ, dùng Đào hạch thừa khí thang, Để đương thang, Để đương hoàn là những phương công trục, Đối với hai chứng cảm Thái dương và Thiếu âm, dùng phép ôn kinh giải biểu; Đă h́nh thành chứng Thiếu âm hư hàn, sẽ dùng phép cấp ôn (làm ấm nhanh), với thang Tứ nghịch để trị liệu. Đến như ngộ trị mà phát sinh các loại biến chứng, hoại chứng, trị pháp có thể dùng hoặc ôn, hoặc thanh, hoặc tiêu, hoặc bổ hoặc tả căn cứ theo t́nh huống cụ thể mà lập pháp.
{Thương hàn luận} tổng cộng có 10 quyển 22 thiên, chúng ta cần học ǵ tiếp theo, biện bệnh mạch chứng biện trị pháp kinh Thái dương phần thượng thứ 5. Biện chính là quy nạp tổng hợp, tŕnh bày sự khác biệt và phân tích. Cần phân biệt rơ Thái dương bệnh, cần thông qua mạch và chứng. Địa vị của Mạch có một vị trí trọng yếu trong Trung y biện chứng, không thể coi thường; Chứng là hội chứng của một bệnh, mỗi bệnh đều có hội chứng khách quan của nó. Có được mạch và chứng là có thể thiết lập nguyên tắc và phương pháp trị liệu tương ứng. Chúng ta sẽ học tập nguyên văn ở phần sau.
01 太阳之为病,脉浮, 头项强痛而恶寒。C1
Điều 1/ Thái dương chi vi bệnh, mạch phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn, C1
(Bệnh ở kinh Thái dương, mạch phù, đầu gáy cứng đau mà ghét lạnh)
Điều này là đề cương của Thái dương bệnh, cũng là cương lĩnh tổng quát của biểu bệnh. Kinh Thái dương bị bệnh, xét từ đề pháp (pp nh́n và hiểu về một vấn đề nào đó) đă phản ảnh Trương Trọng Cảnh phân chứng lục kinh chính là căn cứ vào tạng phủ kinh lạc, không chỉ vỏn vẹn là một tên bệnh. Có Thái dương rồi mới có “Thái dương chi vi bệnh” V́ thế, trước tiên nên giải thích Thái dương là ǵ?, cái ǵ gọi là Thái dương bệnh, cái ǵ là mạch chứng của Thái dương, đặc điểm mạch chứng phản ảnh cái ǵ.
Thái dương, chính là kinh Thái dương, túc thái dương bàng quang kinh. Túc thái dương bàng quang kinh và Túc Thái dương bàng quang phủ nối liền với nhau, phủ Thái dương ở hạ tiêu, nhưng khí của nó thông qua kinh Thái dương đi ra ngoài ở thể biểu, làm ấm áp da thịt, kháng ngự ngoại tà, bảo vệ thể biểu (phần bên ngoài của cơ thể). V́ công năng sinh lư như vậy, do đó được gọi là vệ khí (khí bảo vệ). Không cần tách rời vệ khí và khí của Thái dương. Vệ khí chính là khái niệm đặc sắc của Trung y, y gia cổ đại rất trọng thị đối với doanh khí, vệ khí.
Vệ khí vận hành trên cơ thể có một quy luật, ngày và đêm đều cùng một chỗ, vệ khí vận hành trên cơ thể 50 ṿng, tức là 50 ṿng tṛn. Trong 50 ṿng này, vệ khí ban ngày đi vào dương 25 ṿng, ban đêm đi vào âm 25 ṿng, sau đó là trời sáng, “B́nh nhật” (thường ngày) trời rạng sáng, con người thức giấc, hai mắt mở ra, v́ thế nên nói rằng, mở mắt ra là dương, nhắm mắt lại là âm. Dương khí hoạt động, vệ khí đi lên đỉnh đầu, theo gáy xuống thái dương, chính là khí ở thời điểm này giao nhau ở kinh Thái dương. Thời điểm này từ âm chuyển sang dương, vệ khí đi ở dương đạo, sẽ bắt đầu từ Túc Thái dương. Nội dung này đều có trong 《Nội kinh》 và 《Nan kinh》mọi người có thể xem lại. Tại sao lại nói về kinh mạch nội tạng? Tại sao lại nói về khí huyết và dịch của cơ thể? Đó chính là sự vận động sinh lư của một số vật chất trên cơ thể, bỏ qua những điều này th́ không c̣n Trung y. Khí Thái dương chính là Vệ khí. Khí của Thái dương đứng đầu lục kinh quản lư doanh vệ, ấm áp cơ nhục, thớ thịt, chủ đóng mở, bảo vệ vững chắc bên ngoài, trên thực tế không thể tách rời khí của Vệ dương.
V́ khí của Thái dương có những tác dụng trọng yếu như vậy, v́ thế gọi là Cự dương hoặc Thái dương, thái là to lớn, Thái dương là một dương khí to lớn. Dương khí của thể biểu toàn thân đều chịu sự quản lư của khí Thái dương.
Liên quan đến vấn đề Thái dương chủ biểu. 《Linh khu ▪Doanh Vệ sinh hội》 viết: “太阴主内,太阳主外。”(Thái dương chủ ngoại, Thái âm chủ nội) Thái âm làm chủ bên trong, Thái dương làm chủ bên ngoài, bên ngoài là biểu. 《Linh khu kinh ▪ Bản tạng》 viết: Thận hợp tam tiêu, bàng quang. Tam tiêu, bàng quang đáp ứng từ chân tơ kẽ tóc. Thận là căn bản của âm dương, v́ thế bệnh là do âm dương bất hoà, cuối cùng tất sẽ ảnh hưởng đến thận. Thận hợp với Tam tiêu, lại hợp với bàng quang. Bàng quang gọi là Thuỷ phủ, ;“三焦者,水谷之道路,气之所终始也”(Tam tiêu giả, thuỷ cốc chi đạo lộ, khí chi sở chung thuỷ dă) Tam tiêu là đường giao thông của thuỷ cốc, là nơi bắt đầu và cuối cùng của khí, Tam tiêu lại được gọi là đường giao thông của Thuỷ.
Khí tam tiêu làm ấm áp da thịt, v́ thế dương khí của thận thông qua tam tiêu và bàng quang mà ứng với mọi nơi thấu lư (thớ thịt) nhỏ nhất trên cơ thể, lại nói dương khí toàn cơ thể chính là khí của thận dương thu phát thông qua bàng quang và Tam tiêu. Ứng chính là ngoại ứng, ngoại ứng vào khe thớ thịt nhỏ nhất, có ư là khí và thuỷ gốc trong mà ứng ra ngoài. V́ bàng quang, tam tiêu đều có tân dịch, cho nên nói khí đến mọi nơi mọi chỗ th́ không thể đơn thuần là khí mà bên trong c̣n có nước, Ngoại cảm phong hàn một khi làm cho dương khí bế tắc, có nghĩa là thuỷ dịch trong tấu lư hào mao (thớ thịt nhỏ nhất) cũng bị bế tắc dừng lại, v́ thế cần phát hăn để trừ phong hàn. Một y học gia Nhật bản cho rằng thang Ma hoàng có tác dụng phát hăn chính là giải thuỷ độc.
Con người là một chỉnh thể, công năng tạng phủ chính là hỗ tương hiệp trợ. Linh khu Bản thâu viết: Thiếu dương thuộc thận, thận nối lên trên với phế, nên nuôi hai tạng, cũng chính là thận đi lên thuộc về phế, hợp bàng quang, trên dưới nối liền, thông nhau ở tam tiêu, nên nuôi hai tạng, v́ thế nên nói Thái dương chủ biểu và Thiếu âm dương khí chi viện chính là không thể tách rời. V́ sao Thái dương cần biểu lư với Thiếu âm? Không đạt đến âm dương biểu lư, Thái dương chủ biểu sẽ rất khó khăn, nó không có lực lượng lớn mạnh, chỉ dựa vào Thiếu âm thận khí, là khí nguyên dương tiên thiên, giống như một dạng khí Đại dương.
Ngoài ra, chúng ta xem lại những vấn đề liên quan đến khí trong 《Linh khu ▪ Quyết khí》.
Khí là ǵ? Thượng tiêu rộng mở, khơi ḍng vị ngũ cốc, nuôi dưỡng da thịt thân thể lông tóc, nếu như sương mưa móc th́ gọi là khí, chúng ta đă giới thiệu qua, khí Thái dương cần thông qua tam tiêu, được chi viện từ tạng thận, có khả năng làm chủ thể biểu. Nhưng nếu chỉ có thận khí tiên thiên, không có khí hậu thiên thuỷ cốc, khí của hô hấp cũng chính là không được. 《Linh khu kinh▪ Quyết khí》 chỉ xuất: Thượng tiêu mở ra, khai thông vị ngũ cốc, con người chỉ hô hấp dương khí của trời, dương khí của trời và thuỷ cốc kết hợp ở cùng một nơi, biến thành năng lượng, nuôi dưỡng thân thể, da thịt lông tóc, nếu tưới tắm như sương, gọi là khí. V́ thế , Thái dương làm cho da thịt ấm áp, khiến thấu lư tốt tươi (thấu lư= giữa thớ thịt và da), coi về đóng mở, dương khí kiên cố bảo vệ bên ngoài, đă bao hàm tiên thiên thận khí, cũng bao gồm khí của thuỷ cốc, khí của hô hấp.
Dựa theo lư thuyết ở phần trên, có thiên khí là có khí hô hấp, có địa khí là có khí của thuỷ cốc, có nhân khí là khí tiên thiên bẩm phú ở thận khí, đó là ba khí Thiên, địa, nhân hợp lại có tác dụng hiệp đồng. V́ thế, nếu không có Phế tuyên phát (tuyên phát=Dọn đường phát tán), vị tư dưỡng (bồi dưỡng) th́ Thái dương không có nguồn gốc và không thể tiếp tục, sẽ không thể phát huy tác dụng. V́ sao trong biểu chứng của Thái dương bệnh lại có suyễn? V́ trong khí Thái dương có bao gồm phế khí, tà khí ảnh hưởng đến công năng tuyên giáng của phế khí, dẫn đến Phế khí không thuận lợi. V́ sao trong Thái dương bệnh lại có oẹ khan, ẩu nghịch? V́ trong khí Thái dương có vị khí, tà khí ảnh hưởng đến công năng thông giáng của vị khí, làm cho vị khí không thuận lợi. V́ sao trong Thái dương bệnh lại phát sốt mà mạch lại trầm? V́ khí Thái dương có hàm chứa thiếu âm thận khí. Như vậy, chúng cần có một quan niệm chỉnh thể, cơ thể trên phương diện công năng sinh lư chính là có liên hệ. Thái dương chủ biểu và Phế chủ b́ mao (da lông), tam tiêu làm ấm da thịt tất cả đều như nhau, đừng xem chúng là riêng biệt và không tương quan.
Chúng ta lại nói về vấn đề kinh Thái dương. Căn cứ lư luận Trung y, kinh lạc trên cơ thể là tồn tại khách quan, các nhà châm cứu chính là theo kinh để t́m huyệt, châm vào những huyệt này để trị bệnh của kinh mang huyệt đó. Người viết trước đây ở nông trường Hán Cổ (47 phân tràng) triển khai giáo dục cách mạng, ngày ngày đến các gia đ́nh bần hạ trung nông để khám bệnh, có một bé gái họ Trần 14 tuổi, sốt cao. Người viết thời điểm đó không mang theo thuốc, đă phỏng theo phương pháp Thương hàn, châm các huyệt Phong tŕ, Phong phủ, c̣n có thêm Đại chuy, Khúc tŕ. Đúng là ngoài cả ngoài ư liệu của người viết, sau khi châm xong Năo môn xuất hăn, và bn hạ sốt. Làm sao có thể nói Thái dương chủ biểu với kinh không có quan hệ? Theo Trương Trọng Cảnh châm huyệt Đại chuy ở khe thứ nhất, Phế du, Can du, Kỳ môn đều là có đạo lư, chính là nói về tạng phủ kinh lạc. Kinh Thái dương là kinh dương đứng đầu các kinh dương, Thiếu dương và Dương minh đều không bằng. V́ kinh Thái dương đi theo dương đạo, phía trước của cơ thể là âm, phía sau là dương, mà kinh Thái dương đi ở sau lưng. Túc thái dương bàng quang bắt đầu từ trong khoé mắt, đi lên trán, giao nhau ở đỉnh đầu, từ đỉnh đầu đi vào năo, đi ra phía dưới gáy, đi ra phía trong vai, theo lưng xuống eo, vào xương sống, nối thận thuộc bàng quang. Không chỉ xuống sau lưng, mà c̣n là một kinh dài nhất, huyệt đạo cũng nhiều nhất. Ngoài ra, kinh Thái dương và Đốc mạch đi song song, Đốc mạch là tổng chỉ huy của các kinh dương. V́ thế, chỉ có kinh Thái dương đảm nhiệm thông hành dương khí, có tác dụng chủ biểu. Đồng thời, bàng quang lại chính là thuỷ của phổi, thuỷ có thể hoá khí, khí có thể hành thuỷ, do đó có nhiểu khả năng chủ biểu. Kinh Thái dương có phải là một kinh có nhiều vấn đề? Hiện nay có một số người căn cứ học thuyết kinh lạc trong Thương hàn luận kiên tŕ đưa ra ư kiến phản đối, họ nói rằng: Làm thế nào điều này có thể đúng? Thái dương bệnh là bệnh ở một ḍng sao? Trên thực tế, tuyến đó là xương sống của nó, giống như đường trục của tuyến đường chính. Đường lớn là kinh, đường nhỏ là lạc, trong lạc c̣n có tôn lạc, như mạng lưới trên toàn thân! V́ thế, Thái dương phân ra làm 3, gọi là Thái dương thể, Thái dương kinh và Thái dương phủ. Thái dương thể chính là Thái dương chủ biểu, bề mặt đều là Thái dương; Thái dương kinh chính là nói về kinh mạch, đầu gáy cứng đau chính là kinh mạch không thuận lợi, Thái dương phủ chính là vấn đề công năng khí hoá của bàng quang, Thái dương thể, Thái dương kinh, Thái dương phủ, tóm lại gọi chung là Thái dương. Từ những giải thích của các nhà chú giải, có lúc đề cập đến Thái dương phủ, có lúc là Thái dương kinh, trên thực tế đó là một thể hoàn chỉnh. Y tôn kim giám để cho Thương hàn luận dễ hiểu hơn, đề xuất các khái niệm như thể của Thái dương, kinh của Thái dương, phủ của Thái dương. Chính v́ có phủ của Thái dương nên kinh tà (tà khí ở kinh) có thể truyền đến phủ, v́ kinh phủ tương liên (liên quan với nhau), như gốc và cành, chính là một chỉnh thể.
V́ Thái dương chủ biểu, nên khi tà khí bên ngoài khách vào thể biểu đều bắt đầu từ Thái dương. Chính khí đề kháng tà khí ở thể biểu, nên vị trí bệnh tại thể biểu. Chứng trạng thứ nhất của biểu chứng chính là mạch phù. Sự sắp đặt các chứng trạng: Đầu gáy cứng đau, sợ lạnh, mạch phù, mạch phù được xếp ở vị trí thứ nhất, cho thấy tính chất quan trọng của nó. Mạch phù là ǵ? V́ chính khí kháng bệnh tà ở biểu, doanh vệ khí huyết đều hướng ra ngoài v́ thế nên mạch phù. Chữ Phù có nhiều ư nghĩa. Thứ nhất, là nói theo h́nh tượng mạch. Mạch phù như cây gỗ nổi trên mặt nước, mạch phù chỉ ở trên thịt. Thứ hai, nói theo bệnh lư. Mạch phù là ǵ? Phản ảnh ở đây là Thái dương biểu chứng. Do tà khí mới khách vào thể biểu, chính khí bắt đầu đề kháng, khí huyết hướng ra ngoài, v́ thế mạch phù. Cũng chính như chúng ta thường nhấn mạnh : Có một chút mạch phù là có một chút biểu chứng! Vô luận thời gian bệnh dài bao lâu, chỉ cần c̣n mạch phù, là phản ảnh của khí huyết đang hướng ra ngoài, cũng là hàm ư tà khí tại biểu chưa được giải, mạch phù là bệnh ở dương biểu, không thể dùng các loại thuốc hạ như thang Thừa khí để hạ được.
Làm sao để phán đoán mạch phù? Phép thiết mạch gồm các phép: Cử, án và tầm. Các lớp của cơ thể từ ngoài vào trong phân thành 5 lớp gồm da, thịt, mạch, gân, xương, gọi là ngũ thể. Đặt nhẹ tay gọi là phép Cử, cũng chính là nhẹ tay (phù) mà thấy mạch, lại ấn tay xuống đến thịt, ấn xuống đến gân, ấn xuống đến xương, gọi chung là cử, án, tầm (nhẹ tay, ấn xuống, t́m). Nên dùng phép cử, v́ mạch cần có sự chính xác, viết phù trung trầm (ở trên, ở giữa, ở dưới), là t́m đầy đủ trên dưới, truy t́m trái phải, và cần phải làm đúng theo quy củ.
Chứng thứ hai của biểu chứng chính là chủ chứng. Một là đầu thống hạng cường (đau đầu cứng gáy) là hai hội chứng liên hệ hữu cơ. Đầu là nơi hội tụ của chư dương, chính là các kinh dương đều hội tụ ở đầu, nhưng mỗi kinh lại có hướng riêng của nó, Dương minh ở vùng đầu trán, Thiếu dương ở góc đầu, Thái dương ở đỉnh đầu, đầu là vị trí của 3 kinh dương thông nhau, mà đỉnh đầu là vị trí riêng của Thái dương. Tuy vậy bệnh ở ba kinh dương đều có thể xuất hiện đau đầu, nhưng chứng trạng đau đầu cứng gáy là chứng trạng của riêng kinh Thái dương, đó chính là tính đặc thù. Sao gọi là hạng cường (cứng gáy), chính là kinh mạch Thái dương không thuận lợi. V́ kinh mạch có tác dụng khai thông, v́ thế gọi là kinh thâu (vận chuyển).【 Linh khu kinh▪ Bản tạng】 có các câu: 经脉者,所以行血气而营阴阳,濡筋骨,利关节者也。”(Kinh mạch giả, sở dĩ hành huyết khí nhi doanh âm dương, nhu cân cốt, lợi quan tiết giả dă) Kinh mạch sở dĩ hành huyết khí mà quản lư âm dương, thấm tưới lên gân xương, ích lợi cho xương khớp. Kinh mạch chính là lưu thông khí huyết, tưới thấm gân xương ích lợi cho các khớp xương, với lưu thông là thích hợp. V́ Thái dương biểu thụ bệnh tà, tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến kinh của nó. V́ thế nên Thái dương biểu chứng cũng gọi là Thái dương kinh chứng. Kinh Thái dương thụ tà, bộ vị phản ảnh chủ yếu chính là gáy, lại ảnh hưởng xuống lưng eo, kinh Thái dương vận chuyển không thuận lợi, phía sau gáy bị cứng nhẹ, cho dù hoạt động, hay nh́n xem chung quanh, cúi ngửa đầu đều kém tự nhiên, có cảm giác căng cứng. Có chú thích gia cho rằng, cường là cường trực, đó là sai rồi, như vậy đă trở thành bệnh kính.
Thứ hai là, mà sợ lạnh (nhi ố hàn), NHI là một từ liên kết trên dưới (thừa thượng khải hạ= Kế thừa) không chỉ làm cho hội chứng của phần trên liên tiếp ở cùng một nơi , mà c̣n có ư nhấn mạnh NHI Ố HÀN. Phàm khi do Trương Trọng Cảnh miêu tả, chữ NHI sau một số chứng trạng, như là, bất hăn xuất NHI phiền táo giả (Không xuất mồ hôi mà phiền táo), vô hăn NHI suyễn giả (Không có mồ hôi mà suyễn), đều có ư nghĩa trọng yếu nhất định.
V́ sao mà sợ lạnh? V́ tà khí gây tổn thương khí Thái dương, vệ khí không thể sưởi ấm cơ biểu như b́nh thường cho nên sợ lạnh.
Đề cương của biểu chứng trong {Thương hàn luận} không đề cập đến phát nhiệt, chỉ đề cập đến sợ lạnh.
Biểu chứng cũng phát nhiệt, v́ dương khí bị uất. Khí Thái dương bị tà khí gây tổn thương, dương khí cần đề kháng tà ở biểu, mở đóng không thuận lợi nên dương khí bế uất, mà có hội chứng phát nhiệt. Tại sao đề cương ở câu này của {Thương hàn luận} không đề cập đến phát nhiệt? Tà khí khi đả thương người đầu tiên là đả thương vệ dương, v́ thế cảm giác sợ lạnh nhất định sẽ xuất hiện. Nói theo cảm giác chứng trạng, sợ lạnh nhất định sẽ xuất hiện trước khi phát nhiệt. Sau khi biểu dương bị tổn thương, dương khí, doanh vệ, khí huyết trên cơ thể cần tích cực đề kháng ngoại tà ở thể biểu, sau khi phát sinh dương khí bị đè nén, sẽ xuất hiện phát sốt. Nhưng, lâm sàng cũng có chứng trạng sợ lạnh cùng lúc với chứng trạng phát sốt. Ngày xưa không có dụng cụ đo thân nhiệt, chỉ có thể căn cứ theo lời kể của bệnh nhân để ghi lại, v́ thế nhấn mạnh sợ lạnh. Do đó, biểu chứng trừ sợ lạnh ra, c̣n có chứng trạng phát nhiệt. Đó chính là đề cương của Thái dương bệnh, cũng chính là đề cương của biểu chứng. Sau này phàm đề cập đến Thái dương bệnh, bất luận là ở thiên Thái dương, hay ở các thiên, chương khác cũng vậy, nên có đầy đủ chủ mạch, chủ chứng của biểu chứng. Cũng chính là mạch phù, đau đầu, cứng gáy, sợ lạnh, phát sốt.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-11-22 18:49:21
Điều 01
IV/ Chứng hỗn hợp là ǵ ?
Đồng thời với bệnh mới (tân cảm) luôn luôn xen lẫn các bệnh cũ, vấn đề có nghĩa là hai bệnh. Bệnh cũ có hàn có nhiệt, có hư có thực, chính là chứng hỗn hợp. Khi chúng ta lâm sàng biện chứng, làm thế nào để giải quyết những vấn đề này? Trước tiên cần nắm được vấn đề quan hệ của chính và tà (bệnh và năng lực kháng bệnh), biện hư thực trong biện chứng bát cương là để xem xét tiến thoái của chính tà. Thí dụ như, thương hàn, mạch kết đại, tâm động hồi hộp, dùng thang Chích Cam thảo, bệnh này tuy đến khám chữa bệnh v́ thương hàn, nhưng c̣n hỗn hợp với tạng tâm hư suy dẫn đến mạch kết đại, hồi hộp. Thày thuốc khi biện chứng cần cân nhắc t́nh huống của hai phương diện chính tà, cuối cùng th́ thương hàn có phải là vấn đề thứ nhất? Hay chứng tâm động hồi hộp, mạch kết đại mới là vấn đề thứ nhất? trước tiên phải giải quyết vấn đề nào cho thích hợp? Dùng thang Chích Cam thảo phù tŕ chính khí là chủ, v́ tạng tâm là đại chủ (ông chủ) của ngũ tạng, phải tích cực phù tŕ chính khí là trị liệu ưu tiên hàng đầu trong trường hợp này.
Lại như, bên ngoài có phong hàn phạm biểu toàn thân đau nhức, bên trong dương khí suy hư đi cầu trong lỏng, đă có biểu chứng lại có thêm lư chứng. Thày thuốc khi biện chứng cũng cần cân nhắc trước tiên là phát hăn trị toàn thân đau nhức? Hay ôn bổ để trị chứng đi cầu trong lỏng? Chính vi bản, tà vi tiêu (Chính là gốc, tà là ngọn) tiêu bản không đúng, th́ tà khí không thể tuân theo. Đi cầu trong lỏng phản ảnh thận dương và tỳ dương đă hư suy, nếu như c̣n phát hăn không những tà không giảm, mà sẽ xuất hiện tay chân quyết nghịch là một loạt hội chứng dương hư hàn thịnh. Trường hợp thương hàn chen lẫn thực chứng cũng rất nhiều, như thương hàn biểu không giải, tâm hạ có thuỷ khí; Thái dương dương minh, chính là tỳ bị bó buộc. Chứng hỗn hợp của thương hàn c̣n có các loại h́nh bệnh như xen lẫn hàn, xen lẫn nhiệt, xen lẫn khí, xen lẫn huyết.
VI/Trị pháp và Phương dược của {Thương hàn luận}
Trước khi có {Thương hàn luận} rất ít sách y học ghi lại các bài thuốc, như {Nội kinh} chủ yếu dùng châm cứu để trị liệu, chỉ có khoảng 13 phương thang được ghi chép trong {Nội kinh}, đối với ứng dụng lâm sàng th́ càng rất ít. Điểm quư giá của {Thương hàn luận} chính là ghi lại 113 phương thang, những phương này dùng tổng cộng 91 vị thuốc, so với {Nội kinh} th́ đây chính là đại đại.. phát triển. 113 phương này bao quát những nội dung trị liệu ǵ? Chúng tôi tóm tắt được 8 phương diện. Thứ nhất là hăn pháp (phương pháp gây xuất mồ hôi), bệnh tại biểu, dùng phép phát hăn để giải biểu, dùng các phương Ma hoàng thang, Quế chi thang để giải quyết Thái dương biểu chứng. Thứ hai là phép thổ (gây ẩu thổ), bệnh ở trên, cho nên vượt qua, dùng Qua đế tán để giải quyết thực chứng ở hung cách (ngực, hoành cách mô). Thứ ba là phép hạ (phép công hạ, gây tiết tả), dùng Đại, Tiểu thừa khí thang để giải quyết thực chứng của vị tràng (dạ dày và ruột). Thứ tư là phép hoà giải, dùng Sài hồ thang tễ để trị liệu chứng Thiếu dương bán biểu bán lư. Thứ năm là pháp ôn (làm cho ấm áp), dùng Tứ nghịch bối trị liệu chứng tam âm hư hàn. Thứ sáu là thanh pháp (giảm nóng), dùng Hoàng cầm, Hoàng liên trị chứng nóng ở trong. Thứ bảy là phép bổ (bồi bổ), dùng Nhân sâm, Cam thảo…để điều trị chính khí suy hư. Thứ tám là phép tiêu, dùng Manh trùng, Thuỷ điệt để tiêu trừ ứ huyết. Phần trên chính là hiện nay chúng ta gọi là bát pháp, là được thành lập sau khi có 113 phương trong {Thương hàn luận}
Tại sao gọi là bát pháp? Bát pháp không chỉ là 8 loại phương cách trị liệu.
Pháp chính là có lư luận, có yêu cầu, gọi là phép tắc và không thể bỏ qua. Thí dụ, phép hăn (phép gây xuất mồ hôi) có phép tắc của phép hăn, Quế chi thang, Ma hoàng thang, Đại thanh long thang tuy cùng là phương thang phát hăn, nhưng không giống nhau. Khi uống thang Quế chi để phát hăn nhất định cần 1 thăng cháo nóng, trùm người cho nóng, rồi uống cháo nóng, nếu không sẽ không đổ mồ hôi. Tại sao như vậy? Trong thang Quế chi có vị Thược dược, không như tác dụng phát hăn của thang Ma hoàng, được cung cấp các điều kiện phát hăn nhất định. Ở thời điểm xuất hăn, là loại mồ hôi ǵ? mồ hôi nhẹ nhàng toàn thân, chỉ nên có một chút mồ hôi sẽ tốt hơn, không nên xuất mồ hôi như nước chảy, như vậy không trừ được bệnh, đó chính là phương pháp. Sau khi uống thang Ma hoàng không ăn cháo loăng, nhưng cũng nên trùm mền, xuất một chút mồ hôi để giải bệnh. Uống thang Thanh long th́ không như vậy, v́ lượng Ma hoàng nhiều gấp bội so với thang Ma hoàng, sau khi phát hăn, nếu quá nhiều mồ hôi, dùng phấn ấm, chính là khi mồ hôi ra nhiều không khống chế được, nhanh chóng dùng bột gạo xoa lên cơ thể, để lấp vào lỗ chân lông.
Thuốc là ngọn, chính khí của cơ thể là gốc. Thuốc tác dụng vào cơ thể, cả hai hợp nhau có khả năng khởi phát tác dụng trừ khứ bệnh. Chúng ta không thể nói thang Quế chi sẽ trừ hết phong, thang Ma hoàng sẽ trừ hết lạnh, đó chính là chỉ thấy thuốc mà không thấy người, và đó là đạo lư, v́ vậy nếu phát hăn quá nhiều, sẽ gây tổn thương năng lực đề kháng bệnh của cơ thể, không thể hoàn toàn loại bỏ bệnh, bệnh tật sẽ không giải, phép công hạ cũng như vậy. Trương Trọng Cảnh Tiên sinh đối với ứng dụng phép công hạ khiến mọi người vô cùng khen ngợi. Bệnh tật mười phần phức tạp có lúc giống như Đại thừa khí thang chứng, lại có lúc giống Tiểu thừa khí thang chứng, rất khó khăn nan giải. Phải làm như thế nào? Trương Trọng Cảnh đầu tiên dùng thang Tiểu Thừa khí, nếu như sau khi uống, bụng chuyển thải ra mùi phân, là có phân cứng trong bụng, có thể dùng thang Đại thừa khí để công hạ, c̣n nếu không chuyển mùi phân, là biểu hiện không có phân khô, nhanh chóng sử dụng các trị pháp khác. Bắt đầu không dùng thang Đại thừa khí, v́ khi dùng phương pháp hạ mạnh, dễ tổn thương chính khí của cơ thể.
Khi sử dụng một phương pháp trị bệnh, nhất là các phép như hăn, thổ và hạ pháp, nên phân tích hai mặt của vấn đề. Thang Ma hoàng là phép phát hăn, tiếp theo sẽ nói, các chứng lở loét họng, chảy máu, mồ hôi lạnh là những t́nh huống cấm dùng Ma hoàng. Thang Quế chi tư âm hoà dương, điều hoà vinh vệ, điều hoà khí huyết, điều hoà tỳ vị, chính là phương thang hàng đầu của {Thương hàn luận}, đứng đầu các phương, cũng có chứng cấm kỵ, người uống rượu, không thể uống thang Quế chi, nếu uống sẽ gây ẩu thổ, v́ người uống rượu không thích vị ngọt; Người mạch phù khẩn, sốt không xuất mồ hôi, cũng không nên uống thang Quế chi, và điều quan trọng là phải biết điều này, đừng phạm sai lầm, không chỉ để nói mặt tốt, mà c̣n nhấn mạnh mặt xấu. Lư luận của bát pháp bắt nguồn từ phép biện chứng. Nguyên nhân v́ đầu tiên có hội chứng, như hội chứng Thái dương, hội chứng trúng phong, phải có phương pháp tương ứng để hướng dẫn ứng dụng phương dược. Lư pháp phương dược của {Thương hàn luận} chính là một khâu móc vào một khâu. Tư tưởng và phương pháp này có ư nghĩa chỉ đạo đối với lâm sàng, v́ là ứng dụng của phép biện chứng, đều là nhất phân vi nhị (hai mặt đối lập).
Chúng ta học {Thương hàn luận} không chỉ là học các phương dược như thang Quế chi, thang Ma hoàng, quan trọng hơn chính là học phương pháp nhận thức sự vật, như vậy có thể nâng khả năng lên một cao độ mới.
Pháp truyền theo phương, phương theo phép lập ra, đó cũng là quan hệ của biện chứng. Phương dược của {Thương hàn luận} gọi là “Kinh phương”, hiệu quả rất tốt thể hiện được lư pháp, xác thực là không dễ dàng, với hơn 110 phương thang, khoảng 90 vị thuốc chính là trải qua rất nhiều thực tiễn, sàng lọc, tuyển chọn, cân nhắc, đắn đo, trải qua thí nghiệm lâm sàng hàng vạn ức người mà khẳng định được. V́ thế, những phương thang đều không phải do một ḿnh Trương Trọng Cảnh viết ra mà là kế thừa từ tiền nhân, như Quế chi gia Thược dược Sinh khương đều 1 lạng Nhân sâm 3 lạng tân gia thang, khả năng là Trương Trọng Cảnh trên cơ sở thang Quế chi gia vị mà thành, mà ảo diệu là ở hai chữ tân gia. “汗后身疼脉反沉,新加方法轶医林,方中姜芍还增一,三两人 参意蕴深。
Hăn hậu thân đông mạch phản trầm
Tân gia phương pháp dật y lâm
Phương trung Khương Thược hoàn tăng nhất
Tam lạng Nhân sâm ư uẩn thâm.
Thời đại của y gia Trương Trọng Cảnh đến nay đă hơn 1700 năm, nhiều kinh phương như Quế chi thang, thang Ma hoàng, thang Tiểu kiến trung, thang Tứ nghịch, thang Đại Tiểu sài hồ được y gia các thời đại ứng dụng nhiều lần. Thông qua kiểm nghiệm thực tiễn, chúng ta phát hiện những phương thang này có hiệu quả, thậm chí vượt ra ngoài dự đoán. Phương thang trong {Thương hàn luận} tuy ít nhưng tinh tuư, từ 3 đến 5 vị là nhiều nhất, ít nhất chỉ có 1 vị như thang Cam thảo, nhiều nhất là 7 vị như thang Tiểu sài hồ. Điều này khác với lâm sàng dụng dược càng nhiều càng tốt của y học lâm sàng hiện đại. Người viết trước khi học {Thương hàn luận} đối với hiệu quả trị liệu của kinh phương cũng có thái độ hoài nghi, sau đó trải qua lâm sàng thực tiễn lâu dài đă phải tâm phục khẩu phục. Người viết công tác tại nhân dân y viện huyện Xương Lê khám một bệnh nhân, ở đùi của bệnh phần trên cùng mọc lên một khối to như quả trứng, sau khi khối đó xuất hiện th́ chân bệnh nhân không duỗi thẳng được. Thày thuốc đă đâm xuyên vào nhưng không thấy xuất ra bất cứ vật ǵ, sau đó người viết khám cho bn vừa nêu, bn mạch huyền, chân không duỗi thẳng được, Thược Cam tứ lạng các tương quân, lưỡng cước câu loan bệnh tại cân “芍甘四两各相均,两脚拘季 病在筋”, chính là Thược dược Cam thảo thang chứng, liền cho uống thang này, rất nhanh chóng khỏi bệnh. Lư do là ǵ? Thược dược Cam thảo thang chứng trong {Thương hàn luận} chính là do gân co rút thành chứng sán (tổ chức, nội tạng ph́nh to), h́nh thành cân sán, dùng Thược dược Cam thảo thang cam toan hoá âm, có khả năng hoăn giải co thắt, thông sướng huyết mạch, tự nhiên thu được hiệu quả tốt.
Tinh thần biện chứng luận trị của {Thương hàn luận}
Hiện nay Trung Tây y kết hợp điều trị chứng viêm phúc mạc cấp tính có sử dụng một số phương dược, trên thực tế là thang Đại sài hồ, Đào hạch thừa khí thêm một ít thay đổi mà thành, thu được thành tựu rất lớn, những bệnh nhân từ đầu rất cần thủ thuật (giải phẫu), sau khi uống thuốc t́nh trạng đă tốt và không cần thủ thuật.
Trong {Thương hàn luận} bao quát không chỉ là bát pháp, mà c̣n cả trấn nghịch pháp. Thu sáp pháp v.v…Đó là những phát triển môn phương tễ học của hậu thế, cung cấp các điều kiện đột phá của một phương diện nào đó cho các y gia đời sau. Thí dụ như Lư Đông Viên khi lư luận thang Bổ trung ích khí trong Tỳ vị luận, đă bắt đầu từ thang Tiểu kiến trung, cho thấy ông ta đă xây dựng thang Bổ trung trên cơ sở thang Tiểu kiến trung. V́ sao Trương Trọng Cảnh sử dụng thuốc ngọt? Tất cả đường đều được sử dụng, chính là ấn chứng lư thuyết “Lao giả ôn chi” (劳者温 之)Lao nhọc sử dụng thuốc ấm áp. Lư Đông Viên căn cứ theo mà sáng lập phép Cam ôn trừ đại nhiệt, ứng dụng vào chứng tỳ vị hư suy.
Liên quan đến vấn đề biện chứng luận trị, Tôi đă giới thiệu vấn đề này ở phần trước, tại sao chúng ta phải nói về nó ở cuối? Một là để tóm tắt và hai là để mọi người chú ư hơn. Tuy nhiên biện chứng luận trị không bắt đầu từ {Thương hàn luận}, Trương Trọng Cảnh trong lời nói đầu đề cập đến sách tham khảo 《B́nh mạch biện chứng》 có khả năng là sách chuyên về biện chứng, nhưng {Thương hàn luận} thực hiện được biện chứng luận trị một cách toàn diện và tinh tế.
Trong 《Nội kinh》 có một lượng lớn tài liệu giảng về tư tưởng phép biện chứng. Để hiểu biết bệnh, cần phải thiết lập tư tưởng phép biện chứng, tư tưởng này chính là vận động, toàn diện, biến hoá, không cô lập, tĩnh chỉ (không cách li, bất động). 《Nội kinh》 “Trị bệnh cầu bản, bản vu âm dương” (治病求本,本于阴阳)trị bệnh là trị tận gốc, gốc ở âm dương, đó chính là một loại tư tưởng của phép biện chứng.
Tinh thần biện chứng luận trị của {Thương hàn luận} 《Tố vấn ▪ Phương thịnh suy luận》 đề xướng thày thuốc khi chẩn bệnh cần phải biết xấu biết tốt, biết bệnh biết không bệnh, biết cao biết thấp, biết trái biết phải, bao hàm được những nét mộc mạc của tư tưởng phép biện chứng. Trương Trọng Cảnh kế thừa tư tưởng biện chứng của 《Nội kinh》với âm dương là cương lĩnh để tŕnh bày và phân tích những biến hóa sinh bệnh lư, đối với quan hệ chính tà, quan hệ biểu lư, quan hệ hàn nhiệt, đều chính là phép nhị phân, không xem xét trong cô lập tĩnh chỉ (cách li bất động). Không chỉ như vậy, vinh bị bệnh cần phải biết bệnh ở vệ, bệnh ở vệ cần phải biết bệnh ở vinh, bệnh ở khí cần phải biết bệnh ở huyết, huyết bị bệnh cần phải biết bệnh ở khí, tạng bị bệnh cần phải biết bệnh ở phủ, phủ bị bệnh cần biết bệnh ở tạng, hàn bệnh cần phải biết nhiệt bệnh, nhiệt bệnh cần phải biết hàn bệnh, đều chính là biến hoá, là vận động, là một phân thành hai, bản chất thật của sự vật là như vậy, nếu như không sử dụng tư tưởng này để nhận thức và phân tích vấn đề, các thày thuốc sẽ không có quy tắc nào để chẩn đoán và điều trị. Hiện tại chúng ta nhấn mạnh biện chứng của Trung y, không nói rằng phải nắm vững phương pháp tứ chẩn Vọng, Văn, Vấn, Thiết, thu thập một số tài liệu khách quan để phân tích gọi là biện chứng, c̣n phải có một khái niệm âm dương, một tư tưởng phép biện chứng đơn giản, v́ trong sách {Tố vấn - Phương thịnh suy luận} viết: :“知上不知下,知先不知后,故治不久”(Tri thượng bất tri hạ, tri tiên bất tri hậu, cố trị bất cửu) Biết trên không biết dưới, biết trước không biết sau, v́ vậy việc chữa bệnh không thể kéo dài. Y học hiện đại tiến bộ phi thường, thông qua X quang có thể thấy âm ảnh của phổi, lấy máu ở vành tai hoá nghiệm biết được nhiều loại bệnh. Trung y không có X quang, cũng không hoá nghiệm máu, vậy dựa vào đâu để biết bệnh Chính là tư tưởng phép biện chứng. Nó thông qua phản ảnh khách quan của bệnh, xem bên ngoài mà biết bên trong, xem bên trên mà biết bên dưới, quan sát khí mà biết về huyết, một chuỗi tư duy lô gich, sẽ giải quyết được vấn đề. Khi người viết ở huyện Xương Lê, hoả hoạn do cháy Nitrat và có khói khi bị cháy. Nhiều người đang chiến đấu với mùi lửa này, ai hít phải khói đều bị trúng độc, lănh đạo địa phương nhanh chóng tổ chức nhân viên y tế giải cứu. Người viết cũng tham gia đội ngũ y tế. Một người bị trúng độc nghiêm trọng, t́nh trạng khó thở tệ hại, đau ngực, nhiều đàm, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch huyền, người viết dùng thang Tiểu sài hồ gia thang Tiểu hăm hung, Sài Hăm hợp phương, sau khi uống hiệu quả vô cùng kiến hiệu.
Đương nhiên, biện chứng luận trị cũng có những thiếu sót nhất định, nhiều lư thuyết c̣n khá thô thiển, và mức độ kết hợp với những thành tựu khoa học c̣n rất thấp, chúng ta nên chú ư cải thiện những thiếu sót nêu trên. Tư tưởng biện chứng luận trị của Trung y được xây dựng trên vật chất. Đối với cơ thể con người mà nói, chính là phản ảnh sinh bệnh lư của tạng phủ kinh lạc, v́ thế biện chứng luận trị không thể tách rời biến hoá vật chất của tạng phủ kinh lạc. Tôi không đồng ư bỏ qua sáu nhóm hội chứng ngoài các tạng phủ kinh lạc, do đó không có cơ sở vật chất và biện chứng không có sức sống,cũng có thể nói rằng nó không thể phản ánh khách quan. Thí dụ như, nói về kinh mạch, đầu gáy cứng đau là Thái dương kinh bị bệnh; Sắc mặt đỏ ửng, đau trán, khô mũi, là kinh Dương Minh thụ tà. Ngực cạnh sườn trướng đầy, đắng miệng là kinh Thiếu dương thụ bệnh; Đầy bụng là bệnh tà ở kinh Thái âm, đau họng là bệnh ở Thiếu âm; Đau ở đỉnh đầu, ẩu thổ đàm dăi là kinh Quyết âm thụ bệnh. Đó là quy luật khách quan của kinh chứng. Chúng ta khi ứng dụng biện chứng lục kinh nên căn cứ theo kinh để nhận chứng, vận dụng tài năng căn cứ theo chứng để luận trị.
Phàm khi phát bệnh, không ngoài hai phương diện âm dương. Một phương diện là căn cứ theo kinh để nhận chứng, căn cứ theo chứng để luận trị. Một phương diện khác, là cần phải nhận thức vấn đề của âm dương chuyển hoá. Đương nhiên, những biến hoá chính là phải có điều kiện. Người xưa tổng kết là: Thực làThái dương, hư là Thiếu âm, thực là Dương minh, hư làThái âm, đă xét được năng lực kháng bệnh tà mạnh yếu của chính khí. Nếu như chính khí hư suy, thường thường do dương chuyển âm; Nếu chính khí khôi phục, sẽ do âm xuất dương.
Tinh thần biện chứng luận trị của {Thương hàn luận}
Trương Trọng Cảnh viết trong lời nói đầu của {Thương hàn luận}: :“人原五常,以有五脏,经络府會,阴阳会通,玄冥幽 微, 变化难极”(Nhân nguyên ngũ thường, dĩ hữu ngũ tạng, kinh lạc phủ hội, âm dương hội thông, huyền minh u vi, biến hoá nan cực)Nhân bẩm thụ ngũ thường, mà có ngũ tạng, kinh lạc hài hoà, âm dương thấu suốt, tăm tối tinh vi, biến hoá khó khăn, đó chính nói về biến hoá, là vận động, là bộ máy chuyển hoá của âm dương, những vấn đề này và vận động của vật chất là không thể tách rời. Đồng thời, cấu trúc văn chương của {Thương hàn luận} cũng dựa trên tư tưởng của phép biện chứng.
Thí dụ như, điều trên nói về nhiệt chứng, thực chứng, điều dưới nói về hàn chứng, hư chứng, để độc giả tự ḿnh xem xét so sánh. Lại như, Tiểu sài hồ thang chứng phát bệnh thường bên trên nối với lồng ngực, bên dưới nối với bụng nhỏ, và Đào hạch thừa khí thang chứng của bụng dưới cấp kết nối cùng một chỗ, khi biện chứng nên tránh lầm lẫn. C̣n rất nhiều đoạn văn giống như vậy, chính là chỉ cần chú ư là có thể sắp xếp an bài. V́ thế, cá nhân tôi không đồng ư đảo lộn thứ tự của các câu trong {Thương hàn luận}, tuy thuận tiện dễ dàng hơn trong việc học, nhưng mất đi phần nào tư tưởng của phép biện chứng. Ngoài ra, {Thương hàn luận} c̣n sử dụng tính chất khác nhau của hai chứng trạng để trị liệu phân biệt bệnh, cũng có rất nhiều khả năng dẫn dắt tư tưởng biện chứng pháp của mọi người. Thí dụ, chứng tự lợi (đi tả) mà khát, thuộc Thiếu âm; Tự lợi (đi tả) mà không khát, thuộc Thái âm, đều là tự lợi, nếu khát th́ thuộc Thiếu âm, không khát sẽ thuộc Thái âm, điều này sẽ phân biệt hạ tiêu thận dương hư đi tả và trung tiêu tỳ dương hư đi tả. Lại như, bàng quang phủ chứng phân thành súc (tích ứ) huyết và súc(tích ứ) thuỷ, tiểu tiện thuận lợi là chứng súc huyết, tiểu tiện không tiện lợi là súc thuỷ, như vậy để chẩn đoán phân biệt, đă có những cách phân định rơ ràng như vừa nêu, giúp chúng ta tăng cường tính quyết đoán trong biện chứng luận trị.
Thái dương bệnh chứng tính trị thượng
[Khái thuyết]
Hiện tại chúng ta đang nói về Thái dương bệnh thiên thượng------ 《Biện Thái dương mạch chứng và trị liệu phần thượng thứ 5》. Ở bài giảng trước, trước tiên là giới thiệu tổng nội dung để mọi người có nhận thức tổng thể. Thái dương bệnh chính là giai đoạn bắt đầu của bệnh ngoại cảm, vị trí đấu tranh giữa chính và tà (năng lực kháng bệnh và bệnh) ở tại thể biểu. Thể biểu là ǵ? Đó chính là da lông, thớ thịt, cơ nhục, tất cả những ǵ vừa kể gọi là biểu. Tà khí khách (khách là tồn tại ngoài ư thức) vào thể biểu, chính khí đề kháng bệnh tà cũng ở thể biểu, v́ thế thường gọi là biểu chứng. Chủ quản phạm vi thể biểu là kinh Thái dương. Thái dương có kinh, có phủ của nó. Kinh chính là Túc Thái dương kinh, phủ chính là bàng quang. Đây là một kinh dương đứng đầu các kinh dương, quan hệ biểu lư với Túc thiếu âm thận. Khí Thái dương bảo vệ bên ngoài nên vững chắc kiên cố, v́ thế khi bệnh tà khách vào thể biểu trước tiên là gây tổn thương cho kinh Thái dương.
Ngoài ra, nói như khí của Thái dương là phủ khí của bàng quang, có tác dụng khí hoá tân dịch, v́ bàng quang được ví như quan Châu đô, có nhiệm vụ trữ tàng tân dịch. Kinh và phủ có liên hệ hỗ tương, hỗ tương cấu thông (khai thông, nối liền). Sinh lư của Thái dương phân thành kinh và phủ, v́ thế khi phát bệnh có hai loại t́nh huống, một gọi là kinh chứng, một gọi là phủ chứng.
Kinh chứng chính là bệnh tà ở thể biểu phát sinh một số bệnh biến; Phủ chứng chính là bệnh tà ở Thái dương không giải, theo kinh nhập vào phủ (phế?), khiến bàng quang khí hoá không thuận lợi mà phát sinh bệnh biến. Kinh chứng là Thái dương biểu chứng (chứng bên ngoài), phủ chứng là Thái dương lư chứng (chứng bên trong); Kinh, bàng (quang) liên hệ với nhau, v́ thế bệnh tà của kinh Thái dương đi vào trong sẽ có khả năng truyền đến phủ của Thái dương.
Nếu dương khí của kinh Thái dương đă hư, bệnh tà có thể truyền vào đến Thiếu âm, v́ Thiếu âm và Thái dương có quan hệ biểu lư, hai kinh này hỗ tương chi viện, hỗ tương cấu thông (khai thông, nối liền)
Chính v́ hai kinh Thái dương và Thiếu âm có quan hệ, v́ thế trong quá tŕnh phát bệnh có hai loại t́nh huống, một loại t́nh huống chính là Thái dương và Thiếu âm đồng thời bị bệnh, trường hợp này gọi là lưỡng cảm, đúng là âm dương lưỡng cảm. Âm dương lưỡng cảm ở đây có những điểm khác biệt nhỏ với lưỡng cảm ở Nội kinh. Lưỡng cảm ở Nội kinh đều là nhiệt thịnh, lưỡng cảm của {Thương hàn luận} thường thường là dương khí hư. Loại t́nh huống thứ hai, Thái dương là pḥng tuyến bảo vệ đầu tiên của cơ thể con người, là tầng đề kháng ngoại tà ở ngoài cùng, nếu như Thái dương khí suy, tà khí có thể vượt qua để vào Thiếu âm. Thêm hai chữ phi độ là để nhấn mạnh ư nhanh chóng. Từ Thái dương đến Thiếu âm, ở giữa cách 3 kinh: Dương minh, Thiếu dương và Thái âm, loại phép nhanh này gọi là phi độ, khi lâm sàng cần phải t́m hiểu ngọn nguồn của bệnh, có thiếu âm bệnh bên trong Thái dương kinh. Đó chính là quan hệ giữa Thái dương và Thiếu âm.
Hiện tại chúng ta nói đến thuyết kinh chứng của Thái dương, kinh chứng của Thái dương bệnh chính là,
“Thái dương chi vị bệnh, mạch phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn” (Thái dương bị bệnh, mạch phù, đầu gáy cứng đau mà ghét lạnh ) , đây không chỉ là hội chứng chung của mọi Thái dương biểu chứng, mà c̣n là cương lĩnh chung của biểu chứng, bao gồm trúng phong, thương hàn, cũng bao gồm biểu chứng tổng cương của các loại ngoại cảm khác. Ở phía dưới tổng cương lại phân thành 2 điều, một là Thái dương trúng phong, hai là Thái dương thương hàn, ngoài hai loại này, lại nói đến một loại nữa là Thái dương ôn bệnh. Thái dương bệnh, phát sốt và khát, không sợ lạnh, là bệnh ôn. Nếu đă phát hăn, thân thể nóng rát, có tên là phong ôn, đề xuất khái niệm phong ôn, bệnh ôn. Thái dương trúng phong dùng thang Quế chi, Thái dương thương hàn dùng thang Ma hoàng. Thái dương thiên thượng chủ yếu giảng về thang Quế chi, thiên trung giảng về thang Ma hoàng, thang Cát căn. Đối với phong ôn, bệnh ôn, đề cập đến hội chứng, nhưng không đưa ra phương pháp trị liệu, từ đó về sau cũng không tŕnh bày thêm về các bệnh này. V́ thế, chứng trúng phong, thương hàn của Thái dương bệnh là nội dung trọng điểm của Thương hàn luận. Ôn bệnh, phong ôn là những loại chứng nói về cách truyền biến, không nói về trị liệu và tiên lượng bệnh. Cho nên với đề xuất loại chứng chính là nhấn mạnh cần phân biệt chẩn đoán bên trong biểu chứng c̣n có ôn bệnh, c̣n có phong ôn, là cùng một loại bệnh với trúng phong, thương hàn, nhưng không thể dùng thang Quế chi, thang Ma hoàng. Nếu dùng sai, sẽ phát sinh ngộ trị (điều trị nhầm). Kế cận cũng đề xuất hai vấn đề. Một là chứng tích nước ở khí phận. Tà khí chuyển đến hạ tiêu, ảnh hưởng khí phận, bàng quang khí hoá bất lợi, sẽ xuất hiện tiểu tiện bất lợi, gọi là chứng súc thuỷ (tích, ứ nước), Hai là chứng súc (tích ứ ) huyết ở huyết phận. Tà ở biểu nhập vào trong (lư) hoá nhiệt, nhiệt ứ huyết kết, đây gọi là chứng súc huyết, cũng gọi là chứng nhiệt kết bàng quang. Một số nhà chú thích hậu thế cho rằng, tích trữ nước trong bàng quang là dễ hiểu, tích trữ huyết trong bàng quang là khó hiểu. Xét theo hội chứng, bụng dưới cấp bách, người bệnh như cuồng, huyết tự xuống, huyết hạ xuống th́ khỏi bệnh, khi chẩn đoán phân biệt c̣n đề xuất tiểu tiện thuận lợi, huyết là đạo lư (lư lẽ), đă không phải tại bàng quang, nhiệt và huyết rốt cuộc bị ứ trệ ở đâu? Có rất nhiều ư kiến, đời nhà Thanh có y học gia tên Thư Tŕ Viễn, ông ta cho rằng súc thuỷ chính là tích ứ ở Túc Thái dương bàng quang, súc huyết chính là tích ứ ở Thủ Thái dương Tiểu trường (Thương hàn tập chú). Ông đưa ra lư do khá đầy đủ, trên lâm sàng bệnh nhân súc huyết c̣n bài xuất một lượng phân đen như sơn, đồng thời v́ Tiểu tràng và tâm là biểu lư, tâm chủ thần chí, cho nên phát cuồng, như cuồng. Ư kiến này có đạo lư nhất định, v́ thế có nhiều đại gia đồng thuận với ư kiến của Thư Tŕ Viễn. Nhưng có điều là vấn đề này vẫn c̣n nhiều tranh luận. Nhiệt tà nhập khi vào trong cơ thể dễ ngưng kết với những vật chất như nước, máu, đàm, thực phẩm v.v… Ngưng tụ lại biến thành nhân tố gây bệnh, phát sinh một loạt hội chứng. Ngoại trừ kinh chứng, phủ chứng, Thái dương bệnh c̣n có một số biến hoá. Một biến hoá là Thái dương biểu tà truyền vào lồng ngực. Ngực là thượng khí hải, là nơi của tâm phế, tâm phế là những tạng khí ban bố doanh vệ (bảo vệ và nuôi dưỡng), v́ thế khí doanh vệ của Thái dương thụ tà, liền truyền vào lồng ngực. Trương Trọng Cảnh Tiên sinh phân bệnh này thành hai loại: Loại thứ nhất là chứng hư phiền. Tà nhiệt đến lồng ngực, người bệnh liền phát phiền, nhưng chỉ có nóng nhiệt mà không có tính thực chất, vật chất, th́ gọi là chứng hư phiền. Gọi là hư chính là nói đến tà nhiệt không kết hợp với thuỷ, đàm, chỉ là tà nhiệt phát triển ngấm ngầm mà thôi, v́ thế gọi là chứng hư phiền, đó cũng chí là Chi tử thị thang chứng. Loại thứ hai là chứng kết hung của nhiệt kết hợp với thuỷ, có nhiều nguyên nhân bệnh, có kế phát, có nguyên phát, có ngộ hạ (hạ nhầm). Sau khi tà nhiệt đến lồng ngực, kết hợp hỗ tương với một loại thuỷ dịch, gọi là kết hợp giữa nhiệt và thuỷ. Phạm vi của nó có thể phân thành thượng, trung và hạ, thời điểm đầu tiên đến lồng ngực, v́ thế phương chứng chính là Đại hăm hung hoàn chứng; Sau đó chính là ngạnh măn ở tâm hạ (dưới tâm đầy cứng), hoặc từ tâm hạ đến bụng dưới đầy cứng và đau không thể cận kề, nên dùng thang Đại hăm hung để trị liệu, hai loại phương chứng này gọi là chứng kết hung, rất giống với chứng viêm màng ngực, viêm màng bụng ngực hiện nay. Sau chứng kết hung là giảng đến tâm hạ bĩ, có 5 chứng tâm hạ bĩ (bế tắc ở dưới tim (dạ dày)). V́ sao lại xuất hiện chứng tâm hạ bĩ tắc? V́ sử dụng sai các trị pháp hăn, thổ, hạ, gây tổn thương khí của tỳ vị, ảnh hưởng đến công năng thăng giáng của tỳ vị, sẽ làm cho đàm thuỷ lưu lại, phát sinh bế tắc dưới tâm, có thể sử dụng thang Đại hoàng Hoàng liên tả tâm, thang Phụ tử tả tâm, thang Bán hạ tả tâm, thang Sinh khương tả tâm, thang Cam thảo tả tâm để trị bệnh. Sau đó sẽ giảng về biến chứng. Khi điều trị nhầm (ngộ trị), sẽ phát sinh hư thực, hàn nhiệt, các loại biến hoá của ngũ tạng lục phủ. Các biến chứng này rất nhiều, nội dung trị pháp cũng rất phong phú, bổ sung được những thiếu sót của biện chứng lục kinh. Đối với biến chứng Trương Trọng Cảnh tiên sinh chỉ ra những nguyên tắc cụ thể, như xem xét mạch chứng, biết chỗ sai nghịch, tuỳ theo chứng mà trị; Ngoài ra c̣n nhắc nhở chúng ta một điều, đó là, phàm bị bệnh, là thổ, là hạ, là phát hăn, mất máu, mất nước, nếu âm dương tự hoà (công năng tự thân điều tiết giữ âm dương thăng bằng) tất bệnh sẽ tự khỏi. Bản chất của bệnh tật là âm dương bất hoà. Vậy phải làm ǵ để hoà hợp âm dương? Không ngoài hai phương diện sau, một là bồi dưỡng các điều kiện để hoà hợp âm dương, nếu như không thể th́ buộc phải dùng thuốc để hỗ trợ.
Trong các phương pháp trị liệu, chủ yếu nói về hăn pháp (phép xuất mồ hôi), nhắm vào chứng của kinh biểu (kinh mạch ở phần ngoài) chính là phép phát hăn, dùng các phương thang như thang Ma hoàng, thang Quế chi, thang Đại thanh long, Tiểu thanh long, thang Cát căn. Đối với phủ chứng, một phép là thông dương hành thuỷ, dùng Ngũ linh tán để trị liệu; Một phép nữa là phá huyết trục ứ, dùng Đào hạch thừa khí thang, Để đương thang, Để đương hoàn là những phương công trục, Đối với hai chứng cảm Thái dương và Thiếu âm, dùng phép ôn kinh giải biểu; Đă h́nh thành chứng Thiếu âm hư hàn, sẽ dùng phép cấp ôn (làm ấm nhanh), với thang Tứ nghịch để trị liệu. Đến như ngộ trị mà phát sinh các loại biến chứng, hoại chứng, trị pháp có thể dùng hoặc ôn, hoặc thanh, hoặc tiêu, hoặc bổ hoặc tả căn cứ theo t́nh huống cụ thể mà lập pháp.
{Thương hàn luận} tổng cộng có 10 quyển 22 thiên, chúng ta cần học ǵ tiếp theo, biện bệnh mạch chứng biện trị pháp kinh Thái dương phần thượng thứ 5. Biện chính là quy nạp tổng hợp, tŕnh bày sự khác biệt và phân tích. Cần phân biệt rơ Thái dương bệnh, cần thông qua mạch và chứng. Địa vị của Mạch có một vị trí trọng yếu trong Trung y biện chứng, không thể coi thường; Chứng là hội chứng của một bệnh, mỗi bệnh đều có hội chứng khách quan của nó. Có được mạch và chứng là có thể thiết lập nguyên tắc và phương pháp trị liệu tương ứng. Chúng ta sẽ học tập nguyên văn ở phần sau.
01 太阳之为病,脉浮, 头项强痛而恶寒。C1
Điều 1/ Thái dương chi vi bệnh, mạch phù, đầu hạng cường thống nhi ố hàn, C1
(Bệnh ở kinh Thái dương, mạch phù, đầu gáy cứng đau mà ghét lạnh)
Điều này là đề cương của Thái dương bệnh, cũng là cương lĩnh tổng quát của biểu bệnh. Kinh Thái dương bị bệnh, xét từ đề pháp (pp nh́n và hiểu về một vấn đề nào đó) đă phản ảnh Trương Trọng Cảnh phân chứng lục kinh chính là căn cứ vào tạng phủ kinh lạc, không chỉ vỏn vẹn là một tên bệnh. Có Thái dương rồi mới có “Thái dương chi vi bệnh” V́ thế, trước tiên nên giải thích Thái dương là ǵ?, cái ǵ gọi là Thái dương bệnh, cái ǵ là mạch chứng của Thái dương, đặc điểm mạch chứng phản ảnh cái ǵ.
Thái dương, chính là kinh Thái dương, túc thái dương bàng quang kinh. Túc thái dương bàng quang kinh và Túc Thái dương bàng quang phủ nối liền với nhau, phủ Thái dương ở hạ tiêu, nhưng khí của nó thông qua kinh Thái dương đi ra ngoài ở thể biểu, làm ấm áp da thịt, kháng ngự ngoại tà, bảo vệ thể biểu (phần bên ngoài của cơ thể). V́ công năng sinh lư như vậy, do đó được gọi là vệ khí (khí bảo vệ). Không cần tách rời vệ khí và khí của Thái dương. Vệ khí chính là khái niệm đặc sắc của Trung y, y gia cổ đại rất trọng thị đối với doanh khí, vệ khí.
Vệ khí vận hành trên cơ thể có một quy luật, ngày và đêm đều cùng một chỗ, vệ khí vận hành trên cơ thể 50 ṿng, tức là 50 ṿng tṛn. Trong 50 ṿng này, vệ khí ban ngày đi vào dương 25 ṿng, ban đêm đi vào âm 25 ṿng, sau đó là trời sáng, “B́nh nhật” (thường ngày) trời rạng sáng, con người thức giấc, hai mắt mở ra, v́ thế nên nói rằng, mở mắt ra là dương, nhắm mắt lại là âm. Dương khí hoạt động, vệ khí đi lên đỉnh đầu, theo gáy xuống thái dương, chính là khí ở thời điểm này giao nhau ở kinh Thái dương. Thời điểm này từ âm chuyển sang dương, vệ khí đi ở dương đạo, sẽ bắt đầu từ Túc Thái dương. Nội dung này đều có trong 《Nội kinh》 và 《Nan kinh》mọi người có thể xem lại. Tại sao lại nói về kinh mạch nội tạng? Tại sao lại nói về khí huyết và dịch của cơ thể? Đó chính là sự vận động sinh lư của một số vật chất trên cơ thể, bỏ qua những điều này th́ không c̣n Trung y. Khí Thái dương chính là Vệ khí. Khí của Thái dương đứng đầu lục kinh quản lư doanh vệ, ấm áp cơ nhục, thớ thịt, chủ đóng mở, bảo vệ vững chắc bên ngoài, trên thực tế không thể tách rời khí của Vệ dương.
V́ khí của Thái dương có những tác dụng trọng yếu như vậy, v́ thế gọi là Cự dương hoặc Thái dương, thái là to lớn, Thái dương là một dương khí to lớn. Dương khí của thể biểu toàn thân đều chịu sự quản lư của khí Thái dương.
Liên quan đến vấn đề Thái dương chủ biểu. 《Linh khu ▪Doanh Vệ sinh hội》 viết: “太阴主内,太阳主外。”(Thái dương chủ ngoại, Thái âm chủ nội) Thái âm làm chủ bên trong, Thái dương làm chủ bên ngoài, bên ngoài là biểu. 《Linh khu kinh ▪ Bản tạng》 viết: Thận hợp tam tiêu, bàng quang. Tam tiêu, bàng quang đáp ứng từ chân tơ kẽ tóc. Thận là căn bản của âm dương, v́ thế bệnh là do âm dương bất hoà, cuối cùng tất sẽ ảnh hưởng đến thận. Thận hợp với Tam tiêu, lại hợp với bàng quang. Bàng quang gọi là Thuỷ phủ, ;“三焦者,水谷之道路,气之所终始也”(Tam tiêu giả, thuỷ cốc chi đạo lộ, khí chi sở chung thuỷ dă) Tam tiêu là đường giao thông của thuỷ cốc, là nơi bắt đầu và cuối cùng của khí, Tam tiêu lại được gọi là đường giao thông của Thuỷ.
Khí tam tiêu làm ấm áp da thịt, v́ thế dương khí của thận thông qua tam tiêu và bàng quang mà ứng với mọi nơi thấu lư (thớ thịt) nhỏ nhất trên cơ thể, lại nói dương khí toàn cơ thể chính là khí của thận dương thu phát thông qua bàng quang và Tam tiêu. Ứng chính là ngoại ứng, ngoại ứng vào khe thớ thịt nhỏ nhất, có ư là khí và thuỷ gốc trong mà ứng ra ngoài. V́ bàng quang, tam tiêu đều có tân dịch, cho nên nói khí đến mọi nơi mọi chỗ th́ không thể đơn thuần là khí mà bên trong c̣n có nước, Ngoại cảm phong hàn một khi làm cho dương khí bế tắc, có nghĩa là thuỷ dịch trong tấu lư hào mao (thớ thịt nhỏ nhất) cũng bị bế tắc dừng lại, v́ thế cần phát hăn để trừ phong hàn. Một y học gia Nhật bản cho rằng thang Ma hoàng có tác dụng phát hăn chính là giải thuỷ độc.
Con người là một chỉnh thể, công năng tạng phủ chính là hỗ tương hiệp trợ. Linh khu Bản thâu viết: Thiếu dương thuộc thận, thận nối lên trên với phế, nên nuôi hai tạng, cũng chính là thận đi lên thuộc về phế, hợp bàng quang, trên dưới nối liền, thông nhau ở tam tiêu, nên nuôi hai tạng, v́ thế nên nói Thái dương chủ biểu và Thiếu âm dương khí chi viện chính là không thể tách rời. V́ sao Thái dương cần biểu lư với Thiếu âm? Không đạt đến âm dương biểu lư, Thái dương chủ biểu sẽ rất khó khăn, nó không có lực lượng lớn mạnh, chỉ dựa vào Thiếu âm thận khí, là khí nguyên dương tiên thiên, giống như một dạng khí Đại dương.
Ngoài ra, chúng ta xem lại những vấn đề liên quan đến khí trong 《Linh khu ▪ Quyết khí》.
Khí là ǵ? Thượng tiêu rộng mở, khơi ḍng vị ngũ cốc, nuôi dưỡng da thịt thân thể lông tóc, nếu như sương mưa móc th́ gọi là khí, chúng ta đă giới thiệu qua, khí Thái dương cần thông qua tam tiêu, được chi viện từ tạng thận, có khả năng làm chủ thể biểu. Nhưng nếu chỉ có thận khí tiên thiên, không có khí hậu thiên thuỷ cốc, khí của hô hấp cũng chính là không được. 《Linh khu kinh▪ Quyết khí》 chỉ xuất: Thượng tiêu mở ra, khai thông vị ngũ cốc, con người chỉ hô hấp dương khí của trời, dương khí của trời và thuỷ cốc kết hợp ở cùng một nơi, biến thành năng lượng, nuôi dưỡng thân thể, da thịt lông tóc, nếu tưới tắm như sương, gọi là khí. V́ thế , Thái dương làm cho da thịt ấm áp, khiến thấu lư tốt tươi (thấu lư= giữa thớ thịt và da), coi về đóng mở, dương khí kiên cố bảo vệ bên ngoài, đă bao hàm tiên thiên thận khí, cũng bao gồm khí của thuỷ cốc, khí của hô hấp.
Dựa theo lư thuyết ở phần trên, có thiên khí là có khí hô hấp, có địa khí là có khí của thuỷ cốc, có nhân khí là khí tiên thiên bẩm phú ở thận khí, đó là ba khí Thiên, địa, nhân hợp lại có tác dụng hiệp đồng. V́ thế, nếu không có Phế tuyên phát (tuyên phát=Dọn đường phát tán), vị tư dưỡng (bồi dưỡng) th́ Thái dương không có nguồn gốc và không thể tiếp tục, sẽ không thể phát huy tác dụng. V́ sao trong biểu chứng của Thái dương bệnh lại có suyễn? V́ trong khí Thái dương có bao gồm phế khí, tà khí ảnh hưởng đến công năng tuyên giáng của phế khí, dẫn đến Phế khí không thuận lợi. V́ sao trong Thái dương bệnh lại có oẹ khan, ẩu nghịch? V́ trong khí Thái dương có vị khí, tà khí ảnh hưởng đến công năng thông giáng của vị khí, làm cho vị khí không thuận lợi. V́ sao trong Thái dương bệnh lại phát sốt mà mạch lại trầm? V́ khí Thái dương có hàm chứa thiếu âm thận khí. Như vậy, chúng cần có một quan niệm chỉnh thể, cơ thể trên phương diện công năng sinh lư chính là có liên hệ. Thái dương chủ biểu và Phế chủ b́ mao (da lông), tam tiêu làm ấm da thịt tất cả đều như nhau, đừng xem chúng là riêng biệt và không tương quan.
Chúng ta lại nói về vấn đề kinh Thái dương. Căn cứ lư luận Trung y, kinh lạc trên cơ thể là tồn tại khách quan, các nhà châm cứu chính là theo kinh để t́m huyệt, châm vào những huyệt này để trị bệnh của kinh mang huyệt đó. Người viết trước đây ở nông trường Hán Cổ (47 phân tràng) triển khai giáo dục cách mạng, ngày ngày đến các gia đ́nh bần hạ trung nông để khám bệnh, có một bé gái họ Trần 14 tuổi, sốt cao. Người viết thời điểm đó không mang theo thuốc, đă phỏng theo phương pháp Thương hàn, châm các huyệt Phong tŕ, Phong phủ, c̣n có thêm Đại chuy, Khúc tŕ. Đúng là ngoài cả ngoài ư liệu của người viết, sau khi châm xong Năo môn xuất hăn, và bn hạ sốt. Làm sao có thể nói Thái dương chủ biểu với kinh không có quan hệ? Theo Trương Trọng Cảnh châm huyệt Đại chuy ở khe thứ nhất, Phế du, Can du, Kỳ môn đều là có đạo lư, chính là nói về tạng phủ kinh lạc. Kinh Thái dương là kinh dương đứng đầu các kinh dương, Thiếu dương và Dương minh đều không bằng. V́ kinh Thái dương đi theo dương đạo, phía trước của cơ thể là âm, phía sau là dương, mà kinh Thái dương đi ở sau lưng. Túc thái dương bàng quang bắt đầu từ trong khoé mắt, đi lên trán, giao nhau ở đỉnh đầu, từ đỉnh đầu đi vào năo, đi ra phía dưới gáy, đi ra phía trong vai, theo lưng xuống eo, vào xương sống, nối thận thuộc bàng quang. Không chỉ xuống sau lưng, mà c̣n là một kinh dài nhất, huyệt đạo cũng nhiều nhất. Ngoài ra, kinh Thái dương và Đốc mạch đi song song, Đốc mạch là tổng chỉ huy của các kinh dương. V́ thế, chỉ có kinh Thái dương đảm nhiệm thông hành dương khí, có tác dụng chủ biểu. Đồng thời, bàng quang lại chính là thuỷ của phổi, thuỷ có thể hoá khí, khí có thể hành thuỷ, do đó có nhiểu khả năng chủ biểu. Kinh Thái dương có phải là một kinh có nhiều vấn đề? Hiện nay có một số người căn cứ học thuyết kinh lạc trong Thương hàn luận kiên tŕ đưa ra ư kiến phản đối, họ nói rằng: Làm thế nào điều này có thể đúng? Thái dương bệnh là bệnh ở một ḍng sao? Trên thực tế, tuyến đó là xương sống của nó, giống như đường trục của tuyến đường chính. Đường lớn là kinh, đường nhỏ là lạc, trong lạc c̣n có tôn lạc, như mạng lưới trên toàn thân! V́ thế, Thái dương phân ra làm 3, gọi là Thái dương thể, Thái dương kinh và Thái dương phủ. Thái dương thể chính là Thái dương chủ biểu, bề mặt đều là Thái dương; Thái dương kinh chính là nói về kinh mạch, đầu gáy cứng đau chính là kinh mạch không thuận lợi, Thái dương phủ chính là vấn đề công năng khí hoá của bàng quang, Thái dương thể, Thái dương kinh, Thái dương phủ, tóm lại gọi chung là Thái dương. Từ những giải thích của các nhà chú giải, có lúc đề cập đến Thái dương phủ, có lúc là Thái dương kinh, trên thực tế đó là một thể hoàn chỉnh. Y tôn kim giám để cho Thương hàn luận dễ hiểu hơn, đề xuất các khái niệm như thể của Thái dương, kinh của Thái dương, phủ của Thái dương. Chính v́ có phủ của Thái dương nên kinh tà (tà khí ở kinh) có thể truyền đến phủ, v́ kinh phủ tương liên (liên quan với nhau), như gốc và cành, chính là một chỉnh thể.
V́ Thái dương chủ biểu, nên khi tà khí bên ngoài khách vào thể biểu đều bắt đầu từ Thái dương. Chính khí đề kháng tà khí ở thể biểu, nên vị trí bệnh tại thể biểu. Chứng trạng thứ nhất của biểu chứng chính là mạch phù. Sự sắp đặt các chứng trạng: Đầu gáy cứng đau, sợ lạnh, mạch phù, mạch phù được xếp ở vị trí thứ nhất, cho thấy tính chất quan trọng của nó. Mạch phù là ǵ? V́ chính khí kháng bệnh tà ở biểu, doanh vệ khí huyết đều hướng ra ngoài v́ thế nên mạch phù. Chữ Phù có nhiều ư nghĩa. Thứ nhất, là nói theo h́nh tượng mạch. Mạch phù như cây gỗ nổi trên mặt nước, mạch phù chỉ ở trên thịt. Thứ hai, nói theo bệnh lư. Mạch phù là ǵ? Phản ảnh ở đây là Thái dương biểu chứng. Do tà khí mới khách vào thể biểu, chính khí bắt đầu đề kháng, khí huyết hướng ra ngoài, v́ thế mạch phù. Cũng chính như chúng ta thường nhấn mạnh : Có một chút mạch phù là có một chút biểu chứng! Vô luận thời gian bệnh dài bao lâu, chỉ cần c̣n mạch phù, là phản ảnh của khí huyết đang hướng ra ngoài, cũng là hàm ư tà khí tại biểu chưa được giải, mạch phù là bệnh ở dương biểu, không thể dùng các loại thuốc hạ như thang Thừa khí để hạ được.
Làm sao để phán đoán mạch phù? Phép thiết mạch gồm các phép: Cử, án và tầm. Các lớp của cơ thể từ ngoài vào trong phân thành 5 lớp gồm da, thịt, mạch, gân, xương, gọi là ngũ thể. Đặt nhẹ tay gọi là phép Cử, cũng chính là nhẹ tay (phù) mà thấy mạch, lại ấn tay xuống đến thịt, ấn xuống đến gân, ấn xuống đến xương, gọi chung là cử, án, tầm (nhẹ tay, ấn xuống, t́m). Nên dùng phép cử, v́ mạch cần có sự chính xác, viết phù trung trầm (ở trên, ở giữa, ở dưới), là t́m đầy đủ trên dưới, truy t́m trái phải, và cần phải làm đúng theo quy củ.
Chứng thứ hai của biểu chứng chính là chủ chứng. Một là đầu thống hạng cường (đau đầu cứng gáy) là hai hội chứng liên hệ hữu cơ. Đầu là nơi hội tụ của chư dương, chính là các kinh dương đều hội tụ ở đầu, nhưng mỗi kinh lại có hướng riêng của nó, Dương minh ở vùng đầu trán, Thiếu dương ở góc đầu, Thái dương ở đỉnh đầu, đầu là vị trí của 3 kinh dương thông nhau, mà đỉnh đầu là vị trí riêng của Thái dương. Tuy vậy bệnh ở ba kinh dương đều có thể xuất hiện đau đầu, nhưng chứng trạng đau đầu cứng gáy là chứng trạng của riêng kinh Thái dương, đó chính là tính đặc thù. Sao gọi là hạng cường (cứng gáy), chính là kinh mạch Thái dương không thuận lợi. V́ kinh mạch có tác dụng khai thông, v́ thế gọi là kinh thâu (vận chuyển).【 Linh khu kinh▪ Bản tạng】 có các câu: 经脉者,所以行血气而营阴阳,濡筋骨,利关节者也。”(Kinh mạch giả, sở dĩ hành huyết khí nhi doanh âm dương, nhu cân cốt, lợi quan tiết giả dă) Kinh mạch sở dĩ hành huyết khí mà quản lư âm dương, thấm tưới lên gân xương, ích lợi cho xương khớp. Kinh mạch chính là lưu thông khí huyết, tưới thấm gân xương ích lợi cho các khớp xương, với lưu thông là thích hợp. V́ Thái dương biểu thụ bệnh tà, tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến kinh của nó. V́ thế nên Thái dương biểu chứng cũng gọi là Thái dương kinh chứng. Kinh Thái dương thụ tà, bộ vị phản ảnh chủ yếu chính là gáy, lại ảnh hưởng xuống lưng eo, kinh Thái dương vận chuyển không thuận lợi, phía sau gáy bị cứng nhẹ, cho dù hoạt động, hay nh́n xem chung quanh, cúi ngửa đầu đều kém tự nhiên, có cảm giác căng cứng. Có chú thích gia cho rằng, cường là cường trực, đó là sai rồi, như vậy đă trở thành bệnh kính.
Thứ hai là, mà sợ lạnh (nhi ố hàn), NHI là một từ liên kết trên dưới (thừa thượng khải hạ= Kế thừa) không chỉ làm cho hội chứng của phần trên liên tiếp ở cùng một nơi , mà c̣n có ư nhấn mạnh NHI Ố HÀN. Phàm khi do Trương Trọng Cảnh miêu tả, chữ NHI sau một số chứng trạng, như là, bất hăn xuất NHI phiền táo giả (Không xuất mồ hôi mà phiền táo), vô hăn NHI suyễn giả (Không có mồ hôi mà suyễn), đều có ư nghĩa trọng yếu nhất định.
V́ sao mà sợ lạnh? V́ tà khí gây tổn thương khí Thái dương, vệ khí không thể sưởi ấm cơ biểu như b́nh thường cho nên sợ lạnh.
Đề cương của biểu chứng trong {Thương hàn luận} không đề cập đến phát nhiệt, chỉ đề cập đến sợ lạnh.
Biểu chứng cũng phát nhiệt, v́ dương khí bị uất. Khí Thái dương bị tà khí gây tổn thương, dương khí cần đề kháng tà ở biểu, mở đóng không thuận lợi nên dương khí bế uất, mà có hội chứng phát nhiệt. Tại sao đề cương ở câu này của {Thương hàn luận} không đề cập đến phát nhiệt? Tà khí khi đả thương người đầu tiên là đả thương vệ dương, v́ thế cảm giác sợ lạnh nhất định sẽ xuất hiện. Nói theo cảm giác chứng trạng, sợ lạnh nhất định sẽ xuất hiện trước khi phát nhiệt. Sau khi biểu dương bị tổn thương, dương khí, doanh vệ, khí huyết trên cơ thể cần tích cực đề kháng ngoại tà ở thể biểu, sau khi phát sinh dương khí bị đè nén, sẽ xuất hiện phát sốt. Nhưng, lâm sàng cũng có chứng trạng sợ lạnh cùng lúc với chứng trạng phát sốt. Ngày xưa không có dụng cụ đo thân nhiệt, chỉ có thể căn cứ theo lời kể của bệnh nhân để ghi lại, v́ thế nhấn mạnh sợ lạnh. Do đó, biểu chứng trừ sợ lạnh ra, c̣n có chứng trạng phát nhiệt. Đó chính là đề cương của Thái dương bệnh, cũng chính là đề cương của biểu chứng. Sau này phàm đề cập đến Thái dương bệnh, bất luận là ở thiên Thái dương, hay ở các thiên, chương khác cũng vậy, nên có đầy đủ chủ mạch, chủ chứng của biểu chứng. Cũng chính là mạch phù, đau đầu, cứng gáy, sợ lạnh, phát sốt.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-11-23 16:38:36
Từ Điều 02 đến điều 06
02太阳病,发热,汗出,恶风,脉缓者,名为中风。C2
Điều 02 Nguyên văn : Thái dương bệnh, phát nhiệt, hăn xuất, ố phong, mạch hoăn giả, danh vi trúng phong. C2
Ở phần sau của tổng cương thái dương bệnh lại chia thành hai chứng, một là chứng Thái dương trúng phong, hai là chứng Thái dương thương hàn. Tổng cương là nói về cộng tính, trúng phong và thương hàn là nói về cá tính.
Trúng phong, miêu tả kế thừa câu 1, đă là “Thái dương bệnh”, mạch hoăn chính là mạch phù hoăn. Trúng phong chính là phong tà gây tổn thương cho Thái dương của biểu. Chữ “trúng” tương đương với chữ “thương” (tổn thương), và chữ “thương” của thương hàn cũng có ư tứ tương đồng. Bất quá, trúng phong nhẹ hơn một chút so với thương hàn. Phong là dương tà, sau khi gây tổn thương cho người có vị trí bệnh khá nông, chỉ ở vệ phận mà không vào tới doanh phận. Nguyên nhân là phong tà gây tổn thương cho khí của vệ dương, chính là dương tà gây tổn thương cho dương khí, là dương cùng với dương, v́ thế hội chứng phát sốt khá rơ rệt.
Vệ và Doanh trên phương diện sinh lư chính là hỗ tương hiệp điều, hỗ tương chi viện. Vệ đi ngoài mạch, doanh đi trong mạch, vệ thuộc dương mà doanh thuộc âm, vệ ở bên ngoài mà kiên cố, doanh ở bên trong mà pḥng thủ, cả hai có quan hệ hỗ tương chi viện. Phong tà khách ở vệ dương, tà khí của vệ sẽ mạnh mẽ, gọi là vệ cường. Nói từ góc độ chính khí, tà khí ở vệ mạnh mẽ, công năng bản thân bị ảnh hưởng, sẽ không có khả năng bảo hộ và củng cố nghiêm mật doanh âm. Nói theo góc độ tà khí, đặc điểm của phong tà là thiện hành số biến (phát bệnh nhanh, tính di động cao), có tác dụng khai tiết, bức bách khiến doanh âm không thể pḥng thủ, v́ vậy mà xuất mồ hôi. Phát sốt và xuất mồ hôi hai chứng trạng này chính là hỗ tương nối tiếp. Tà phong dương gây tổn thương cho khí của vệ dương, là dương gặp dương, v́ thế phát sốt khá nhanh, không giống như thương hàn là hàn tà bế uất (đè nén) khí của vệ dương, bế uất đến một mức độ sẽ phát sốt (uất hoá hoả). Do phát sốt, tà khí của phong, dương tà khai tiết (mở, tiết ra), cộng thêm vệ khí không kiên cố, v́ thế nên xuất mồ hôi. Căn cứ theo quan sát lâm sàng, trúng phong đổ mồ hôi không quá nhiều, giống như mồ hôi của chứng dương minh lư nhiệt, không thể so sánh với chứng nhiều mồ hôi (đại hăn), mồ hôi chỉ đến mức làm cho da bệnh nhân ẩm ướt. Làm một lâm sàng với thày thuốc, nếu gặp bệnh nhân cảm mạo phát sốt, nhất định tiến hành thiết chẩn, dùng tay mạc chẩn (sờ ) xem da bệnh nhân khô khan hay ẩm ướt. Nếu da bệnh nhân nóng và khô, đó là phát sốt không đổ mồ hôi; Nếu phát sốt mà da ẩm ướt có mồ hôi, là phát sốt và có mồ hôi. Phát sốt, có mồ hôi đều là đặc điểm của chứng trúng phong. Ố phong, chính là sợ gió, cũng bao gồm sợ lạnh.
Sợ gió của trúng phong nhẹ hơn so với sợ lạnh của thương hàn, chính là khi gặp gió th́ sợ, nếu như mặc nhiều quần áo, đắp chăn mền, thể biểu được bảo hộ, th́ cảm giác sợ gió có thể giảm. Thương hàn th́ không như vậy, tức là khi sử dụng các biện pháp như vừa nêu (mặc nhiều quần áo, đắp chăn mền), th́ cảm giác sợ gió, sợ lạnh vẫn không giảm. V́ sao lại sợ gió? Thứ nhất, bị tổn thương v́ phong tà, trúng phong sẽ sợ phong, thương hàn sẽ sợ lạnh; Thứ hai, bị tổn thương do phong tà, phong tà ở biểu, vệ khí bất lợi nên sợ gió. Mạch hoăn, chính là mạch đập khá chậm, không khẩn trương và không có lực, khác với mạch khẩn của thương hàn. V́ sao lại xuất hiện mạch hoăn? V́ xuất mồ hôi, doanh âm tiết ra ngoài. Nh́n chung, mạch phù phản ảnh bệnh tại Thái dương biểu, mạch hoăn là phản ảnh của doanh vệ bất hoà, doanh âm tiết ra ngoài. Người đời sau gọi loại bệnh này là chứng trúng phong biểu hư. Căn cứ các chứng trạng: Phát sốt, xuất mồ hôi, sợ gió, mạch hoăn, là có thể chẩn đoán là chứng trúng phong của Thái dương bệnh, gọi tắt là Thái dương trúng phong. Nó có hay không có đau đầu? có, v́ điều thứ nhất đă nói rồi. Quan sát lâm sàng cho thấy, Trương Trọng Cảnh rất khoa học trong việc sắp xếp hội chứng của các tiết. Phàm Thái dương bệnh trúng phong đều đầu tiên là phát sốt, khi phát sốt sẽ có mồ hôi, thân thể hơi ẩm ướt. Lúc này bệnh nhân có cảm giác nóng ẩm khó chịu, nên bỏ chăn mền, cởi bỏ bớt y phục, nhưng nếu gặp gió mát, lại xuất hiện cảm giác sợ gió.V́ có xuất mồ hôi, nên các y gia đời sau đem bệnh này giám định phân biệt với thương hàn, đem bệnh trúng phong gọi là chứng biểu hư của Thái dương bệnh. Hiện tại vẫn c̣n một số người suy nghĩ đơn giản, cho biểu hư chứng chính là Quế chi thang chứng, điều đó không đúng. Nó không đơn giản là biểu hư, không phải dùng Hoàng kỳ thực biểu cho tạp bệnh biểu hư, mà chính là do phong tà gây tổn thương, biểu hư chứng của Thái dương trúng phong xuất hăn, chú ư để không lẫn lộn khái niệm.
03太阳病,或已发热,或未发热,必恶寒,体痛,呕逆,脉阴阳俱紧者, 名曰伤 寒。C3
Điều 03 Thái dương bệnh, hoặc dĩ phát nhiệt hoặc vị phát nhiệt, tất ố hàn, thể thống, ẩu nghịch, mạch âm dương câu khẩn giả, danh viết Thương hàn. C3
Điều này nói về thương hàn của Thái dương bệnh. “Thái dương bệnh” c̣n là nối tiếp điều thứ nhất. Hoặc đă phát nhiệt, hoặc chưa phát nhiệt, chữ “hoặc” là từ chưa xác định; Tất ố hàn, chữ “tất” là định từ tất nhiên chắc chắn. Một từ là chưa định, một từ là đă xác định. “Thể thống”, chính là đau toàn thân; “Ẩu nghịch”, là ói khan nghiêm trọng, không phải là ẩu thổ. “Mạch âm dương câu khẩn”, âm dương đại biểu cho Thốn Quan Xích, Thốn là dương, Xích là âm, Quan sẽ khái quát ở trong, cũng chính là toàn thể bộ mạch bao quát Thốn Quan Xích đều phù mà khẩn.
Bệnh thương hàn này trên cơ sở Thái dương bệnh đề cương chứng lại xuất hiện chứng trạng sợ lạnh nhiều, v́ thế đề pháp không giống nhau. Thái dương bệnh trúng phong lấy phát nhiệt để ở trước mặt, mà thương hàn chính là “Tất ố hàn”, tất nhiên là sợ lạnh, lấy sợ lạnh để lên vị trí số 1. Đến như phát nhiệt, thương hàn đương nhiên cũng có phát nhiệt, nhưng hoặc đă phát nhiệt hoặc chưa phát nhiệt, chính là có hàm ư bất định.
Tại sao nhất thiết phải sợ lạnh? V́ hàn tà thuộc âm, rất tổn thương dương khí, khí của Vệ dương bị tổn thương, phần bảo vệ bên ngoài mất tác dụng bảo hộ, v́ thế chứng trạng sợ lạnh trở nên rất rơ rệt, trong sợ gió của trúng phong cũng bao gồm sợ lạnh, nhưng mức độ tương đối nhẹ, có thể hoăn giải, mà sợ lạnh của thương hàn th́ không thể hoăn giải, tức là làm cho nhiệt độ trong pḥng ấm áp, đắp chăn mền dày, mặc nhiều y phục, vẫn sợ lạnh như cũ. So sánh, vị trí bệnh của Thái dương thương hàn sâu hơn so với trúng phong, phong tà của Thái dương trúng phong chỉ gây tổn thương ở Vệ phận, phát triển ảnh hưởng đến doanh khí, dẫn đến doanh vệ bất hoà; Hàn tà của Thái dương thương hàn không chỉ gây tổn thương ở vệ phận, mà c̣n tổn thương đến doanh phận, nặng hơn so với Thái dương trúng phong, v́ thế cảm giác sợ lạnh cũng nặng.
V́ nguyên nhân là Thái dương thương hàn gây tổn thương cho cả Doanh và Vệ, cộng thêm hàn tính thu dẫn (thu liễm, khẩn bế), có khả năng khiến doanh vệ khí huyết ngưng trệ, cho nên thân thể bị đau, và chứng trạng đau khá rơ rệt.
Mạch âm dương đều khẩn, mạch thương hàn là mạch phù khẩn, phù chủ mạch của Thái dương. Khẩn chủ 3 loại bệnh, một là chủ hàn, thương hàn ứng với mạch này thấy mạch khẩn; Hai là chủ về đau đớn, thương hàn toàn thân đau đớn, bên dưới c̣n một điều, đau đầu, đau thân thể, đau eo lưng, đau xương khớp, càng chủ yếu là chứng đau, ứng với mạch khẩn; Ba là chủ thực, tà khí mạnh thuộc thực, thương hàn phù hợp với đặc điểm này, nên thấy mạch khẩn. Âm dương, chỉ mạch Thốn, mạch Xích, mạch Quan cũng tóm tắt ở trong đó. Mạch âm dương đều khẩn, mạch Thốn, Quan, Xích đều phải thấy mạch phù khẩn, thiếu một là không thể.
V́ thương hàn là chứng biểu thực, mạch của chúng có phản ứng là Phù Khẩn, điều này phù hợp với t́nh trạng của chứng biểu thực. Nếu như mạch Xích không khẩn, hoặc là mạch tŕ, hoặc là mạch nhược, hoặc là mạch vi, v́ mạch xích là hậu của lư (để đón xem bên trong), những mạch này đều phản ảnh t́nh trạng lư hư, có khả năng chính là doanh khí, khí huyết hoặc thận khí hư suy. Tuy nhiên nếu là thương hàn, như quả xích mạch không nổi lên, không thấy Phù Khẩn, th́ chính là thương hàn hiệp với hư chứng, như vậy không thể dùng thang Ma hoàng. Những vấn đề liên quan, sẽ giới thiệu ở những điều văn ở phần dưới. Chỉ khi nào xuất hiện mạch của chứng biểu thực điển h́nh, th́ mới có thể dùng thang Ma hoàng để phát hăn.
Cổ nhân rất coi trọng việc thiết mạch. “Thương Hàn Luận” giảng “B́nh mạch biện chứng”, khi biện chứng đối với mạch cần có những chứng cứ “ Án thốn tất cập xích, ác thủ tất cập túc” Án mạch thốn tất phải án đến mạch xích, cầm tay tất phải cầm đến chân, ngón tay án đến mạch thốn, tất phải so sánh với mạch xích; Xem mạch ở tay c̣n cần phải xem mạch Điệt dương, mạch Thái xung (hai mạch ở chân)
Hai điều trên, một là chứng Thái dương trúng phong, một là chứng Thái dương thương hàn, ở phần dưới của tổng cương lại phân thành hai loại. Hai điều này cần liên hệ tại một chỗ để trải nghiệm. Thứ nhất, Thái dương trúng phong với phát nhiệt là chủ yếu, Thái dương thương hàn với sợ lạnh là chủ; Thái dương thương hàn chính là “Tất ố hàn” (必恶寒) tất nhiên là ghét lạnh, trúng phong chính là phát nhiệt trước tiên; Cảm giác sợ lạnh của Thái dương thương hàn nặng hơn so với sợ gió của Thái dương trúng phong, cảm giác này không thể hoăn giải. Thứ hai, Thái dương trúng phong có xuất mồ hôi, đồng thời với phát nhiệt là xuất mồ hôi, da ẩm ướt; Thái dương thương hàn cũng phát nhiệt, bất quá chính là nóng rát mà không có mồ hôi, da khô. Thứ ba, Thái dương trúng phong mạch phù mà tŕ hoăn; Thái dương thương hàn mạch phù khẩn, mà mạch thốn, mạch Xích và mạch Quan đều phù khẩn, khẩn chủ hàn, chủ đau, chủ thực.
Thông qua so sánh hội chứng, chúng ta có thể đưa ra các kết luận sau: Nói theo tính chất của tà khí, hàn tà thuộc âm, phong tà thuộc dương. Nhưng, không chỉ cần nhấn mạnh sự khác biệt của nguyên nhân bên ngoài, mà c̣n cần phải kết hợp với thể chất, thể chất của con người có hư và thực khác biệt, khi bị ngoại tà gây tổn thương cũng phân thành mạnh hay yếu, suy yếu sẽ dễ bị trúng phong, tức là nói đến chứng biểu hư; Mạnh mẽ sẽ dễ bị thương hàn, tức là chứng biểu thực. Điểm phân biệt then chốt của hai trường hợp nêu trên là có mồ hôi và không có mồ hôi, có mồ hôi là trúng phong, không có mồ hôi là thương hàn. Tuy c̣n có điểm phân biệt khác, nhưng tối quan trọng chủ yếu vẫn là có mồ hôi, không có mồ hôi. Trúng phong và thương hàn, một là chứng biểu hư, một là chứng biểu thực. Chỉ khi nắm vững và phân rơ chúng, khi tiến hành trị liệu sẽ tránh được những sai lầm đáng tiếc. Nếu như Thái dương bệnh trúng phong được chẩn đoán và trị liệu như Thái dương bệnh thương hàn, bệnh này căn bản đă xuất mồ hôi, bây giờ sử dụng thang Ma hoàng có tác dụng phát hăn mănh liệt, sẽ dễ dàng xuất hăn vong dương; Nếu như thang Ma hoàng dùng nhầm thang Quế chi, chứng này căn bản không có mồ hôi, trong thang Quế chi có Táo và Thược là những vị thuốc dưỡng doanh phận, sẽ tạo ra chứng bế uất nặng hơn, có khả năng diễn biến thành Đại thanh long thang chứng là không xuất mồ hôi mà phiền táo.
04 伤寒一日,太阳受之,脉若静者为不传;颇欲吐,若燥烦,脉数急者,为传 也。C4
Điều 4 Thương hàn nhất nhật, Thái dương thụ chi, mạch nhược tĩnh giả vi bất truyền, pha dục thổ, nhược táo phiền, mạch sác cấp vi truyền dă. C4
05 伤寒二三日,阳明少阳证不见者,为不传也。C5
Điều 5 Thương hàn nhị tam nhật, Dương minh Thiếu dương chứng bất kiến giả vi bất truyền dă.
C5
Phần dưới giới thiệu biện chứng truyền kinh và không tuyền kinh. Tà khí sau khi khách biểu không ngừng lại, nó sẽ biến hoá. Kết quả của đấu tranh giữa chính và tà, có khi tà khí truyền, có khi tà khí không truyền. Như thế nào để biết bệnh có truyền kinh hay không? Đây là một chẩn đoán rất quan trọng trên lâm sàng, có thể giúp thày thuốc nắm quyền chủ động, càng nhiều khả năng tích cực nghĩ ra biện pháp để tiến hành trị liệu.
Thương hàn 1 ngày, thương hàn là bao gồm trúng phong, là nói thương hàn biểu bệnh; “Một ngày” “ chính là giai đoạn bắt đầu, phong hàn tà từ bên ngoài bắt đầu xâm phạm thể biểu, lúc này đường kinh nào chịu áp lực? Là kinh Thái dương thụ tà.
Sau khi Thái dương thụ bệnh, tà ở Thái dương kinh, tà c̣n đến Dương minh, Thiếu dương, hoặc phát triển đến kinh khác? Đây là vấn đề cần biết. Nếu mạch tĩnh là không truyền, mạch sác cấp là bệnh truyền, mạch nhược tĩnh và mạch sác cấp chính là đối chiếu từ câu. Mạch nhược tĩnh là mạch không sác cấp. Đây chính là phương pháp hàng đầu để phán đoán bệnh truyền hay bệnh không truyền-----B́nh mạch biện chứng.
“Pha dục thổ, nhược táo phiền”( 颇欲吐,若燥烦)Rất muốn nôn, như khô khan phiền muộn, như muốn ẩu thổ, hoặc giả xuất hiện phiền táo (Xem chú giải Thương Hàn Luận tác “Táo”)
Chính là dấu hiệu của truyền bệnh. Chữ “dục” (欲) là muốn và chữ “nhược” (若) là nếu, chính là xem xét tương lai (tương nhiên), không giống với ư tứ của“Mạch sác cấp giả, vi truyền dă”, chính là tương lai cần xuất hiện một vài hội chứng. “Táo phiền” là phản ảnh của dương nhiệt. Phong hàn tà tại biểu nhập lư hoá nhiệt, sẽ xuất hiện phiền táo,. Căn cứ lục kinh phân chứng để xét, “táo phiền” (燥烦) là rất phiền, luôn luôn phản ảnh nhiệt ở kinh dương minh. “Pha dục thổ”(rất muốn ẩu thổ), chính là có ư muốn thổ, thổ nhiều, luôn luôn thấy chứng trạng này ở Thiếu dương chứng. Nói tóm lại, “táo phiền” cũng được, “pha dục thổ”(rất muốn ẩu thổ) cũng được, bất luận tương lai phát hiện hội chứng nào, th́ đều chứng tỏ tà khí đă ly khai Thái dương, không vào Thiếu dương th́ cũng đến Dương minh, bệnh đă truyền vào trong. “Mạch sác cấp giả, vi truyền dă” (Mạch sác cấp là bệnh truyền), “Mạch sác cấp” là mạch dĩ nhiên, chính là mạch sác cấp đă xuất hiện rồi. Mạch phù biến thành mạch sác cấp, cho thấy phong hàn tà hoá nhiệt, đă truyền biến vào trong, cho nên nói “Vi truyền dă” (为传也). Xét từ điều này, biểu hiện của bệnh truyền kinh chủ yếu là biến hoá của mạch và các chứng trạng theo sau. “Mạch nhược tĩnh, vi bất truyền” (脉若静者,为不传) Nếu mạch tĩnh là không truyền, đây là một loại khả năng, luôn luôn là điều tốt. Một loại khả năng là Thái dương bệnh tuy không truyền vào trong nhưng vẫn tồn tại như cũ; Ngoài ra c̣n một loại khả năng khác là bệnh tà đă suy yếu, không đủ sức truyền, có thể giải trừ, có cơ hội khỏi bệnh.
Phần tiếp theo “Thương hàn một ngày”( 伤寒一日) nói về thời gian bắt đầu của bệnh thương hàn chính là “Thái dương thụ chi”( 太阳受之)Thái dương bị bệnh, nếu như trải qua “Thương hàn nhị tam nhật”(thương hàn 2,3 ngày) mà không xuất hiện dương minh chứng và Thiếu dương chứng là bệnh không truyền. “Thương hàn nhị tam nhật” ở đây chỉ lấy làm thí dụ, không giới hạn trong 2,3 ngày. Dương minh chứng là ǵ? Thiếu dương chứng là ǵ? Điều này cần phải liên hệ với “pha dục thổ”(rất muốn ẩu thổ), “nhược táo phiền”(Khô khan phiền muộn) ở câu trước để lư giải. Thiếu dương chứng chính là “Pha dục thổ” Dương minh chứng chính là “táo phiền”. Đối với việc chẩn đoán bệnh có truyền kinh hay không, đều chủ yếu dựa theo biện chứng nêu trên, có tính hợp lư và khoa học. Không nên máy móc cho là bệnh một ngày là bệnh tà ở Thái dương, Cự dương, hai ngày là Dương minh, ba ngày là Thiếu dương. Nếu như đă xuất hiện chứng trạng truyền kinh, mạch tượng truyền kinh, th́ đó chính là bệnh đă truyền kinh; Nếu như “Mạch nhược tĩnh giả”(Nếu mạch yên tĩnh), cũng không thấy(Táo phiền) của Dương minh bệnh, không thấy “pha dục thổ” (rất muốn ẩu thổ) của Thiếu dương bệnh, th́ dù bệnh đă trải qua nhiều hay ít ngày, vẫn là bệnh không truyền.
Sau khi thể biểu bị bệnh tà xâm phạm, trúng phong cũng được, thương hàn cũng được, thế bệnh phát triển, t́nh huống chính tà đấu tranh, có thể thông qua bệnh truyền kinh, hay không truyền kinh thể hiện ra. Tại sao bệnh không truyền kinh? V́ chính khí đề kháng bệnh tà có lực, nên tà khí không thể truyền biến. Tại sao lại xuất hiện bệnh truyền kinh? V́ chính khí kháng bệnh tà vô lực, tà nhiệt khá mạnh.
06太阳病,发热而渴,不恶寒者,为温病。C6
Điều 6: Thái dương bệnh, phát nhiệt nhi khát, bất ố hàn giả, vi ôn bệnh.
Sau đây sẽ tŕnh bày về hai loại chứng, một là ôn bệnh, một là phong ôn. “Thương Hàn Luận” chính là thảo luận nghĩa hẹp của thương hàn, chủ yếu giảng về ngoại cảm phong hàn. Ở đây đề xuất phong ôn và ôn bệnh, để làm một loại Thái dương bệnh, có ư nghĩa chẩn đoán phân biệt rất quan trọng.
Điều thứ 6 tŕnh bày về ôn bệnh. Ôn bệnh và ngoại cảm phong hàn của Thái dương không giống nhau, trúng phong cũng được, thương hàn cũng được, những Thái dương biểu bệnh này đều không khát nước, nếu như đến mức độ khát nước, nhất định là bệnh đă truyền đến kinh Dương minh, hoặc giả chính là đă truyền đến kinh Thiếu dương. Cũng có thể nói, chỉ khi nào tà khí nhập lư hoá nhiệt mà xuất hiện truyền biến, th́ sẽ xuất hiện chứng trạng khát nước.
Ôn bệnh không như vậy. Ôn bệnh do một loại tà ôn nhiệt gây ra, ở giai đoạn bắt đầu của “Thái dương bệnh” , cũng có thể gọi đây là giai đoạn vệ phận, sẽ xuất hiện một số chứng trạng nhiệt tà gây tổn thương âm, tổn thương tân dịch, chính là đặc điểm của nó. Ngoài ra, v́ nó là tà ôn nhiệt (ấm nóng), không phải là tà phong hàn, v́ thế không sợ lạnh. Căn cứ theo quan sát trên lâm sàng, ôn bệnh trong thời kỳ đầu cũng có sợ lạnh nhẹ, nhưng thời gian sợ lạnh rất ngắn, chứng trạng cũng rất nhẹ.
Nhận thức của Trung y đối với ôn bệnh có các phương diện sau:
Thứ nhất, “Đông thương vu hàn, xuân tất bệnh ôn” (冬伤于寒,春必病溫), ôn bệnh chính là do phục tà gây ra. Cũng có thể nói, tuy mùa đông cảm thụ hàn tà, nhưng bệnh không phát tác, mà lại tiềm phục bên trong, khi dương khí của mùa xuân dẫn ở ngoài, hoặc một nguyên nhân bên ngoài dụ phát, dương khí của cơ thể sẽ hoá nhiệt, xuất hiện một số hiện tượng ôn nhiệt.
Thứ hai, “Đông bất tàng tinh, xuân tất bệnh ôn” (冬不藏精,春必病溫), chính là âm tinh trong cơ thể không đủ, tất nhiên sẽ dẫn đến dương nhiệt có thừa, cảm thụ tà khí rồi sẽ hoá nhiệt, xuất hiện một số hiện tượng ôn nhiệt.
Thứ ba, “Tiên hạ chí nhật vi bệnh ôn, hậu hạ chí nhất vi bệnh thử” (先夏 至日为病温,后夏至日为病暑)Trước ngày hạ chí là bệnh ôn, sau ngày hạ chí là bệnh thử. Bệnh hoá nhiệt trước ngày hạ chí gọi là ôn bệnh, bệnh hoá nhiệt sau ngày hạ chí gọi là thử bệnh (bệnh nắng). Đến đời nhà Thanh, nhận thức về ôn bệnh càng tiến bộ hơn, cho rằng ôn bệnh chính là “Ôn tà thượng thụ, thủ tiên phạm phế” (温邪上 受,首先犯肺) ôn tà phạm ở trên, đầu tiên xâm phạm phế, chính là gây tổn hại cho Thủ Thái âm phế kinh, gọi là Thái âm ôn bệnh. Nhiệt tà tất gây tổn thương âm, chủi yếu là với kinh Thái âm.
Tóm lại, tuy thuyết pháp khác biệt, nhưng nhận thức th́ nhất chí (giống nhau), ôn bệnh gây tổn thương nhiều nhất cho âm khí và tân dịch của cơ thể. Đây chính là quan điểm củaTrương Trọng Cảnh. V́ ôn tà háo thương tân dịch, hoá nhiệt cực nhanh, v́ thế xuất hiện “phát nhiệt nhi khát”( 发热而渴)phát sốt mà khát. V́ nhiệt thế khá mạnh, v́ thế sợ lạnh nhẹ, thậm chí không sợ lạnh. Để ôn bệnh lẫn lộn với thương hàn, luôn luôn tạo thành điều trị nhầm đối với ôn bệnh, thí dụ như dùng Ma hoàng, Quế chi trị liệu ôn bệnh phát sinh ngộ trị (điều trị nhầm) được ghi lại rất nhiều. Ôn bệnh chính là bệnh ôn nhiệt gây tôn thương âm, dùng Ma hoàng, Quế chi là hai vị thuốc tân ôn (cay ấm) không những không trị được ôn tà, c̣n trợ nhiệt gây tổn hại âm khí, hậu hoạn vô cùng.
Trong xă hội cũ, khoảng tháng tư, tôi thấy một bệnh nhân bị bệnh ở Đại Liên, trước đó có một y sinh cho anh ta uống thang Cửu vị khương hoạt, sau khi uống thuốc, mặt đầy mồ hôi, đau đầu như muốn vỡ ra, sốt cao không hạ, nói năng hồ đồ. Hiển nhiên là ngộ trị. V́ thế, ôn nhiệt tổn thương âm và phong hàn tổn thương dương tuyệt nhiên là khác nhau. Trương Trọng Cảnh sau khi luận phong hàn yêu cầu đề xuất ôn bệnh và phong ôn, chính là v́ những loại bệnh này có vẻ bề ngoài giống Thái dương bệnh, những chứng gần giống Thái dương bệnh, cũng có khả năng có đau đầu, phát nhiệt, thời điểm bắt đầu phát bệnh cũng có khả năng sợ lạnh nhẹ, nhưng chính là do ôn tà gây ra, sẽ xuất hiện một số chứng trạng tổn thương âm như khát nước, v́ thế ngàn vạn lần không nên lẫn lộn.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-11-24 01:55:19
Thương hàn luận
Trxuan Nguyễn Nghị dịch
Điều 07 đến Điều 16
若发汗已,身灼热者,名曰风温。风温为病,脉阴阳俱浮,自汗出,身重,多 眠睡,鼻息必鼾,语言难出。若被下者,小便不利,直视,失漫;若被火者,微发 黄色,剧则如惊痫,时瘈疭;若火熏之,一逆尚引日,再逆促命期。C7
Nhược phát hăn dĩ, thân chước nhiệt giả, danh viết phong ôn, phong ôn vi bệnh, mạch âm dương câu phù, tự hăn xuất, thân trọng, đa miên thuỳ, tỵ tức tất han, ngữ ngôn nan xuất. Nhược bị hạ giả, tiểu tiện bất lợi, trực thị, thất mạn; Nhược bị hoả giả, vi phát hoàng sắc, kịch tắc như kinh giản, thời khiết túng, nhược hoả huân chi, nhất nghịch thượng dẫn nhật, tái nghịch súc mệnh kỳ. C7
Đây là đoạn văn giảng về phong ôn, phong ôn là bệnh nghiêm trọng hơn ôn bệnh, v́ là ôn nhiệt c̣n thêm phong, nên gọi là phong ôn, tà của chứng phong ôn cũng chính là một loại tà khí tạo thành ôn bệnh. “Nhược phát hăn dĩ”, “dĩ”, dĩ tất (đă hoàn tất), phát hăn đă xong, cho thấy trước đó nhất định có biểu chứng. Chứng phong ôn cũng có hội chứng tương tự Thái dương bệnh, như phát nhiệt, đau đầu. Nếu quả thuộc ngoại cảm phong hàn, sau khi phát hăn, sốt sẽ hạ, biểu chứng sẽ được giải. Nếu như lấy chứng phong ôn làm như chứng phong hàn mà dùng phép phát hăn, sẽ xuất hiện “Thân chước nhiệt giả”(thân thể nóng rát), thân nhiệt càng nặng hơn, giống như hơ lửa. Chứng minh rằng dùng phép tân ôn phát hăn để điều trị chứng phong ôn, chẳng những không thể hạ nhiệt, mà c̣n khiến nhiệt tăng cao.
Hội chứng của “phong ôn vi bệnh” (风温为病) có những ǵ? Trước tiên là biến hoá của mạch, “Mạch âm dương đều phù”, nhân v́ Phong Ôn hai tà hợp lại, v́ thế mạch phù mà không khẩn, có điểm khác biệt với Thái dương thương hàn. “Tự hăn xuất”, tà phong ôn bức bách tân dịch tiết ra ngoài, sẽ có mồ hôi xuất ra. “thân trọng”(thân thể nặng nề), là phản ảnh của nhiệt tà nhiều và bị tắc nghẽn. Thương hàn làm cho toàn thân đau đớn, v́ hàn tà tổn thương dương làm khí huyết ngưng trệ không thông (bất thông tắc thống), tà của phong ôn gây trở ngại cho dương khí, khiến khí của dương nhiệt quá nhiều, dẫn đến thân thể nặng nề “thân trọng” (身重). Phần sau giảng đến Đại thanh long thang chứng cũng có chứng trạng thân thể nặng nề, cũng tương đồng với đạo lư ở đây. “Đa miên thùy, tỵ tức tất han, ngữ ngôn nan xuất” (多眠睡,鼻息必鼾,语言难出) Ngủ nhiều, thở như ngáy, nói không ra tiếng, chính là bệnh tà của phong ôn ảnh hưởng đến tâm phế gây ra. Tâm thần bị nhiễu loạn, xuất hiện ngũ mê, tinh thần mê muội, “Đa miên thuỳ” (ngủ nhiều) trên thực tế là khuynh hướng hữu thần. Tâm chủ về công năng lời nói khi bị ảnh hưởng sẽ xuất hiện “ngữ ngôn nan xuất” (nói không ra lời). Đó đều là phản ảnh của nhiệt tà gây tổn thương cho tim. Phế khí bị đè nén, xuất hiện chứng thở như ngáy, hô hấp thô và nặng. Những chứng trạng này đều rất nghiêm trọng. Đối với bệnh phong ôn, chỉ có thể sử dụng các vị thuốc cam hàn tân lương (Ngọt lạnh cay mát) để thanh nhiệt tư âm, không có phép nào khác. Nếu như không trị liệu như vậy, “Nhược bị hạ giả, tiểu tiện bất lợi” (若被下者,小便不利), nếu dùng phép tả hạ gây tổn thương âm, sẽ xuất hiện tiểu tiện bất lợi, âm của can thận thụ thương, sẽ xuất hiện “Trực thị” , là chứng nhỡn cầu mắt chuyển động không linh hoạt. Đều là những dấu hiệu nguy hiểm.“Thất sấu”, “sấu” là chỉ nhị tiện, đại tiện là đại sấu, tiểu tiện là tiểu sấu. Ấn bản thứ hai của sách giáo khoa về {Thương hàn luận} vẫn giữ quan niệm này, nhưng bản Thương hàn tổng bệnh luận của Bàng An Thời cho rằng “Thất” là đái dầm, không bao gồm đại tiện. Có mâu thuẫn ở đây không? Phía trước nói tiểu tiện bất lợi, đằng sau nói đái dầm, trên thực tế hai loại t́nh huống này đều có. Sau khi hạ nhầm, tân dịch đă bị tổn hại, nên lúc này xuất hiện tiểu tiện bất lợi. Đồng thời đă xuất hiện tinh thần hôn ám (tinh thần không sáng suốt), ngủ nhiều, thận ở hạ tiêu không c̣n tác dụng chi phối tiểu tiện, lúc tiểu tiện không đáp ứng ngược lạị sẽ xuất hiện đái dầm.
“Nhược bị hỏa giả, vi phát hoàng sắc” (若被火者,微发黄色)Nếu bị hoả, phát sắc vàng nhẹ, thời xưa thường sử dụng ngải cứu, ngoă uất (ngói nung nóng) là những liệu pháp vật lư khiến bn xuất mồ hôi hạ sốt, gọi là hoả liệu (liệu pháp dùng lửa). Bệnh phong ôn lúc đầu là do nhiệt tà gây ra, nếu như dùng nhầm lửa để trị liệu, chính là trên lửa gia thêm lửa, da thịt sẽ xuất hiện sắc vàng nhẹ, giống như hun khói. “Kịch sẽ như kinh giản, thời xiết túng” (剧则如惊痫,时瘈疭)Kịch liệt sẽ như động kinh, co giật, thơng ra. Nếu quả là nhiệt tà gây tổn thương cho âm của can thận sẽ càng nghiêm trọng hơn và sẽ xuất hiện “thời xiết túng” là một chứng trạng tương tự như chứng động kinh, chính là co giật từng trận. Động kinh là một loại hội chứng nhi khoa cổ đại, chủ yếu có 8 hậu: Súc, nạch, xế, chiến, phản, dẫn, thoán, thị (搐、搦、掣、颤、反、引、 窜、视) co rút, co quắp, co kéo, run, dương cung ngược, dương cung, di động, trực thị)
“Nhược hoả huân chi”, chính là đă nhầm lại nhầm thêm, hoả huân là một phép phát hăn từ thời cổ đại, c̣n gọi là phép đoạt hăn, người ta đào một cái hố trên mặt đất, dùng lửa đốt cho cái hố rất nóng, cho vào hố lá cây đào trải làm thảm, rắc nước và rượu lên, người nằm trên đó sẽ đổ mồ hôi. Hoặc sau khi làm nóng hố, lấy lửa ra và cho người vào để hơ nóng. Tôi đă từng giảng bài cho các sinh viên Triều Tiên, và họ nói rằng Triều Tiên vẫn có phong tục này. “一逆尚引日,再逆促命期” Điều trị sai lầm một lần vẫn c̣n cơ hội khả dĩ kéo dài thời gian. Âm đă bị tổn thương nghiêm trọng, nếu lại tái sai lầm sẽ rút ngắn tính mệnh, dẫn đến tử vong.
Thêm một lưu ư, hậu thế dùng Ngân kiều tán để trị chứng phong ôn chính là kế thừa {Thương hàn luận}. “Ngân kiều tán trị Thái dương ôn, mạch sác phát nhiệt khẩu khát tần.” (银翘散治太阳温,脉数发热口渴频。)Ngân kiều tán trị chứng Thái dương ôn, mạch sác, phát nhiệt và khát nước. Ôn bệnh và phong hàn chính là khác biệt, trên phương diện trị liệu cũng chính là một hàn một nhiệt, ngàn vạn lần không thể lẫn lộn. Nhóm nghiên cứu về bệnh thương hàn của chúng tôi đă từng có một bác sĩ già Trần Thận Ngô, người đă kể cho chúng tôi một ví dụ về một đứa trẻ mắc bệnh sởi đă chết do lạm dụng Quế chi thang, thật là ứng với câu:“Quế chi hạ yết, dương thịnh tắc tệ” (桂枝下咽,阳盛则毙)Quế chi xuống họng, dương thịnh là chết. Cũng vậy, ngoại cảm phong hàn uống nhầm Ngân kiều tán, Tang cúc ẩm là thuốc tân lương (cay mát), sẽ ngăn trở dương khí, khiến biểu tà không giải được mà truyền kinh.
Các câu văn của {Thương hàn luận} tuy phổ thông và b́nh thường, kỳ thực hàm chứa ư nghĩa rất thâm sâu, hy vọng rằng mọi người sẽ kết nối qua lại khi nghiên cứu, xem xét cẩn thận và học cách "Vu vô tự trung cầu chi" (于无字中求之)Cầu t́m ở chỗ không có chữ.
07 病有发热恶寒者,发于阳也;无热恶寒者,发于阴也。发于阳者七日愈,发于阴者六日愈。以阳数七,阴数六故也。C8
Điều 07
Bệnh hữu phát nhiệt ố hàn giả, phát vu dương dă; Vô nhiệt ố hàn giả, phát vu âm dă. Phát vu dương giả thất nhật dũ, phát vu âm giả lục nhật dũ. Dĩ dương số thất, âm số lục cố dă. C8
Bệnh phát nhiệt ghét lạnh, là bệnh phát ở dương; Không phát nhiệt ghét lạnh là bệnh phát ở âm. Phát ở dương bảy ngày khỏi bệnh, phát ở âm sáu ngày khỏi. dương số 7, số âm là 6.
Điều này phân biện âm dương hàn nhiệt. Kim Quỹ Ngọc Hàm kinh đặt tiết này trước Thái dương bệnh. Làm cương lĩnh tổng quát của biện chứng lục kinh {Thương hàn luận}. 【Thương hàn tố nguyên tập】 cũng tŕnh bày như vậy. Năm ngoái, chúng tôi đă tham gia vào sách giáo khoa quốc gia "Thương hàn luận giảng nghĩa" do một số trường anh em ở Hồ Bắc biên soạn, cũng đưa bài viết này lên trước. Tại sao nó nên được sắp xếp như thế này? Bởi v́ đây là một đề cương. Lục kinh biện chứng trên thực tế chính là âm dương biện chứng, do tam âm tam dương tạo thành, với hai cương lĩnh âm dương quản lư Lục kinh. Âm dương không phải là vật trừu tượng, phản ảnh ở lục kinh bệnh chính là hàn nhiệt (nóng lạnh). Tiết này tóm tắt rơ ràng để nắm vững cương lĩnh âm dương hàn nhiệt của lục kinh.
“Bệnh hữu phát nhiệt ố hàn giả, phát vu dương dă” (病有发热恶寒者,发于阳也) Bệnh phát nhiệt ghét lạnh là bệnh phát ở dương, bệnh nhân đă phát nhiệt, lại ghét lạnh, chính là dương chứng, cũng chính là hội chứng của dương kinh. Cũng có thể nói phát ở dương chính là phát ở thái dương. Biểu chứng của Thái dương bệnh chính là phát nhiệt ghét lạnh, ghét lạnh chính là dương khí bị tà khí làm tổn thương, phát nhiệt là biểu hiện của dương khí có lực kháng tà. Hai hội chứng này, một hội chứng (ghét lạnh) đại biểu cho tà khí, một đại biểu cho chính khí, nhưng chính khí ở vào địa vị tích cực, dương khí có khả năng kháng bệnh tà sẽ phát nhiệt. Đó chính là biết bệnh phát ở dương mà không phải phát ở âm. Cũng như vậy, dương minh bệnh phát nhiệt chưng chưng (chưng chưng là nóng liên tục bốc ra ngoài), Thiếu dương bệnh hàn nhiệt qua lại (hàn nhiệt văng lai), ba kinh dương đều với chủ chứng là phát nhiệt, v́ thế nên gọi là dương kinh bệnh.
“Vô nhiệt ố hàn, phát vu âm dă” (无热恶寒,发于阴也)Không phát nhiệt mà ghét lạnh, bệnh phát ở kinh âm, dương hư mà có hàn tà, dương khí không thể đấu tranh với tà khí một cách tích cực, cho nên không phát nhiệt, chỉ có ghét lạnh, bệnh này phát ở kinh âm. Thiếu âm bệnh có hay không có ghét lạnh không? “Ố hàn thân quyền” (恶寒身蜷) Ghét lạnh, cuộn thân lại, chẳng những ghét lạnh, mà c̣n đến mức độ cuộn người lại; “Thủ túc quyết nghịch” (Tay chân lạnh ngược lên), tay chân đều mát lạnh.
“Phát ở dương 7 ngày khỏi bệnh, phát ở âm 6 ngày khỏi”, ư nghĩa không lớn, mà nguyên lư là dương số 7, âm số 6. Dùng làm đề cương của tam âm tam dương, nếu hai câu này được thêm vào, nó sẽ thu hẹp ư nghĩa của nó. Nguyên văn không đề xuất trị pháp tương ứng, 【Ngoại Đài Bí Yếu】 dành cho bổ sung: “Phu bệnh phát nhiệt nhi ố hàn giả, phát vu dương, phát vu dương giả nghi công kỳ ngoại” (夫病发热而恶寒者发于阳,发于阳者宜攻其外) Bệnh phát nhiệt mà ghét lạnh là phát ở dương, phát ở dương nên công kỳ ngoại, là cần phải tấn công bệnh tà ở biểu; “Vô nhiệt nhi ố hàn giả phát vu âm, phát vu âm giả nghi ôn kỳ nội” (无热而恶寒者发于阴,发于阴者宜温其内)Không phát nhiệt mà ghét lạnh là bệnh phát ở âm, bệnh phát ở âm nên ôn kỳ nội, là dùng thuốc ấm nóng để làm ấm bên trong. “Phát ngoại nghi Quế chi thang, ôn lư nghi Tứ nghịch thang” (发外宜桂枝汤,温里宜四逆汤)Phát hăn bên ngoài dùng thang Quế chi, ấm bên trong nên dùng thang Tứ nghịch. Tŕnh bày tài liệu để cùng tham khảo.
08 太阳病,头痛至七日已上自愈者,以行其经尽故也。若欲作再经者,针足阳明,使经不传则愈。C9
Điều 08
Thái dương bệnh, đầu thống chí thất nhật dĩ thượng tự dũ giả, dĩ hành kỳ kinh tận cố dă. Nhược dục tác tái kinh giả, châm túc dương minh, sử kinh bất truyền tắc dũ. C9
Thái dương bệnh, đau đầu đến 7 ngày trở lên sẽ tự khỏi, v́ đă đi hết ṿng kinh của nó. Nếu muốn truyền kinh, châm Túc dương minh, khiến cho kinh không truyền bệnh sẽ khỏi.
Tiết này nên giảng kết hợp với truyền kinh của tiết 4 và 5. “Thái dương bệnh”, cho thấy là biểu chứng, có các chứng trạng đau đầu cứng gáy. Ở đây chứng trạng đau đầu được dùng làm thí dụ. Bệnh đă đến ngày thứ bảy, “Tự dũ giả, dĩ hành kỳ kinh tận cố dă”( 自愈者,以行其经尽故也)Khỏi bệnh, v́ đi hết đường kinh, tà khí của kinh Thái dương đă đi hết đường kinh, v́ thế mà khỏi bệnh.
“Hành kỳ kinh tận”(行其经尽)đi hết đường kinh và “Đầu thống chí thất nhật dĩ thượng tự dũ giả”( 头痛至七日以上自愈者)Đau đầu 7 ngày trở lên th́ tự khỏi. Cần xem xét sự liên hệ của hai câu này, tránh phát sinh quan niệm sai lầm. Có những chú thích gia cho rằng ngày thứ nhất tà khí ở Thái dương, ngày thứ hai đến dương minh, ngày thứ ba đến thiếu dương, ngày thứ tư đến Thái âm, ngày thứ năm đến Thiếu âm, ngày thứ 6 đến quyết âm, ngày thứ 7 lại đến Thái dương, truyền đủ một ṿng lớn, lại trở về Thái dương, bệnh cũng sẽ khỏi. Loại chú giải này là không đúng. Theo “Đau đầu đến 7 ngày trở lên th́ tự khỏi” cho thấy, biểu chứng luôn luôn tồn tại, tà khí trước sau vẫn ở kinh Thái dương. Theo “Đă đi hết đường kinh rồi” cho thấy, “Hành” không phải là truyền, mà chính là hành động của tà khí ở kinh Thái dương đă hết, “Kỳ kinh” là chỉ kinh Thái dương, không phải chỉ kinh Dương minh hoặc Thiếu dương. Bảy ngày này tà khí c̣n ở Thái dương bản kinh, không truyền biến sang kinh khác. V́ sao đến 7 ngày th́ bệnh tự khỏi? Điều này cũng không dễ hiểu. V́ trong quá khứ có lư thuyết, gọi là thất nhật lai phục (bảy ngày trở lại), chính khí của người qua 7 ngày lại có một kỳ trở lại. Nhiều bệnh trong y học có liệu tŕnh 7 ngày. Cũng có những nhà chú giải cho rằng Thái dương bệnh chính là dương khí thụ bệnh, 7 chính là dương số, được dương khí rồi, bệnh liền khỏi. Đây là một loại kinh nghiệm có được từ những tích luỹ thực tiễn. “Nếu lại muốn truyền kinh, châm túc dương minh, khiến kinh không truyền sẽ khỏi bệnh”, Nếu quá bảy ngày mà bệnh vẫn chưa khỏi, cần quá kinh. Từ kinh Thái dương truyền qua kinh khác, phải làm ǵ? Thực hiện các biện pháp vừa có ư nghĩa trị liệu vừa có ư nghĩa pḥng ngừa, dùng liệu pháp châm thích châm huyệt vị của Túc dương minh vị, khiến cho tà khí của kinh Thái dương không truyền sang kinh khác, bệnh sẽ biến chuyển tốt.
Tà khí truyền đến kinh nào, mà phải châm túc
dương minh? Tại sao không châm Túc Thiếu dương? Các chú thích gia khi nói đến vấn đề này đều nói chung chung, mơ hồ. Kỳ thực, ở đây có hai ư nghĩa. Một là, tà của Thái dương có khuynh hướng truyền vào Dương minh, châm Túc dương minh ở thời điểm truyền kinh có tác dụng nghênh đón để chiếm đoạt, khiến cho kinh không truyền và khỏi bệnh. Hai là, phàm tà ở kinh Thái dương đều đ̣i truyền đến các kinh khác, truyền đến Dương minh cũng được, truyền đến Thiếu dương cũng được, đều cần châm Túc dương minh. Thường dùng huyệt Túc tam lư, từ tất nhỡn hạ xuống 3 thốn ở giữa hai gân, là huyệt cường tráng. Huyệt Túc tam lư thuộc đường kinh Vị, Vị là căn bản của hậu thiên, “Hữu vị khí tắc sinh, vô vị khí tắc tử”(Có vị khí là sống, không có vị khí là chết), xem sắc, thiết mạch đều phải chú ư xem có vị khí hay không. “Tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư” (邪之所凑,其气必虚)Tà mà tụ tập, khí đă hư rồi, tà không giải ở kinh Thái dương, c̣n muốn truyền vào trong, thông qua châm Túc dương minh, chấn hưng vị khí, đă có thể ngăn ngừa truyền kinh.
09 太阳病欲解时,从已至未上。C10
Điều 09
Thái dương bệnh, dục giải thời, ṭng tỵ chí mùi thượng. C10
Thái dương bệnh, thời gian khỏi bệnh, từ giờ tỵ đến trước giờ mùi.
Điều này nói về quan hệ thống nhất hỗ tương giữa con người và dương khí của tự nhiên. “Thái dương bệnh, dục giải thời, ṭng tỵ chí mùi thượng”, câu nói này cần sức sống. “Dục giải thời” không phải là nói khi Thái dương bệnh giải, có hàm chứa giọng điệu thương thảo, nhưng thời gian này có lợi đối với khí Thái dương. Thái dương đứng đầu chư dương, Tỵ Ngọ Mùi giờ Ngọ chính là thời gian dương khí vượng nhất trong tự nhiên, dương khí trên cơ thể cũng theo đó mà thịnh vượng dồi dào, tà khí cũng v́ thế mà lùi bước, thuận lợi đối với việc hoăn giải của Thái dương bệnh. Thái dương bệnh được giải, nếu có thể nói về thời điểm dễ khỏi bệnh th́ đây chính là thời gian được chọn. Người viết học Trung y từ khi c̣n bé, đă được chứng kiến những vị lăo trung y có khả năng chẩn bệnh cực cao, đối với thời điểm tăng nặng của bệnh, thời điểm nào khỏi bệnh, đều có những dự kiến nhất định. Cho thấy những lư luận này là tương đối khoa học.
10 风家,表解而不了了者,十二日愈。C11
Điều 10
Phong gia, biểu giải nhi bất liễu liễu giả, thập nhị nhật dũ. C11
Người trúng phong, biểu đă giải nhưng chưa sảng khoái, 12 ngày khỏi bệnh
Điều này khá đơn giản. “Phong gia”, chính là Thái dương bệnh biểu chứng, không chỉ bao gồm Thái dương bệnh trúng phong, cũng bao gồm cả Thái dương bệnh thương hàn. “Biểu giải”, do trị liệu thoả đáng, biểu tà đă được giải trừ. “Nhi bất liễu liễu giả”, c̣n những chứng trạng sót lại như hắt hơi, chảy nước mũi, thân thể ê ẩm, biểu chứng chưa hoàn toàn hết hẳn. Lúc này không nên uống thuốc, v́ đại tà đă giải, chỉ c̣n chính khí chưa hồi phục. “thập nhị nhật dũ”, hơn mười ngày nữa, chính khí hồi phục, bệnh này sẽ tốt. Đến như “12 ngày”, chỉ là một con số đại khái để nói mà thôi.
11 病人身大热,反欲得近衣者,热在皮肤,寒在骨髓也;身大寒,反不欲近衣 者,寒在皮肤,热在骨髓也。C12
Điều 11
Bệnh nhân thân đại nhiệt, phản dục đắc cận y giả, nhiệt tại b́ phu, hàn tại cốt tuỷ dă; Thân đại hàn, phản bất dục cận y giả, hàn tại b́ phu, nhiệt tại cốt tuỷ dă. C12
Bệnh nhân thân thể rất nóng, lại muốn được mặc quần áo, là nóng ở da thịt, lạnh trong xương tuỷ; Thân thể lạnh lại không muốn mặc quần áo, là lạnh tại da thịt, nóng trong xương tuỷ.
Điều này chính là biện chứng hàn nhiệt thật giả, liên quan đến vấn đề quan hệ giữa hiện tượng và bản chất. Cần thông qua hiện tượng để nhận rơ bản chất, như vậy sẽ không bị hiện tượng bệnh làm cho mê muội, và có thể đưa ra chẩn đoán chính xác.
Đây là điều cần kết nối xem xét với bệnh phát ở âm hay dương.
“Bệnh nhân thân đại nhiệt”, đúng là người đă bị bệnh trên thân thể nóng gay gắt, chính là hiện tượng của bệnh, chúng ta không thể dựa vào một hiện tượng để nói bệnh này chính là dương chứng, chính là bệnh phát ở dương. “Phản dục đắc cận y giả” (反欲得近衣者) lại muốn được mặc quần áo, chính là nói về t́nh trạng bệnh. Dùng chữ “Phản” rất hay, đúng là thân thể bệnh nhân rất nóng, đúng ra bệnh nhân sẽ ghét nóng thích mát, lại tương phản xuất hiện “Dục đắc cận y giả” (Thích mặc quần áo) phản ảnh được t́nh trạng thực của dương hư, sự ghét thích của bệnh nhân luôn luôn phản ảnh bản chất của bệnh. V́ thế Trương sư cho rằng “Nhiệt tại b́ phu, hàn tại cốt tuỷ”(nóng ở da thịt, lạnh trong xương tuỷ). “Xương tuỷ” là chỉ về bên trong (lư) của bệnh nhân. “Hàn tại cốt tuỷ” cũng có thể nói về hàn thịnh ở Thiếu âm. Lúc này dương khí bị hàn tà lớn mạnh kháng cự, loại trừ, bị lộ ra ngoài thể biểu, nên xuất hiện thân thể đại nhiệt. Trung y gọi hiện tượng này là cách dương. V́ loại đại nhiệt này là do dương hư gây ra, cho nên “Phản dục đắc cận y giả” (反欲得近衣者) lại thích mặc nhiều quần áo, xuất hiện t́nh huống chân thực là thích ấm nóng. Đương nhiên, những chứng trạng này chỉ là những thí dụ của Trương sư, trên lâm sàng c̣n có những chứng trạng âm thịnh cách dương như mạch đại vô căn (mạch lớn mà vô lực), mặt hồng như trang điểm, phiền khát mà không muốn uống nước v.v….
Cũng như vậy “Thân đại hàn, phản bất dục cận y giả, hàn tại b́ phu, nhiệt tại cốt tuỷ dă”( 身大寒,反不欲近衣者,寒在皮肤,热在骨髓也)Thân thể rất lạnh, nhưng lại không thích mặc áo quần, lạnh tại da thịt, nóng trong xương tuỷ) chính là dương thịnh cách âm. Dương thịnh ở bên trong, đẩy âm ra ngoài, h́nh tượng bệnh là “Thân đại hàn” (Thân thể rất lạnh) t́nh trạng bệnh là “phản bất dục cận y” (ngược lại không muốn mặc nhiều quần áo). Mà thành nguyên nhân là “Nhiệt tại cốt tuỷ dă”(Nóng trong xương tuỷ), dương nhiệt quá mạnh, đẩy âm ra ngoài.
Một số y gia hậu thế c̣n đề xuất phương án trị liệu đối với điều này, nhằm vào “Nhiệt tại b́ phu; Hàn tại cốt tuỷ” là chứng cách dương, dùng Thông mạch tứ nghịch thang để điều trị; Nhằm vào “Nhiệt tại cốt tuỷ, hàn tại b́ phu” là chứng cách âm, điều trị dùng thang Bạch hổ.
Điều này thể hiện việc nắm vững điểm trọng yếu của biện chứng Trung y, không nên chỉ dựa vào hiện tượng đơn độc để xem xét vấn đề, cần thông qua hiện tượng để xem bản chất. Liên quan đến vấn đề cách âm cách dương, sau này sẽ đề cập đến ở thiên Thiếu âm và Quyết âm.
12 太阳中风,阳浮而阴弱,阳浮者,热自发,阴弱者,汗自出。 啬啬恶寒,渐渐 恶风, 翕翕发热,鼻鸣干呕者,桂枝汤主之。C13
Điều 12
Thái dương trúng phong, dương phù nhi âm nhược, dương phù giả, nhiệt tự phát, âm nhược giả, hăn tự xuất. Sắc sắc ố hàn, tiệm tiệm ố phong, hấp hấp phát nhiệt, tỵ minh can ẩu giả, quế chi thang chủ chi. C13
Phương Quế chi thang
Quế chi 3 lạng, bỏ vỏ, Thược dược 3 lạng, Cam thảo 2 lạng, Sinh khương 3 lạng, Đại táo 12 quả (bổ đôi) Tất cả 5 vị giă nát. Dùng 7 thăng nước, đun lửa nhỏ lấy 3 thăng, bỏ bă, độ ấm vừa phải, uống 1 thăng, uống một lát, ăn cháo loăng hơn 1 thăng, để hỗ trợ thuốc, uống ấm, trùm mền, xuất mồ hôi nhẹ là tốt, đừng để mồ hôi nhễ nhại, không trừ được bệnh. Nếu uống thuốc một lần bệnh đă chuyển biến tốt, ngưng uống, không cần uống hết thang; Nếu không xuất mồ hôi, uống thêm, như phép trước; Lại vẫn không xuất mồ hôi, uống thuốc cách thời gian ngắn hơn, nửa ngày uống ba lần cho hết thuốc; Nếu bệnh nặng uống cả ngày và đêm. Uống hết một thang, nếu c̣n bệnh lại tiếp tục uống; Nếu không xuất hăn, uống liền 2,3 thang. Cấm ăn thực phẩm sống lạnh, béo ngấy, thịt nướng, cay, rượu, có mùi khó ngửi.
Điều này nói về phương pháp trị liệu của Thái dương trúng phong, biến hoá bệnh lư, đồng thời bổ sung hội chứng, nên xem xét kết hợp với điều 2 “Thái dương bệnh, phát nhiệt, hăn xuất, ố phong, mạch hoăn giả, danh vi trúng phong”. Mạch tượng của Thái dương bệnh trúng phong chính là “Dương phù âm nhược”, “Dương” là chỉ phù thủ (ấn nhẹ tay), “Âm” là chỉ trầm thủ (ấn mạnh tay) khi chẩn mạch. Thái dương trúng phong chính là phong tà gây tổn thương ở vệ, v́ thế nên mạch phù, chính là dương phù. Doanh âm không đầy đủ, v́ thế trầm thủ (ấn mạnh tay) thấy mạch tŕ hoăn vô lực, chính là âm nhược. “Dương phù nhi âm nhược” chính là miêu tả cụ thể của Thái dương trúng phong mạch phù hoăn. “Dương phù nhiệt tự phát, âm nhược giả hăn tự xuất” (阳 浮者热自发,阴弱者汗自出)Dương phù tự phát sốt, âm nhược tự xuất mồ hôi , hai chữ “Tự” cho thấy phát nhiệt và hăn xuất của trúng phong đều khá nhanh, khác biệt với chứng thương hàn sau khi dương khí bế uất mà phát nhiệt. “Dương phù” chính là vệ thụ tà, phong dương hợp vào vệ dương, cho nên phát nhiệt rất nhanh. Vệ cường (mạnh), vệ có phong tà mà mạnh, doanh âm không được vệ bảo hộ mà vượt ra ngoài, cộng thêm tà phong dương khai tiết, v́ thế đồng thời với phát nhiệt là tự xuất mồ hôi. Từ trong miêu tả lại phản ảnh phát nhiệt và xuất hăn trong Thái dương trúng phong có phân thứ tự trước sau.
“Sắc sắc ố hàn, tiệm tiệm ố phong” (啬啬恶寒,渐渐恶风), là từ hỗ trợ của sợ phong hàn nhẹ, không cần t́m hiểu tách bạch cắt rời. Thái dương trúng phong sau khi phát nhiệt xuất hăn, lỗ chân lông mở ra, sẽ xuất hiện sợ lạnh nhẹ, “sắc sắc ” là chỉ về diện mạo khiếp lạnh, chính là h́nh dáng của sợ lạnh. “Tiệm tiệm” chính là h́nh dung mức độ sợ gió giống như dùng nước lạnh lau người.
“Hấp hấp phát nhiệt”, vệ dương bị phong tà gây tổn thương, tuy phát nhiệt nhanh, nhưng là nhiệt ở biểu, không phải nóng phát ra ngoài, mà chính là giống như phát nhiệt v́ mặc quần áo hay đắp mền quá dày. “Tỵ minh can ẩu”, phong tà đi lên, ảnh hưởng phế vị, phế khí bất lợi sẽ dẫn đến tỵ minh (tạo âm thanh khi thở bằng mũi) vị khí thượng nghịch sẽ gây oẹ khan.
Nhằm vào các loại t́nh trạng bệnh này, nên cần dùng“Quế chi thang chủ chi”. Ư nghĩa của “Chủ chi” chính là xem xét chứng trạng không nghi ngờ, chứng và phương khớp với nhau, có thể thoải mái sử dụng. Thành phần của thang Quế chi gồm 5 vị thuốc, bao gồm Quế chi, Thược dược, Cam thảo, Sinh khương, Đại táo. Trong đó vị Cam thảo cần chích, Sinh khương cắt miếng, Đại táo bổ đôi, lượng Quế chi và Bạch thược cần tương đương nhau. Phương pháp sắc uống cũng rất cần chú ư. “Thượng ngũ vị, xuy tứ” (năm vị nghiền nát), ở bản của họ Triệu, sau xuy tứ có hai chữ “tam vị”, như vậy hợp lư hơn, cũng như đă nói, Sinh khương cần cắt lát, vị Đại táo cần bổ ra, nghiền nát chỉ c̣n 3 vị là Quế chi, Thược dược và Cam thảo. “Dùng 7 thăng nước, đun lửa nhỏ lấy 3 thăng, bỏ bă, ấm lạnh thích hợp, uống 1 thăng. Uống thuốc một lát, uống cháo nóng lỏng khoảng hơn 1 thăng, để trợ sức thuốc, uống thuốc ấm thêm một lần để xuất mồ hôi, toàn thân xuất mồ hôi nhẹ nhàng là tốt, không nên để xuất mồ hôi đầm đ́a, không trừ được bệnh. Nếu uống thuốc một lần bệnh nhân xuất mồ hôi và khỏi bệnh, ngưng uống, không cần uống hết thang thuốc; Nếu không xuất mồ hôi, những lần uống sau cách nhau ngắn hơn, nửa ngày có thể uống 3 lần; Nếu bệnh nặng, uống cả ngày đêm, quan tâm điều trị bệnh toàn thời gian”. Uống hết một thang, bệnh chứng c̣n, tiếp tục uống; Nếu không xuất mồ hôi, nên uống 2,3 thang. Cấm thực phẩm sống lạnh, béo ngấy, thịt, đồ cay, rượu, nặng mùi.v.v…Uống thang Quế chi tinh thần chung cần nắm vững hai điểm: Uống thang Quế chi nhất định cần xuất mồ hôi, không xuất mồ hôi là không đạt được mục đích trị liệu là giải cơ khứ phong. “Nếu không xuất mồ hôi, uống thêm theo như phép trước; Nếu vẫn không xuất mồ hôi, những lần sau thời gian uống thuốc gần nhau hơn”; “Nếu vẫn chưa xuất mồ hôi, nên uống 2,3 thang”. Tóm lại, nhất định phải xuất mồ hôi. Thứ hai, đối với yêu cầu mức độ xuất mồ hôi, “Toàn thân xuất mồ hôi nhẹ tựa như có mồ hôi là tốt, không nên xuất mồ hôi đầm đ́a, tất không trừ được bệnh”, là toàn thân hoà nhuận như mặt có mồ hôi. “Biến thân ……..”, chính là trước khi xuất hăn, toàn thân rất ôn nhuận, giống như muốn xuất mồ hôi. Sau đó, đặc điểm của xuất hăn là “Tựa như có mồ hôi”, chữ “Tựa” có thể nói tiếp về nó là , chỉ là một chút mồ hôi, liên tục xuất trên toàn thân, không nên để mồ hôi xuất nhiều như nước đầm đ́a, nếu không sẽ không trừ được bệnh, bệnh không thể chữa khỏi.
Khác với thang Ma hoàng là thang thuốc tân ôn (cay ấm) chỉ duy nhất có tác dụng phát hăn, thang Quế chi với vị Quế chi phối với Thược dược, Thược dược là thuốc có vị chua, tính thu liễm, v́ thế tác dụng phát hăn rất yếu kém. Nếu muốn xuất mồ hôi, đồng thời với uống thang Quế chi c̣n phải có một số điều kiện như: “Phục dĩ tu du” (sau khi uống thuốc một lát) “Tu du” là quăng thời gian không lâu, “Hấp nhiệt hi chúc”(Húp cháo loăng nóng), “hấp” (nuốt một miếng to), cháo nóng có tác dụng làm cho vị khí phấn khởi, “dĩ trợ dược lực” (Hỗ trợ sức thuốc), giúp thang Quế chi xuất mồ hôi. Sau đó, “Ôn phục linh nhất thời hứa” “Ôn phục” chính giữ cho ấm, “Nhất thời hứa” là 2 giờ, đợi xuất mồ hôi. Thông qua việc ăn cháo loăng nóng, trùm mền cho ấm nóng và tránh gió, làm cho “toàn bộ cơ thể xuất một chút mồ hôi là rất tốt” . Phần trên chính là phép phát hăn của thang Quế chi.
Đồng thời, sau khi uống hết thang Quế chi có khi xuất mồ hôi, cũng có trường hợp không xuất mồ hôi, cần “Chu thời quan chi, nhất nhật nhất dạ phục”, “Chu thời” chính là một ngày 24 giờ, ban ngày có thể uống, ban đêm cũng có thể uống, nhiệm vụ là xuất mồ hôi. Uống phương thuốc này cần phải kiêng thực phẩm sống lạnh, béo ngấy, thịt, ngũ tân (5 loại gia vị), rượu, các thực phẩm nặng mùi, là không nên ăn các thực phẩm có thể tổn hại cho vị khí. Thang Quế chi là thang tân cam ôn (cay ngọt ấm), có tác dụng hưng phấn vị khí, ăn cháo loăng và nóng trợ giúp xuất hăn, nếu như ăn thực phẩm sống lạnh, béo ngấy, phô mai, sẽ ảnh hưởng đến khí của vị dương, cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của thang Quế chi.
Dưới đây là những đặc điểm của thang Quế chi. Quế chi phối Sinh khương, đều là những vị thuốc cay, phát hăn giải cơ, có khả năng giải trừ bệnh tà ở vệ phận. Thược dược phối Đại táo, Thược dược vị chua, có tác dụng dưỡng doanh (nuôi dưỡng doanh phận), Đại táo vị ngọt, có tác dụng dưỡng tân dịch. 《Thần Nông Bản Thảo Kinh》viết về Đại táo “Khí vị cam b́nh vô độc......Bổ thiểu khí, thiểu tân dịch, thân trung bất túc, đại kinh, tứ chi trọng, ḥa bách dược” (气味甘平无毒......补少气,少津液,身中不足,大惊,四肢重,和百药)Khí vị ngọt hoà b́nh không độc…..bổ chứng ít khí, ít tân dịch, thân thể không đầy đủ, sợ hăi, tứ chi nặng nề, điều hoà các vị thuốc”, v́ sao thang thập táo lại dùng Đại kích, Nguyên hoa, Cam toại sau khi tả mạnh thuỷ tà cần dùng 10 quả Đại táo? V́ Đại táo ngoài tác dụng kiện tỳ c̣n có tác dụng bồi bổ tân dịch. Vị Đại táo ở đây có thể tăng cường tác dụng bảo vệ củng cố doanh âm của Bạch thược. Cơ chế bệnh của Thái dương trúng phong chính là vệ mạnh mà doanh yếu, vệ phận mạnh, cho nên dùng Quế chi Sinh khương để phát tán; Doanh phận yếu nhược, cho nên dùng Thược dược Đại táo để bồi bổ. Cam thảo có khả năng điều hoà âm dương, tương hợp với Quế chi Sinh khương, thành vị cay ngọt phát tán vệ dương; Tương hợp với Thược dược Đại táo, thành chua ngọt hoá sinh doanh âm. Đồng thời, Cam thảo c̣n có một vài tác dụng bổ trung ích khí, có tác dụng phù tŕ chính khí và trừ khứ tà khí. Đồng thời 5 vị thuốc trong thang Quế chi đều là những gia vị được sử dụng trong sinh hoạt, nên cũng đều có tác dụng bồi bổ dạ dày ở các mức độ khác nhau.
Thang Quế chi bên ngoài có khả năng điều hoà doanh vệ, bên trong điều hoà khí huyết, điều hoà tỳ vị, phân tích sâu hơn chính là có khả năng điều hoà âm dương. Thang Tiểu kiến trung chính là trên cơ sở thang Quế chi bội vị Thược dược gia thêm đường mà thành, trị chứng hư lao đau bụng.Với thang Quế chi là phương căn bản, chính v́ thang Quế chi có tác dụng điều hoà tỳ vị và điều hoà khí huyết. Trong 《Kim Quỹ Yếu Lược》Quế chi gia Long cốt Mẫu lệ thang chính là trên cơ sở thang Quế chi gia Long cốt Mẫu lệ mà thành, trị liệu người nam thất tinh, người nữ mộng giao, tâm thận không có khả năng giao thông. Với thang Quế chi là phương căn bản, chính v́ thang Quế chi có tác dụng giao thông tâm thận và điều hoà âm dương.
Thang Quế chi là phương thang số 1 của {Thương hàn luận}, v́ thế Kha Vận Bá cho rằng thang Quế chi là phương thang đứng đầu của các phương. Người viết cho rằng thang Quế chi là phương thang có thể tư âm hoà dương, điều hoà doanh vệ, điều hoà khí huyết, điều hoà tỳ vị, điều hoà âm dương, phạm vi trị liệu rất rộng. Bộ sách này gọi là 《Thương Hàn Tạp Bệnh Luận》,thang Quế chi đă trị thương hàn lại kiêm trị tạp bệnh, v́ thế nên Trương sư xếp thang Quế chi là đệ nhất phương thang. Bất luận là bệnh ǵ, điều trị cũng không ngoài “Âm b́nh dương bí, tinh thần năi trị” (阴平阳秘,精神乃治)( 平,和也,秘,密也。阴平阳秘,即阴气平和,阳气固密。精神乃治,就是精神活动正常)B́nh là ḥa, bí là mật, âm b́nh dương bí, tức là âm khí b́nh ḥa, dương khí cố mật, tinh thần năi trị, chính là tinh thần hoạt động b́nh thường. Thang Quế chi có tác dụng Tư âm hoà dương và điều hoà âm dương, phần nào đă thể hiện tư tưởng chỉ đạo trị liệu tật bệnh của Trương Trọng Cảnh.
Phát hăn của thang Quế chi có các đặc điểm sau: Thứ nhất, phát hăn để chỉ hăn (xuất mồ hôi để cầm mồ hôi). Đồng thời với xuất mồ hôi lại có khả năng dấy lên tác dụng cầm mồ hôi. Bản thân chứng Thái dương trúng phong có xuất mồ hôi, là do vệ cường doanh nhược gây ra, sau khi uống thang Quế chi và ăn cháo nóng, theo mồ hôi xuất ra mà tà của vệ phận được giải trừ, khiến cho doanh vệ điều hoà, đồng thời với xuất mồ hôi sẽ có tác dụng liễm mồ hôi. Thứ hai, xuất mồ hôi nhưng không tổn thương chính khí, cầm mồ hôi nhưng không lưu giữ bệnh tà. Thang Quế chi có thể giải cơ khứ phong, bên trong có thể điều hoà khí huyết, điều hoà tỳ vị mà điều hoà âm dương, ngoại cảm cũng được, nội thương cũng được đến các bệnh khí huyết doanh vệ bất hoà, đều có thể dùng phương này tiến hành trị liệu.
Thông qua phép gia giảm, chúng ta có thể thấy phạm vi điều trị bệnh của thang Quế chi rất rộng. Gia vị phương của thang Quế chi, như thang Quế chi gia Cát căn, thang Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử, thang Quế chi tân gia. Thang Quế chi gia Phụ tử, thang Quế chi gia Quế, thang Quế chi gia Thược dược, thang Quế chi gia Đại hoàng; Phương thang Quế chi giảm vị, như thang Quế chi khứ Quế gia Phục linh Bạch truật, thang Quế chi khứ Thược dược, không chỉ điều trị bệnh Thái dương trúng phong, mà chính là có phạm vi sử dụng thích hợp rất rộng.
13 太阳病,头痛发热,汗出恶风者,桂枝汤主之。(C14)
Điều thứ 13
Thái dương bệnh, đầu thống phát nhiệt, hăn xuất ố phong giả, quế chi thang chủ chi. C14
(Thái dương bệnh, đau đầu phát sốt, xuất mồ hôi ghét gió, thang Quế chi điều trị bệnh này)
Miêu tả của điều 14 và điều 13 tương tự nhau, nhưng không tuyệt đối đơn giản là lặp lại, mà chính là mở rộng phạm vi trị liệu của thang Quế chi. Mở đầu của Quế chi thang chứng của điều 13 viết: “Thái dương trúng phong, dương phù nhi âm nhược”, trị liệu chỉ là trong Thái dương. Đây là điều của “Thái dương bệnh”, Thái dương bệnh là bệnh ở biểu, đồng thời không nói là trúng phong, thương hàn hay là ǵ khác. V́ thế, phàm là Thái dương bệnh, trúng phong cũng được, thương hàn cũng được, các bệnh khác cũng được, nếu như xuất hiện các chứng trạng đau đầu, phát sốt, xuất mồ hôi, sợ gió, là có thể dùng thang Quế chi để điều trị. Như vậy, thang Quế chi không chỉ giới hạn ở một chứng Thái dương trúng phong, nó c̣n có ư nghĩa rộng hơn.
Tà khí gây tổn thương con người th́ rất phức tạp, tuỳ theo trạng thái biến hoá của cơ thể, mà xuất hiện các t́nh huống khác nhau, nếu như hoàn toàn chỉ dùng hai phép phong và hàn để nhận định biểu chứng th́ chính là không đầy đủ, cũng chính là không phù hợp với biến hoá bệnh lư khách quan. V́ thế, ngoài trúng phong, thương hàn lập riêng một điều, chính là Thái dương bệnh, đau đầu, phát sốt, xuất mồ hôi, sợ gió, chúng ta có thể dùng thang Quế chi. Xuất mồ hôi, sợ gió là ǵ?, Đó là chủ chứng. Chủ chứng của thang Quế chi đă xuất hiện rồi, không nghi ngờ đây đúng là chứng doanh vệ bất hoà của biểu hư, đă có thể dùng thang Quế chi.
Sau đây, tôi sẽ đưa ra một trường hợp sử dụng thang Quế chi trị liệu chứng phát sốt, xuất mồ hôi, sợ gió. Một lần khám bệnh cho một người lớn tuổi, toàn thân bị chứng tầm ma chẩn (nổi tịt trên da, cũng gọi là dị ứng) nghiêm trọng, càng về khuya bệnh càng tệ, bệnh ngứa làm mất ngủ. Tuy đây là một bệnh nhỏ, nhưng do tuổi đă cao nên cũng ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ. Đă t́m gặp nhiều đại phu, các phương thang lương huyết, thanh nhiệt, sơ phong, giải thấp độc đều đă uống qua, các vị thuốc như Bạch tiển b́, Địa phu tử, Khổ sâm, Kinh giới, Pḥng phong cũng đều đă dùng qua, tất cả đều không thu được hiệu quả tốt. Khám bệnh lần thứ nhất, bệnh nhân mạch phù mà hoăn, liền hỏi: “Ngoài chứng ngứa toàn thân c̣n có chứng trạng ǵ khác không?” Ông ta nói: “Tôi sợ gió, có lúc phát sốt, khi phát sốt th́ xuất mồ hôi, lúc xuất mồ hôi th́ sợ gió.” Đó là phù hợp với chủ chứng của Quế chi thang chứng là phát sốt, xuất mồ hôi, sợ gió, mạch phù hoăn, v́ thế người viết kiên quyết không chút do dự dùng nguyên phương thang Quế chi, đồng thời dặn ḍ bệnh nhân sau khi uống thuốc nên ăn cháo nóng, chùm mền cho xuất một chút mồ hôi. Quả nhiên, sau khi uống thuốc xuất mồ hôi, ban chẩn trên da thoái lui, bệnh giảm dần và ít ngày sau khỏi hẳn. Từ trường hợp bệnh vừa nêu, chúng ta có thể thấy tính chất quan trọng của việc nắm vững chứng trạng. Kha Vận Bá có nhiều kinh nghiệm về vấn đề này, ông ta nói dù là sốt rét, kiết lỵ, chỉ cần xuất hiện phát sốt, xuất mồ hôi, sợ gió là những chứng trạng của Thái dương bệnh, có thể dùng ngay Quế chi thang sẽ thu được hiệu quả rất tốt.
14 太阳病,项背強几几, 反汗出恶风者,桂枝加葛根汤主之。C15
Điều 14
Thái dương bệnh, hạng bối cường ki ki, phản hăn xuất ố phong giả, Quế chi gia Cát căn thang chủ chi. C15
(Thái dương bệnh, gáy lưng cứng, lại ra mồ hôi sợ gió, Quế chi gia Cát căn thang chủ về bệnh này)
Quế chi gia Cát căn thang: Cát căn 4 lạng, Thược dược 3 lạng, Cam thảo 2 lạng, Sinh khương 3 lạng, Táo 12 quả, Quế chi 2 lạng (bỏ vỏ), Ma hoàng 3 lạng (bỏ đốt)
Bảy vị trên, dùng 1 đấu nước, trước tiên sắc Ma hoàng, Cát căn giảm 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho hết thuốc vào, nấu c̣n 3 thăng, uống ấm 1 thăng, xuất hăn nhẹ tựa như có mồ hôi, không nên ăn cháo, theo như phép của thang Quế chi.
Đây là điều giới thiệu Quế chi gia Cát căn thang chứng là kiêm chứng hàng đầu của Thái dương trúng phong. Bệnh cơ của Thái dương bệnh trúng phong là phong tà xâm phạm Thái dương kinh, có các chứng trạng đầu gáy cứng đau. Nếu như tà khí tại Thái dương kinh từ gáy xuống lưng, xuất hiện lưng gáy cứng, nghiêm trọng hơn so với đầu gáy. Tán thán từ “几几” đọc là ji ji chính là h́nh dung từ, h́nh dung chứng trạng gáy lưng cứng co lại, hoạt động không tự nhiên. Người xưa cho rằng chim non lông mao chưa nhiều, muốn bay mà không bay được, sẽ đưa cổ ra phía trước, hiện tượng này gọi là “Ki” (几)Bất luận loài chim bơi trong nước như thế nào, cổ đều bất động, đă không ngoái sang trái, không trông sang phải. Vị trí Thái dương kinh thụ tà từ đầu gáy xuống đến lưng. V́ Thái dương kinh vận chuyển không thuận lợi, sẽ xuất hiện chứng trạng gáy lưng cứng ji ji, sống lưng và đầu, gáy hoạt động bị hạn chế.Xuất hiện những chứng trạng này, thường đều do hàn tà gây ra, hàn có tính thu dẫn, phát sinh cứng lưng gáy đồng thời đúng là không có mồ hôi, nhưng lại có chứng trạng xuất mồ hôi và sợ gió, v́ thế có thêm chữ “phản”, cho thấy đây chính là phong tà mà không phải hàn tà xâm phạm kinh lạc của Thái dương, cơ thấu (thớ da thịt) không thư thái.
Nhắm thẳng vào t́nh trạng bệnh này, cần phải dùng “Quế chi gia Cát căn thang chủ chi”. V́ có các chủ chứng như xuất mồ hôi, sợ gió, V́ thế dùng thang Quế chi giải cơ khứ phong; V́ gáy lưng cứng ji ji, v́ thế gia Cát căn để giải biểu thư kinh. “葛根四两走经输,项背几几反汗濡” “Cát căn tứ lượng tẩu kinh thâu, hạng bối ji ji phản hăn nhu”, Hợp theo như hiện nay bằng 12g (10 hợp là 1 thăng). Nói một cách cụ thể, thang Quế chi gia Cát căn có 3 tác dụng: Thứ nhất, Cát căn có tác dụng giải cơ khứ phong, có khả năng phụ trợ Quế chi thang giải biểu; Thứ hai, Cát căn có khả năng khai thông kinh mạch bị ngưng trệ, chủ trị gáy lưng cứng (ji ji); Thứ ba, Cắt căn có thể sinh tân dịch, có tác dụng tư nhuận kinh mạch, hoăn giải co cấp, khiến tân dịch đưa lên.
Xin đưa ra một trường hợp ứng dụng vị Cát căn. Tôi đă từng đến Môn Đầu cấu để lănh đạo một sinh viên thực tập, và tôi thấy một bệnh nhân nữ không thể mở miệng, ăn uống ǵ cũng rất khó khăn, chỉ ăn được thực phẩm dạng lỏng, Được chẩn đoán là viêm khớp hàm tại Bệnh viện Tích Thuỷ Đàm Bắc Kinh. Khám lần thứ nhất, bn khát nước, tâm phiền, mạch huyền trường, thiên về vi phù. Căn cứ theo biện chứng của Trung y, vị trí bệnh tại Túc dương minh vị kinh. “胃足阳明交鼻起,下循鼻外入上齿,还出夹口绕 承浆,颐后大迎颊车里” “Vị túc dương minh giao tỵ khởi, hạ tuần tỵ ngoại nhập thượng xỉ, hoàn xuất giáp khẩu nhiễu thừa tương, di hậu đại nghênh giáp xa lư”(Kinh Túc dương minh vị bắt đầu từ mũi, xuống hàm trên, đi quanh miệng qua Đại nghênh, Giáp xa ). Chính tại vị trí Giáp xa. V́ thế, người viết dùng 24g Cát căn để khai thông kinh mạch, 20g Thạch cao để thanh nhiệt ở khí phận, lại gia thêm 4 vị thuốc khác, uống hết 3 thang, đă có thể mở miệng, cũng có thể ăn uống tạm được. Uống hết 6 thang, bệnh khỏi hoàn toàn, ăn uống không c̣n trở ngại.
Ngoài ra, {Thương hàn luận} ghi lại phương thang này có vị Ma hoàng, căn cứ theo sửa đổi của Lâm Ức thời nhà Tống cho rằng có Ma hoàng là sai lầm. V́ có xuất mồ hôi th́ không dùng Ma hoàng. Cách nh́n nhận vấn đề như vậy là chính xác.
15 太阳病;下之后,其气上冲者,可与桂枝汤,方用前法。若不上冲者,不可与之。C16
Điều 15
Thái dương bệnh; Hạ chi hậu, kỳ khí thượng xung giả, khả dữ Quế chi thang, phương dụng tiền pháp. Nhược bất thượng xung giả, bất khả dữ chi.C16
(Thái dương bệnh; Sau khi dùng phép hạ, mà khí xung lên, có thể dùng thang Quế chi, phép dùng như ở phần trước. Nếu không thượng xung, th́ không thể dùng (thang Quế chi)
Điều này giảng về Thái dương bệnh sau khi hạ nhầm, nên căn cứ năng lực kháng tà của chính khí và biểu chứng có tồn tại hay không để quyết định phép trị liệu. “Thái dương bệnh” là bệnh tại biểu, trúng phong cũng được, thương hàn cũng được, đều nên phát hăn mà không nên tả hạ. “Hạ chi hậu”(Sau khi hạ), xuất hiện “Kỳ khí thượng xung giả, khả dữ Quế chi thang” (Khí xung lên có thể uống thang Quế chi), theo ư của câu văn, “Kỳ khí” chính là chỉ khí của Thái dương, “Thượng xung” chính là so sánh với nội hăm (hăm ở trong). Trong {Thương hàn luận} có khi nói về nội hăm, có lúc nói về thượng xung, thí dụ như trong Thái dương bệnh có điều như vậy, “Thái dương bệnh mạch phù nhi động sác….Y giả hạ chi, động sác biến tŕ…..,dương khí nội hăm, tâm hạ nhân ngạnh, tắc vi kết hung.” (Thái dương bệnh mạch phù mà sác (nhịp đập nhanh)…..Thày thuốc lại dùng thuốc tả hạ, mạch sác biến thành mạch tŕ (chậm)….., dương khí hăm ở trong, dưới tâm cứng, thành chứng kết hung) Đó chính tà ở Thái dương hăm ở trong biến thành chứng kết hung. Đương nhiên là Thái dương bệnh sau khi hạ nhầm dương khí nội hăm, cũng có thể biến thành bệnh khác.
V́ sao khí của Thái dương lại thượng xung? Điều này có quan hệ với đặc điểm sinh lư của Thái dương, khí Thái dương từ hạ tiêu, đấu tranh cùng tà khí ở thể biểu chính là từ trong ra ngoài, cho nên xuất hiện “Kỳ khí thượng xung”. Tà khí khách biểu (khách=Tà khí tồn tại ngoài ư thức), khí Thái dương c̣n có khả năng “Thượng xung”, điều này cho thấy khí này c̣n khả năng đấu tranh với tà khí. Trong {Thương hàn luận} c̣n một số nơi có những mô tả có liên quan đến khí xung lên, đều có những vị trí cụ thể. Thí dụ như, Linh quế truật cam thang chứng chính là “Tâm hạ nghịch măn, khí thượng xung hung”(Tâm hạ nghịch đầy, khí xung lên ngực); Quế chi gia Quế thang chứng chính là “Ṭng thiểu phúc khí thượng xung tâm giả”(Từ bụng dưới khí xung lêm tim); Qua đế tán chứng chính là “Khí thượng xung yết hầu”(Khí xung lên cổ họng). Nhưng, duy có điều này không nói đến vị trí cụ thể, ư tại ngôn ngoại (ư ở ngoài lời), khí xung lên này chính là nói về tà khí ở thể biểu, không hăm ở bên trong thành kết hung. Khí Thái dương chủ biểu, v́ thế khí Thái dương xung lên không thể xung lên lồng ngực, tâm, cổ họng hoặc các vị trí khác, mà chính là khí hành ở biểu (đi ở bên ngoài). Lại có ư là biểu tà không hăm ở trong, chính và tà đấu tranh chính là ở thể biểu. . Cũng có y gia cá biệt cho rằng, gọi là “Kỳ khí thượng xung” chính là nhấn mạnh ngoại trừ biểu chứng của Thái dương bệnh như Mạch phù, sợ lạnh, phát sốt, c̣n có kinh chứng như đầu gáy cứng đau. V́ thế, tuy bị hạ nhầm, dương khí không hăm vào trong, biểu chứng c̣n chưa giải trừ, v́ thế c̣n có thể phát hăn. Thái dương bệnh sau khi tả hạ, trúng phong cũng được, thương hàn cũng được, tà khi tuy không hăm vào trong, chính khí cũng bị một phen chèn ép, lúc này muốn phát hăn không cần dùng thang Ma hoàng, “Khả dữ Quế chi thang” (co thể dùng thang Quế chi). Phép đề nghị phương thang sử dụng khác nhau trong {Thương hàn luận}, ta thấy có: “Chủ chi”, có “nghi” , “khả dữ”, ư nghĩa của chúng cũng khác nhau. “Chủ chi” chính là ư của quyết định lâm sàng, cũng chính là không thể không dùng phương này. “Nghi” (nên) và “Chủ chi” có ư tứ gần giống nhau. “Khả dữ” (có thể với) và “Chủ chi”, “Nghi” có sự khác biệt lớn, chính là phép thiết lập có ư dự báo biến hoá, có kèm theo giọng điệu thương thảo nhất định. “Nhược bất thượng xung giả, bất khả dữ chi” (Nếu không xung lên th́ không thể dùng), Nếu như không có chứng trạng xung lên, là có hàm ư biểu chứng đă hết, mà có thêm vấn đề mới, không thể uống thang Quế chi được. Như vậy, xuất hiện vấn đề mới là ǵ? Nội dung ở điều sau.
16 太阳病三日,已发汗,若吐,若下,若温针,仍不解者,此为坏病,桂枝不中 与之也。观其脉证,知犯何逆,随证治之。C17
Điều 16
Thái dương bệnh tam nhật, dĩ phát hăn, nhược thổ, nhược hạ, nhược ôn châm, nhưng bất giải giả, thử vi hoại bệnh, quế chi bất trung dữ chi dă. Quan kỳ mạch chứng, tri phạm hà nghịch, tuỳ chứng trị chi. C17
Điều 16
Thái dương thụ bệnh đă 3 ngày, đă phát hăn, nếu đă dùng phép thổ, phép hạ, ôn châm nhưng bệnh không giải, đó là hoại bệnh (biến chứng do ngộ trị), không thể dùng thang Quế chi. Xem xét mạch và chứng, xem phạm vào điều nghịch nào, nên theo chứng để trị liệu.
Điều này chỉ ra nguyên tắc điều trị hoại bệnh (biến chứng do điều trị sai lầm). “Thái dương bệnh ba ngày”, đối với thời gian ở đây không cần máy móc cứng nhắc. Trong quăng thời gian này, đă dùng phép phát hăn, hoặc thổ pháp, hoặc hạ, hoặc phép ôn châm, “nhưng bất giải giả”(không giải được bệnh), tuy nhiên Thái dương bệnh đă giải, nhưng đă phát sinh ra các bệnh khác, cho nên nói là bệnh này vẫn cứ không giải. “Thử vi hoại bệnh”(Đó là biến chứng do ngộ trị), lúc này bất luận xuất hiện chứng trạng như thế nào, đều có thể gọi là hoại bệnh. Cái ǵ gọi là hoại bệnh? Chính là nói về chứng đă trải qua ngộ trị, Chứng chính là Thái dương biểu chứng, hoại là đă trải qua không c̣n tồn tại. Đương nhiên, hoàn toàn không phải là cứ ngộ trị th́ đều h́nh thành hoại bệnh. Điều kế trên viết: “Thái dương bệnh, hạ chi hậu, kỳ khí thượng xung, khả dữ Quế chi thang”, Tuy đă cũng chính là ngộ trị, nhưng c̣n không trị hoại, khí Thái dương c̣n ở thể biểu để đấu tranh, v́ thế c̣n có thể dùng thang Quế chi. (Tóm lại nếu Thái dương biểu chứng sau khi điều trị nhầm biến thành một chứng khác th́ gọi là hoại chứng, nếu c̣n là Thái dương biểu chứng th́ không phải là hoại chứng, vẫn có thể dùng thang Quế chi)
Điều thứ 17 tiếp sát điều thứ 16 mà nói. Nếu như chứng trạng chính không tồn tại, mà ngoài ra có chứng trạng khác xuất hiện, như thế “Quế chi bất trúng dữ chi dă”, cũng là nói “Nhược bất thượng xung giả, bất khả dữ chi” (Không thể dùng thang Quế chi), vậy phương thang nào được dùng để trị liệu và chăm sóc sau đó? Trương Trọng Cảnh đề xuất một nguyên tắc: “Quan kỳ mạch chứng, tri phạm hà nghịch, tuỳ chứng trị chi” (观其脉证,知犯何逆,随证治之。), sau khi ngộ trị xuất hiện hoại bệnh có thực có hư, có hàn có nhiệt, có khí phận có huyết phận, v́ thế chỉ có thể đề xuất nguyên tắc trị liệu: Chữ “Quan” của “Quan kỳ mạch chứng” rất trọng yếu, chính là quan sát chi tiết. Chỉ khi rất tỉ mỉ, thật cẩn thận để thẩm tra mạch và chứng, mới có thể “Tri phạm hà nghịch”, biết phạm vào cái sai lầm nào, xuất hiện những vấn đề ǵ, sau đó là “Tuỳ chứng trị chi”(Tuỳ chứng mà trị). “Tuỳ”, có ư là tuỳ thuận. Tuỳ thuận yêu cầu khách quan của chứng trạng, tiến hành trị liệu thoả đáng.
{Thương hàn luận} có tới 1/3 các thiên giảng về hoại bệnh sau khi ngộ trị. V́ thế, không cần phải nói thêm về ư nghĩa chỉ đạo của bài viết này.
16 桂枝本为解肌,若其人脉浮紧,发热汗不出者,不可与之也。常须识此, 勿令误也。C18
Điều 16
Quế chi bản vi giải cơ, nhược kỳ nhân mạch phù khẩn, phát nhiệt hăn bất xuất giả, bất khả dữ chi dă. Thường tu thức thử, vật linh ngộ dă.C18
Điều 16
Căn bản của thang Quế chi là giải cơ, nếu bệnh nhân mạch phù khẩn, phát nhiệt không xuất mồ hôi, không thể dùng, nên biết như vậy, đừng dùng nhầm.
Điều này và hai điều sau (điều 19 và điều 20), đều nói về những cấm kỵ của thang Quế chi. Đồng thời với đề xuất những chứng thích ứng với thang Quế chi, lại đề xuất các chứng cấm kỵ của thang Quế chi, đến những t́nh huống sau khi sử dụng sai lầm (ngộ dụng), như vậy chính là theo hai phương diện đúng và sai (chính phản) minh xác được ứng dụng lâm sàng của thang Quế chi, để không phạm sai lầm trên phương diện trị liệu.
Điều này nói về chứng Thái dương thương hàn biểu thực không xuất mồ hôi chính là chứng cấm kỵ của thang Quế chi.“Quế chi bản vi giải cơ” (Căn bản của Quế chi là giải cơ), tỏ rơ điểm khác biệt ư nghĩa phát hăn của thang Quế chi và thang Ma hoàng. “Mạch phù khẩn, phát nhiệt hăn bất xuất giả”( Mạch phù khẩn, phát sốt, không xuất mồ hôi) chính là Ma hoàng thang chứng, mà trong thang Quế chi có vị thuốc tư bổ thu liễm, lực phát hăn rất nhỏ, chỉ có khả năng giải cơ mà thôi. Nếu như ngộ dụng (dùng nhầm) thang Quế chi, hăn (mồ hôi) càng không xuất ra được, sẽ xuất hiện Đại thanh long thang chứng là không xuất mồ hôi và bực bội khó chịu.
“常须识此,勿令误也” Thường tu thức thử, vật linh ngộ dă (Luôn biết điều này, đừng để sai lầm) chính là lời dặn ḍ, nhắc nhở. “biết” đọc là trí (zhi), là hiểu rơ, ư là ghi nhớ. Cũng chính là khi lâm sàng y sinh phải ghi nhớ kỹ trong ḷng, không được xem thường, nếu không sẽ phạm sai lầm. Ngoài ra, liên quan đến chữ “thường” “常”trong “Thường tu thức thử”, có y gia cho rằng đây là chữ “Đương”(当).
Quế chi thang chứng và Ma hoàng thang chứng đều là Thái dương biểu chứng, nên có cộng tính nhất định, v́ thế chỉ cần một chút lơ là, sẽ rất dễ phạm sai lầm, cho nên Trương sư muốn đặc biệt nhấn mạnh điều này.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-11-25 15:21:21
Từ điều 17 đến điều 23
17若酒客病,不可与桂枝汤,得汤则呕,以酒客不喜甘故也。C19
Điều 17
Nhược tửu khách bệnh, bất khả dữ Quế chi thang, đắc thang tắc ẩu, dĩ tửu khách bất hỉ cam cố dă. C19
“Người uống rượu bị bệnh, không thể uống thang Quế chi, uống vào sẽ khiến bệnh nhân ẩu thổ, v́ người uống rượu không ưa vị ngọt”
“Tửu khách” là người thích rượu. Liên quan đến “Tửu khách bệnh”, có hai cách nh́n khác nhau. Có nhà chú thích cho rằng điều này chính là giải thích Quế chi thang chứng, chính là nói tửu khách đă bị Thái dương trúng phong, thời điểm ứng dụng thang Quế chi, th́ cần t́m hiểu các đặc điểm của tửu khách, trung tiêu của họ luôn luôn có thấp nhiệt lưu lại. Xét từ vọng chẩn, luôn luôn thấy đầu mũi hồng, lưỡi to, có ứ điểm hoặc ứ ban, rêu lưỡi vàng nhầy. Do vị ngọt trợ thấp sinh nhiệt, có người cho rằng ở thời điểm dùng Quế chi thang cho tửu khách, nên bỏ các vị thuốc có vị ngọt như Cam thảo, Đại táo, gia Thượng Cát hoa, Chỉ bái tử,v.v.. là những vị thuốc thanh lợi tửu tà. Nếu không làm như vậy, sẽ “Đắc thang tắc ẩu, dĩ tửu khách bất hỉ cam cố dă” (Uống vào gây nôn, v́ người uống rượu không thích vị ngọt) vị thuốc ngọt có hại đối với thấp nhiệt.
Có nhà chú thích cho rằng điều “Tửu khách bệnh” này không phải Thái dương trúng phong bệnh. Tửu khách bệnh do uống rượu một thời gian dài mà phát sinh bệnh, các chứng trạng tương tự như Quế chi thang chứng, có thể thấy phát nhiệt, sợ gió, oẹ khan, bệnh cơ chính là vị phủ có thấp nhiệt dẫn khí doanh vệ vận hành không thuận lợi. Như vậy “Tửu khách bệnh” không phải là Thái dương trúng phong bệnh, nếu dùng thang Quế chi th́ chính là sai lầm. V́ vị tràng của tửu khách có thấp nhiệt, không chỉ không dùng vị ngọt như Cam thảo, Đại táo, mà c̣n không thể dùng các vị thuốc tân ôn (cay ấm) như Quế chi Sinh khương. 《Y tông Kim Giám》 giữ quan điểm này.
19凡服桂枝汤吐者,其后必吐脓血也。C21
Điều 19
Phàm phục Quế chi thang thổ giả, kỳ hậu tất thổ nùng huyết dă C21
Dịch: Phàm uống thang Quế chi mà thổ, sau đó tất sẽ thổ ra máu mủ
Nếu như có người uống thang Quế chi xuất hiện ẩu thổ, có khả năng sau đó sẽ thổ ra máu mủ. Đó là bệnh ǵ? Bệnh nhân có thể có bệnh mụn nhọt ở trong người, hoặc là phế thống (đau phổi) hoặc là vị ung (nhọt ở dạ dày). Người có mụn nhọt trong tạng phủ khí huyết không thuận lợi, doanh vệ bất hoà, sẽ xuất hiện các chứng trạng như sợ lạnh, phát sốt tương tự như thương hàn Quế chi thang chứng, nếu như dùng nhầm thang Quế chi, sẽ trợ nhiệt làm tăng nặng chứng ung nhọt ở bên trong, xuất hiện thổ mủ thổ máu. Tổng kết các điều ở trên, các chứng cấm kỵ của thang Quế chi bao gồm; Biểu thực không được dùng thang Quế chi; Người uống rượu có thấp nhiệt không uống thang Quế chi; Bên trong cơ thể có mụn nhọt mủ không dùng thang Quế chi; Thái dương bệnh sau khi hạ, mà khí không xung lên (thượng xung) th́ không dùng thang Quế chi; Một số hoại bệnh (biến chứng) không dùng thang Quế chi. Xem xét trên lâm sàng, bất luận là Phế nhiệt, vị nhiệt, can nhiệt, hoặc có thấp ở bên trong, đều không được dùng thang Quế chi. Đương nhiên, những điều trên chỉ là những thí dụ, xét rộng ra hơn, trường hợp không được dùng thang Quế chi không chỉ giới hạn như vậy,thí dụ như bệnh ôn, phong ôn cũng là những bệnh không được dùng thang Quế chi.
18喘家作桂枝汤,加厚朴杏子佳。
Điều 18
Suyễn gia tác Quế chi thang, gia Hậu phác Hạnh tử giai.
Người bệnh suyễn uống thang Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử th́ tốt
Phương Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang: Trong phương Quế chi, gia Hậu phác 2 lạng, Hạnh nhân 50 hạt, bỏ vỏ và đầu nhọn, , c̣n lại theo phép như trước. Điều này giới thiệu Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang chứng là kiêm chứng hàng đầu của Thái dương trúng phong. “Suyễn gia” là chỉ bệnh nhân có bệnh khí suyễn. Nếu như người bệnh suyễn lại bị bệnh Thái dương trúng phong, chính là trong bệnh mới lại có bệnh cũ. T́nh huống này thường hay gặp trên lâm sàng. Bệnh nhân khí suyễn căn bản có phế khia không thuận lợi, cơ biểu dễ thụ tà, một khi bệnh nhân bị bệnh Thái dương trúng phong, bệnh suyễn sẽ tăng nặng. Xuất hiện loại t́nh huống này, đồng thời với việc sử dụng thang Quế chi để giải quyết chứng Thái dương trúng phong, nếu như dùng Hậu phác, Hạnh tử (hạnh nhân) b́nh phế định suyễn th́ càng “tốt”.
Chữ “Tốt” c̣n bao hàm một tầng ư tứ, là dùng Hậu phác, Hạnh tử là liệu pháp đối chứng, đồng thời không giải trừ bệnh suyễn từ căn bản.
Trị suyễn trên lâm sàng thường dùng hai phương thang, một là Ma hạnh cam cao thang, hiện tại phương này được dùng khá nhiều, một phương thang khác là Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang, ứng dụng được nhưng không phổ biến nhiều. Trên lâm sàng thượng ngộ dụng (dùng nhầm) thang Ma hạnh Cam Cao để trị liệu t́nh huống suyễn của Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang chứng. Lăo đại phu Bồ Phụ Chu, trong y án có ghi lại một trường hợp, một em bé được chẩn đoán và trị liệu, chính là phong tà tác suyễn dùng nhầm Ma hạnh Cam Cao thang, kết quả sau khi uống thuốc sốt cao không hạ, đi tả, sau đó mời Bồ lăo tiên sinh đến, đầu tiên dùng Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang, tiếp đến dùng Xạ can ma hoàng thang, Bệnh đă được trị liệu tốt. Và là y án nêu rơ được vấn đề.
20太阳病,发汗,遂漏不止,其人恶风,小便难,四肢微急,难以屈伸者,桂枝 加附子汤主之。(C22)
Điều 20
Thái dương bệnh, phát hăn, toại lậu bất chỉ, kỳ nhân ố phong, tiểu tiện nan, tứ chi vi cấp, nan dĩ khuất thân giả, Quế chi gia Phụ tử thang chủ chi.C22
Dịch: Thái dương bệnh, phát hăn, mồ hôi ra măi không ngừng, bệnh nhân ghét gió, tiểu tiện khó, tứ chi co quắp nhẹ, khó co duỗi, thang Quế chi gia Phụ tử chủ trị bệnh này.
Phương thang Quế chi gia Phụ tử: Phương thang Quế chi gia Phụ tử 1 củ, nướng, bỏ vỏ, đập vỡ làm 8 miếng, c̣n lại theo phép (của thang Quế chi).
Điều này nói về chứng trạng và trị liệu của trường hợp phát hăn quá độ gây tổn thương dương khí mà biểu chứng chưa được giải. Thái dương bệnh đúng ra là nên phát hăn, nhưng nếu phát hăn thái quá, xuất hiện “Toại lậu bất chỉ ” (Mồ hôi ra măi không ngừng), cũng chính là ngộ trị (điều trị sai lầm), “Lậu= Ṛ rỉ” là không thể khống chế t́nh trạng xuất hăn. Trung y gọi loại mồ hôi này là “lậu hăn”. Vệ khí có chức năng điều khiển mở đóng, khống chế chức năng đóng mở của tấu lư (thớ thịt) và huyền phủ (lỗ chân lông). Nếu như khí của vệ dương không có khả năng đóng lại, sẽ xuất hiện chứng “Lậu hăn”(Ṛ rỉ mồ hôi không ngừng). Liên quan đến nguyên nhân lậu hăn của điều này(điều 22), một số nhà chú thích cho rằng chính là Thái dương trúng phong chứng uống nhầm thang Ma hoàng. V́ thế, ở điều này (điều 22) và câu “Quế chi căn bản là giải cơ” ở điều 18 chính là hỗ tương đối chiếu cho nhận định trên. Quế chi thang chứng lại uống nhầm thang Ma hoàng, chính là đă hư lại thêm hư, nguyên nhân v́ vốn đă có mồ hôi, lại dùng thang Ma hoàng có tác dụng phát hăn mănh liệt, làm cho vệ khí càng hư tổn hơn, doanh khí cũng yếu nhược hơn, v́ thế nên mồ hôi xuất ra ṛ rỉ không ngừng.
Quế chi thang chứng đă ngộ phục (uống nhầm) thang Ma hoàng, dương không giữ được âm, vệ không làm cho biểu kiên cố vững chắc, mồ hôi sẽ ṛ rỉ không ngừng. Xét theo phương pháp sắc và uống của thang Quế chi, biểu chứng cũng chưa được giải quyết, mồ hôi càng ra nhiều, biểu chứng ngược lại không được giải quyết, chính là ứng với câu nói ở thang Quế chi “Vi tựa hữu hăn giả ích giai, bất khả linh như thuỷ lưu li, bệnh tất bất trừ” (微似有汗者益佳,不可令如水流离,病必不除)Tựa như có một chút mồ hôi th́ tốt, không thể như nước chảy, bệnh sẽ không trừ được. Do mồ hôi ṛ rỉ không ngừng, vệ dương bị tổn hại, cộng thêm phong tà chưa được giải trừ, v́ thế cảm giác sợ gió nặng hơn so với trước khi xuất mồ hôi.
“Tiểu tiện khó, tứ chi co quắp nhẹ, khó co duỗi”, Do phát hăn quá nhiều, nên đă tổn thương dương lại tổn thương âm, làm cho tân dịch tàng chứa trong bàng quang (Châu đô chi quan, tân dịch tàng yên) cũng ít đi, khí cũng lạnh lẽo, làm cho tiểu tiện khó khăn; “Tứ chi là căn cản của chư dương”, “Dương khí giả, tinh th́ nuôi dưỡng thần, mềm mại nuôi gân”, dương khí đă hư tổn, tân dịch ít, cơ nhục, gân mạch không được nuôi dưỡng sưởi ấm, tứ chi sẽ co quắp, co duỗi khó khăn.
Đối với loại t́nh huống này, nên dùng “Quế chi gia phụ tử thang chủ chi”. Mâu thuẫn chủ yếu của bệnh này là “Hăn lậu bất chỉ” (Mồ hôi ṛ rỉ không ngừng), v́ thế dùng thang Quế chi điều hoà doanh vệ, giải cơ khứ phong, đồng thời gia thêm Phụ tử vị thuốc cay ấm rất nóng, có khả năng bổ nguyên dương của Thiếu âm, tăng cường tác dụng phù dương ôn kinh củng cố thể biểu, khiến cho mồ hôi ngừng lại. Dương khí có đủ khả năng cố mật (làm dày đặc kín đáo) tân dịch, khiễn mồ hôi không xuất, tiểu tiện khó khăn, tứ chi co quắp nhẹ, co duỗi khó tự nhiên cũng được giải quyết. Điều này thể hiện được đặc điểm nắm vững mâu thuẫn chủ yếu khi điều trị bệnh của Trương tiên sư. Tuy bệnh nhân âm dịch không đủ, nhưng chỉ cần dương khí chặt chẽ, âm dịch nhờ vào thuỷ cốc ẩm thực tự do phát triển cũng có thể hoá sinh được, từ đó có khả năng bổ sung ở trên, và sẽ “đắc tiểu tiện lợi, tất tự dũ” (得小便 利,必自愈)Tiểu tiện thuận lợi, bệnh tự khỏi.
Điều cần nhấn mạnh chính là, chứng lậu hăn của biểu dương hư, không dùng Phụ tử là không thể. Hư chứng xuất hăn đă có nguyên nhân ở khí hư, cũng có nguyên nhân ở dương hư. Đối với chứng khí hư xuất hăn, có thể dùng thang Bổ trung ích khí hoặc thang Bảo nguyên của Lư Đông Viên để giải quyết vấn đề. Đối với chứng xuất hăn do Phế khí hư, c̣n có thể dùng Hoàng kỳ để cầm mồ hôi, đối với chứng dương hư mồ hôi ṛ rỉ không ngừng, thuộc khí vệ dương của thái dương không giữ vững tân dịch, dùng các loại như Hoàng kỳ, Tiểu mạch, Long cốt, Mẫu lệ đều vô hiệu, đây là trường hợp phải dùng Phụ tử, v́ chứng lậu hăn chính là đầu mối của chứng vong dương.
Người viết có một bệnh nhân là người nhà của một đồng sự, bị chứng tự hăn, do xuất hăn quá nhiều nên thân thể rất suy nhược, lại c̣n rất dễ bị cảm mạo. Người viết và đồng sự đều có chung nhận định là hư chứng, dùng các loại thuốc bổ khí huyết như Hoàng kỳ, Đảng sâm, thậm chí dùng Hoàng kỳ (đến 1 lạng), vấn đề xuất hăn vẫn không được giải quyết. Sau đó, người viết dùng thang Quế chi gia Phụ tử, mồ hôi không xuất ra nữa.


21太阳病,下之后,脉促胸满者,桂枝去芍药汤主之。C23
Điều 21
Thái dương bệnh, hạ chi hậu, mạch xúc hung măn giả, Quế chi khứ Thược dược thang chủ chi. C23
Điều 21
Thái dương bệnh, sau khi dùng phép hạ, mạch xúc lồng ngực đầy, thang Quế chi khứ Thược dược chủ trị bệnh này.C23
22若微恶寒者,去芍药方 中,加附子汤主之。(C23)
Nhược vi ố hàn giả, khứ thược dược phương trung, gia Phụ tử thang chủ chi. C23
Nếu sợ lạnh nhẹ, khứ Thược dược trong phương, gia Phụ tử thang chủ trị bệnh này.

Quế chi khứ Thược dược thang phương:
Trong phương thang Quế chi, khứ Thược dược, c̣n lại làm theo phép.
Phương thang Quế chi khứ Thược dược gia Phụ tử:
Trong phương thang Quế chi, khứ Thược dược, gia Phụ tử 1 củ, nướng, bỏ vỏ, phách ra làm 8, c̣n lại theo như phép trước.
Điều này giới thiệu kiêm chứng (chứng kèm theo) của Thái dương trúng phong. “Thái dương bệnh, hạ chi hậu”, hạ nhầm sẽ có thể dẫn đến tà của Thái dương từ biểu nhập vào lư. “Mạch xúc hung muộn giả” (脉促胸满者)Măn đọc khứ thanh thành chữ Muộn. Hung măn (lồng ngực đầy) cho thấy tà khí đă xâm phạm lồng ngực. Đương nhiên, Trên lâm sàng khi xuất hiện chứng trạng lồng ngực đầy th́ không phải đều là do Thái dương bệnh ngộ hạ gây ra, không cần giáo điều đối với vấn đề ngộ hạ.
Trên cơ thể có hai nơi gọi là Khí hải, Trong lồng ngực là nợi hội tụ của Tôn khí, gọi là Khí hải trên; Dưới rốn 3 thốn là nơi hội tụ của khí gọi là Đan điền, được gọi là Khí hải dưới. Trung y học cho rằng “胸为阳位似天空” (Hung vi dương vị tựa thiên không)Lồng ngực là vị trí dương tựa như bầu trời (Trần Tu Viên), “Hung thị tâm phế chi cung thành dă” (胸是心肺之宫城也)Lồng ngực cung điện thành luỹ của tâm phế. Khí của Phế gọi là Vệ, khí của Tâm gọi là Doanh, Doanh Vệ mở mang đều chính là bắt đầu từ lồng ngực, thượng tiêu mở mang, lan toả vị ngũ cốc, ấm áp da thịt, thân thể sung túc, lông tóc mượt mà, tưới tắm như sương sa, gọi là vị khí.” Bởi v́, biểu của Thái dương và lồng ngực chính là cận kề nhau, “Tà khí nhập lư thủ tiên hung” (邪气入里首先胸)Tà khí nhập lư trước tiên là vào lồng ngực. Xúc giả, tốc dă, bách dă (Mạch xúc là mạnh nhanh và cấp bách). Mạch xúc ở đây không phải chỉ “Sác mạch khiêu lục chí nhất chỉ” (Mạch sác đập 6 chí ngừng một lần), mà chỉ về mạch đập rất nhanh, trên thực tế có ư chỉ về mạch sác. V́ cái ǵ mà hung măn lại đồng thời xuất hiện với mạch xúc? Mạch xúc thuộc dương mạch, tà khí đă từ biểu vào lồng ngực, dương khí của tâm hung liền đề kháng, mạch liền nhanh. “Đại, Phù, Sác, Động, Hoạt là các mạch dương”, phản ảnh dương khí c̣n khả năng đấu tranh với tà khí. Ngoài ra, cũng thấy được một phương diện không đầy đủ của chính khí. Nếu tà khí không hăm vào lồng ngực, làm sao ngực lại đầy? Đây không phải là vấn đề của khí thượng xung. Ngực tuy cận kề với biểu, nhưng lồng ngực không phải là biểu. Lúc này khí của hung dương ở vào địa vị bất lợi, tuy vậy vẫn c̣n khả năng đề kháng bệnh tà, mạch c̣n gắng gượng nhanh, nhưng đă lực bất ṭng tâm rồi.
Đối với loại t́nh huống này, cần phải “Quế chi khứ Thược dược thang chủ chi”(Dùng thang Quế chi khứ Thược dược để điều trị bệnh). V́ sao phải khứ Thược dược? Có hai nguyên nhân, thứ nhất, Thược dược vị chua, nhập huyết phận và âm phận, đối với khí của hung dương không thuận lợi, v́ thề cần giảm khứ. Căn cứ theo chuẩn mực dụng dược của Trương Trọng Cảnh, lồng ngực là dương, phàm khi dương của lồng ngực không thuận lợi sẽ xuất hiện lồng ngực đầy, đều phải khứ Thược dược, bụng là âm, phàm tỳ âm bất lợi sẽ xuất hiện đầy bụng th́ đều gia Thược dược. “V́ thế, khứ Thược dược là tránh âm để cứu dương”. Thứ hai là e ngại Thược dược ảnh hưởng đến các tác dụng như tuyên phát(lan toả), thăng lên, chấn hưng của Quế chi. Sau khi giảm khứ Thược dược, trong thang Quế chi c̣n lại là những vị thuốc tân cam (cay ngọt). Quế chi và chích Cam thảo đă thành thang Quế chi Cam thảo, có tác dụng bổ tâm dương. Bổ tâm dương tức là chấn hưng(phấn khởi) dương của lồng ngực, V́ lồng ngực là cung điện là thành tŕ của Tâm Phế, Tâm chính là dương trong Thái dương, thông với khí mùa Hạ. Đại táo và Sinh khương có thể điều hoà doanh vệ, kiêm khả năng phù tŕ chính khí, có tác dụng phụ tá. Thông qua ứng dụng của các vị thuốc tân cam (cay ngọt), có thể khiến tà khí từ lồng ngực trở lại biểu.
“Nhược vi ố hàn giả”( 若微恶寒者)Nếu hơi ghét lạnh, trong phương khứ Thược dược cần gia thêm Phụ tử. Có nhà chú thích cho rằng “Nhược vi ố hàn” chính là mạch vi mà sợ gió, như vậy là không đúng. Hơi sợ lạnh cho thấy dương của lồng ngực không vững vàng, mà dương khí cũng đă suy yếu rồi. Nếu như xuất hiện dương hư sợ lạnh, lực lượng của thang Quế chi khứ Thược dược là quá nhỏ, nên gia thêm Phụ tử th́ lực lượng chấn hưng dương khí của tâm hung sẽ lớn mạnh. Trên lâm sàng đối với bệnh của lồng ngực, bao gồm bệnh hung tí trong Kim Quỹ Yếu Lược, nếu như xuất hiện hung măn, hoặc đau ngực xuyên sang lưng, đau lưng xuyên sang tâm, hoặc hơi thở ngắn, hoặc ho, chỉ cần thuộc dương của lồng ngực hư tổn mà khí âm hàn lại tương đối nhiều, th́ thang Quế chi khứ Thược dược gia Phụ tử sẽ thu được hiệu quả như ư.
Người viết trong thời gian công tác tại y viện Đông Trực Môn, cùng với các y sinh khám bệnh Tôi đă thấy một nhân viên của một công ty xây dựng họ Wang, có triệu chứng chính là nghẹt thở, trở nên tồi tệ hơn vào ban đêm, cũng như ho và ớn lạnh. Khi tôi chẩn mạch , mạch đập chậm và nặng nề, và chất lưỡi th́ nhạt và to, đây là một hội chứng dương hư điển h́nh, v́ vậy Quế chi thang khứ Thược dược gia Phụ tử được sử dụng, và thu hiệu quả rất tốt.
23太阳病,得之八九日,如疟状,发热恶寒,热多寒少,其人不呕,清便欲自可,一日二三度发,脉微缓者,为欲愈也。脉微而恶寒者,此阴阳俱虚,不可更发汗、更下、更吐也。面色反有热色者,未欲解也,以其不能得小汗出,身必痒,宜桂枝麻黄各半汤。C24

Điều 23
Thái dương bệnh, đắc chi 8,9 nhật, như ngược trạng, phát nhiệt ố hàn, nhiệt đa hàn thiểu, kỳ nhân bất ẩu, thanh tiện dục tự khả, nhất nhật nhị tam độ phát, mạch vi hoăn giả, vi dục dũ dă. Mạch vi nhi ố hàn giả, thử âm dương câu hư, bất khả canh phát hăn, canh hạ, canh thổ dă. Diện sắc phản hữu nhiệt sắc giả, vị dục giải dă, dĩ kỳ bất năng đắc tiểu hăn xuất, thân tất dưỡng, nghi Quế chi Ma hoàng các bán thang. C24
Dịch: Thái dương bệnh, bị 8,9 ngày, giống như sốt rét, phát sốt ghét lạnh, sốt nhiều lạnh ít, bệnh nhân không nôn, đại tiện có thể tự ḿnh, một ngày 2,3 lần, mạch vi hoăn, là bệnh muốn khỏi. Mạch vi mà ghét lạnh, là âm dương đều hư, không thể hăn, hạ, thổ. Sắc mặt lại có có sắc nóng là bệnh chưa muốn giải, v́ chưa xuất một chút mồ hôi, thân thể phát ngứa, nên dùng Quế chi Ma hoàng các bán thang.
Phương thang Quế chi Ma hoàng các bán thang: Quế chi 1 lạng 16 thù (1 thù =1/24 lạng) bỏ vỏ Thược dược Sinh khương thái Cam thảo chích Ma hoàng đều 1 lạng, bỏ đốt, Đại táo 4 quả (bổ) Hạnh nhân 24 hạt, bỏ đầu nhọn và hạt sinh đôi (độc tính cao), 7 vị thuốc trên dùng 5 thăng nước, đầu tiên sắc vị Ma hoàng sôi một hai dạo vớt bỏ bọt, cho hết thuốc vào, đun c̣n lại 1 thăng 8 hợp (hợp = 1/10 thăng), bỏ bă, uống lúc thuốc c̣n ấm 6 hợp.
Sau đây sẽ giới thiệu 3 tiểu phương pháp phát hăn, và một số vấn đề xuất hiện trong quá tŕnh uống thang Quế chi. Điều này có thể phân thành 3 đoạn, phân biệt chính là 3 loại t́nh huống của diễn biến Thái dương bệnh.
“Thái dương bệnh, đắc chi 8,9 nhật, như ngược trạng, phát nhiệt ố hàn, nhiệt đa hàn thiểu, kỳ nhân bất ẩu, thanh tiện dục tự khả, nhất nhật nhị tam độ phát, mạch vi hoăn giả, vi dục dũ dă” là một loại t́nh huống; “Mạch vi nhi ố hàn giả, thử âm dương câu hư, bất khả canh phát hăn, canh hạ, canh thổ dă.”chính là một loại t́nh huống; “Diện sắc phản hữu nhiệt sắc giả, vị dục giải dă, dĩ kỳ bất năng đắc tiểu hăn xuất, thân tất dưỡng, nghi Quế chi Ma hoàng các bán thang.” Chính là một loại t́nh huống. Có thể thấy có khi không chữa mà tự khỏi; Có khi phát triển thành biểu lư đều hư; Có khi tiểu tà lưu luyến ở giữa doanh vệ mà không đi, cần xuất một chút mồ hôi, để giải quyết vấn đề.
“Thái dương bệnh đă 8,9 ngày”, câu này như một cái mũ của 3 đoạn văn. Thời gian này khá dài rồi. “Thái dương bệnh, đau đầu 7 ngày trở lên là tự khỏi, đă đi hết kinh mạch của nó ”, đến ngày thứ bảy là đến kỳ hạn trở lại, bệnh đang tốt lại không tốt; “Nhược dục tác tái kinh giả”, bệnh đang truyền kinh cũng không truyền kinh. Tại tiền đề này, xuất hiện “Như ngược trạng, phát nhiệt ố hàn”, là giống như sốt rét, chính là một trận lạnh một trận nóng, mà “Nhiệt đa hàn thiểu) nóng nhiều lạnh ít, chính điểm này đă có ư nghĩa biện chứng.
Trong quá tŕnh của Thái dương bệnh, nếu như ghét lạnh nhiều, phát nhiệt ít, cho thấy tà khí chiếm thượng phong, biểu chứng khá nặng; Nếu phát nhiệt nhiều, ghét lạnh ít, cho thấy biểu tà khá nhẹ, năng lực kháng bệnh tà khá mạnh. Nhiệt đại biểu cho dương khí, hàn đại biểu cho tà khí.

“Nhất nhật nhị tam độ phát” nên tiếp tại “Nhiệt đa hàn thiểu”, chính là nói loại phát nhiệt ghét lạnh, nhiệt nhiều hàn ít, giống như sốt rét ngày phát 2,3 lần. Đây là phép viết văn thời nhà Hán, gọi là Đâu đầu bút pháp, câu tử như vậy gọi là câu đảo trang (là phép tu từ). Cho thấy biểu tà khá nhẹ, khí thái dương chiếm ưu thế. Ngoại trừ quan sát t́nh huống của biểu chứng, c̣n cần xem xét có lư chứng hay không. “Kỳ nhân bất ẩu, thanh tiện dục tự khả”, “bất ẩu” (không nôn) phản ảnh vị khí hoà; “Thanh tiện dục tự khả” (清便欲自可), có nhà chú thích cho rằng chữ “dục” (欲)nên đổi thành chữ “tục” (续), chính là đại tiện thường xuyên duy tŕ không sai, phản ảnh lư khí hoà (khí bên trong ḥa). “Mạch vi hoăn giả” mạch tuy mềm yếu, nhưng rất hoà hoăn, cho thấy cơ thể điều hoà. Trong trường hợp nay “Vi dục dũ dă”, cho thấy bệnh sẽ khỏi, chính khí ở vào giai đoạn hồi phục. “Mạch vi nhi ố hàn giả, thử âm dương câu hư, bất khả canh phát hăn, canh hạ, canh thổ dă.”Thái dương bệnh 8,9 ngày, mạch phù khẩn biến thành mạch vi. Chữ “vi” này chính là vi mạch, không giống “vi” trong “mạch vi hoăn” là được dùng làm từ h́nh dung. “Vi mạch khinh vi phách phách hồ, án chi dục tuyệt hữu như vô, vi vi dương nhược tế âm nhược, tế tỉ vu vi lược giác thô”, (Mạch vi nhịp đập nhẹ nhàng, ấn tay muốn hết như có như không, vi là dương nhược, tế là âm nhược, mạch tế so với mạch vi th́ mạch tế hơi thô), mạch vi là mạch bé và yếu hơn mạch tế, phản ảnh dương khí suy yếu, khí huyết không đủ. Loại mạch này nhịp đập tựa như có tựa như không, vô cùng vi nhược (bé và yếu), người xưa thường lấy váng dầu mỡ trong nước canh làm thí dụ. Đồng thời với mạch vi, lại xuất hiện ghét lạnh, cũng phản ảnh dương khí thái dương hư mà có khuynh hướng biến thành Thiếu âm bệnh, v́ thế nói “Thử âm dương câu hư”(Âm dương đều hư).

Liên quan đến “Âm dương câu hư”, có hai loại giải thích. Một loại là khí Thái dương, khí Thiếu âm đều hư.Nguyên bản của bệnh này là Thái dương bệnh, lại xuất hiện mạch vi của Thiếu âm, “Thiếu âm chi vi bệnh, mạch vi tế, đăn dục mị dă”(Thiếu âm bệnh, mạch vi tế, nhưng muốn ngủ), v́ thế dương khí của Thái dương, Thiếu âm đều đă hư. Một loại khác là biểu lư đều hư. Thực ra, hai loại giải thích này bản chất là giống nhau. Đối với t́nh trạng bệnh này, nên dùng phép ôn bổ để trị liệu, có nhà chú thích cho rằng nên dùng thang Cam thảo Thược dược Phụ tử thang, cũng có nhà chú thích cho rằng nên dùng Đương quy tứ nghịch thang, mà “Bất khả canh phát hăn, canh hạ, canh thổ dă”, cần nhanh chóng phù tŕ chính khí củng cố căn bản, không thể lại khứ tà.
“Diện sắc phản hữu nhiệt sắc giả, vị dục giải dă, dĩ kỳ bất năng hữu tiểu hăn xuất, thân tất dưỡng, nghi Quế chi Ma hoàng các bán thang.” Thái dương bệnh 8,9 ngày, mà c̣n phát nhiệt, chính là do khí Thái dương bế uất gây ra, hàm ư là c̣n biểu tà. Càng nóng, sẽ xuất hiện khuôn mặt có nhiệt sắc, cũng chính là khuôn mặt ửng đỏ. “Vị dục giải dă”, đó là bệnh không tốt, v́ sao không tốt ? “Dĩ kỳ bất năng đắc tiểu hăn xuất” (Chưa thể xuất một chút mồ hôi) th́ chưa thể giải quyết vấn đề biểu chứng. V́ sao cần phát hăn nhẹ? V́ Thái dương bệnh đă 8,9 ngày, bệnh thế đă chậm, chỉ là một chút tà khí bế uất dương khí. “Thân tất dưỡng”(Thân thể ngứa), là ngứa ngoài da. Tà khí khá mạnh, thông thường sẽ xuất hiện cơ thể da thịt bị ngứa. Dương khí bế uất khá nặng, thông thường sẽ xuất hiện thân thể nặng nề. Chỉ v́ dương khí bế uất nên không xuất được mồ hôi, khiến thân thể bị ngứa.
Đối với t́nh huống này, “Nên dùng Quế chi Ma hoàng các bán thang” , lấy tễ lượng của hai phương rồi lấy một nửa. Quế chi Ma hoàng các bán thang chính là phép tiểu hăn (phương pháp phát hăn nhẹ). Quế chi Ma hoàng các bán thang, Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang, Quế chi nhị Việt t́ nhất thang đều dùng Quế chi thang là chủ phương, như vậy vừa có thể phát hăn, lại có thể tư dưỡng chính khí.
Quế chi Ma hoàng các bán thang trên thực tế chính là thang Quế chi gia Ma hoàng, Hạnh nhân, bất quá chỉ là phân lượng nhỏ, căn cứ tễ lượng trên y thư, “Quế chi nhất lạng thập lục thù, cam thược khương ma nhất lạng cụ, hạnh trập tứ mai táo tứ lạp, diện tŕnh nhiệt sắc dưỡng quân khu”. Là hai phương hợp thành một, biến chế thang thuốc lớn thành thang thuốc nhỏ, mà mục đích chính là để cho thuốc không quá mạnh so với bệnh. Đó chính là phép tiểu hăn, cũng là phép phát hăn kết hợp giữa Quế chi và Ma hoàng.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-11-25 15:21:22
Từ điều 17 đến điều 23
17若酒客病,不可与桂枝汤,得汤则呕,以酒客不喜甘故也。C19
Điều 17
Nhược tửu khách bệnh, bất khả dữ Quế chi thang, đắc thang tắc ẩu, dĩ tửu khách bất hỉ cam cố dă. C19
“Người uống rượu bị bệnh, không thể uống thang Quế chi, uống vào sẽ khiến bệnh nhân ẩu thổ, v́ người uống rượu không ưa vị ngọt”
“Tửu khách” là người thích rượu. Liên quan đến “Tửu khách bệnh”, có hai cách nh́n khác nhau. Có nhà chú thích cho rằng điều này chính là giải thích Quế chi thang chứng, chính là nói tửu khách đă bị Thái dương trúng phong, thời điểm ứng dụng thang Quế chi, th́ cần t́m hiểu các đặc điểm của tửu khách, trung tiêu của họ luôn luôn có thấp nhiệt lưu lại. Xét từ vọng chẩn, luôn luôn thấy đầu mũi hồng, lưỡi to, có ứ điểm hoặc ứ ban, rêu lưỡi vàng nhầy. Do vị ngọt trợ thấp sinh nhiệt, có người cho rằng ở thời điểm dùng Quế chi thang cho tửu khách, nên bỏ các vị thuốc có vị ngọt như Cam thảo, Đại táo, gia Thượng Cát hoa, Chỉ bái tử,v.v.. là những vị thuốc thanh lợi tửu tà. Nếu không làm như vậy, sẽ “Đắc thang tắc ẩu, dĩ tửu khách bất hỉ cam cố dă” (Uống vào gây nôn, v́ người uống rượu không thích vị ngọt) vị thuốc ngọt có hại đối với thấp nhiệt.
Có nhà chú thích cho rằng điều “Tửu khách bệnh” này không phải Thái dương trúng phong bệnh. Tửu khách bệnh do uống rượu một thời gian dài mà phát sinh bệnh, các chứng trạng tương tự như Quế chi thang chứng, có thể thấy phát nhiệt, sợ gió, oẹ khan, bệnh cơ chính là vị phủ có thấp nhiệt dẫn khí doanh vệ vận hành không thuận lợi. Như vậy “Tửu khách bệnh” không phải là Thái dương trúng phong bệnh, nếu dùng thang Quế chi th́ chính là sai lầm. V́ vị tràng của tửu khách có thấp nhiệt, không chỉ không dùng vị ngọt như Cam thảo, Đại táo, mà c̣n không thể dùng các vị thuốc tân ôn (cay ấm) như Quế chi Sinh khương. 《Y tông Kim Giám》 giữ quan điểm này.
19凡服桂枝汤吐者,其后必吐脓血也。C21
Điều 19
Phàm phục Quế chi thang thổ giả, kỳ hậu tất thổ nùng huyết dă C21
Dịch: Phàm uống thang Quế chi mà thổ, sau đó tất sẽ thổ ra máu mủ
Nếu như có người uống thang Quế chi xuất hiện ẩu thổ, có khả năng sau đó sẽ thổ ra máu mủ. Đó là bệnh ǵ? Bệnh nhân có thể có bệnh mụn nhọt ở trong người, hoặc là phế thống (đau phổi) hoặc là vị ung (nhọt ở dạ dày). Người có mụn nhọt trong tạng phủ khí huyết không thuận lợi, doanh vệ bất hoà, sẽ xuất hiện các chứng trạng như sợ lạnh, phát sốt tương tự như thương hàn Quế chi thang chứng, nếu như dùng nhầm thang Quế chi, sẽ trợ nhiệt làm tăng nặng chứng ung nhọt ở bên trong, xuất hiện thổ mủ thổ máu. Tổng kết các điều ở trên, các chứng cấm kỵ của thang Quế chi bao gồm; Biểu thực không được dùng thang Quế chi; Người uống rượu có thấp nhiệt không uống thang Quế chi; Bên trong cơ thể có mụn nhọt mủ không dùng thang Quế chi; Thái dương bệnh sau khi hạ, mà khí không xung lên (thượng xung) th́ không dùng thang Quế chi; Một số hoại bệnh (biến chứng) không dùng thang Quế chi. Xem xét trên lâm sàng, bất luận là Phế nhiệt, vị nhiệt, can nhiệt, hoặc có thấp ở bên trong, đều không được dùng thang Quế chi. Đương nhiên, những điều trên chỉ là những thí dụ, xét rộng ra hơn, trường hợp không được dùng thang Quế chi không chỉ giới hạn như vậy,thí dụ như bệnh ôn, phong ôn cũng là những bệnh không được dùng thang Quế chi.
18喘家作桂枝汤,加厚朴杏子佳。
Điều 18
Suyễn gia tác Quế chi thang, gia Hậu phác Hạnh tử giai.
Người bệnh suyễn uống thang Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử th́ tốt
Phương Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang: Trong phương Quế chi, gia Hậu phác 2 lạng, Hạnh nhân 50 hạt, bỏ vỏ và đầu nhọn, , c̣n lại theo phép như trước. Điều này giới thiệu Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang chứng là kiêm chứng hàng đầu của Thái dương trúng phong. “Suyễn gia” là chỉ bệnh nhân có bệnh khí suyễn. Nếu như người bệnh suyễn lại bị bệnh Thái dương trúng phong, chính là trong bệnh mới lại có bệnh cũ. T́nh huống này thường hay gặp trên lâm sàng. Bệnh nhân khí suyễn căn bản có phế khia không thuận lợi, cơ biểu dễ thụ tà, một khi bệnh nhân bị bệnh Thái dương trúng phong, bệnh suyễn sẽ tăng nặng. Xuất hiện loại t́nh huống này, đồng thời với việc sử dụng thang Quế chi để giải quyết chứng Thái dương trúng phong, nếu như dùng Hậu phác, Hạnh tử (hạnh nhân) b́nh phế định suyễn th́ càng “tốt”.
Chữ “Tốt” c̣n bao hàm một tầng ư tứ, là dùng Hậu phác, Hạnh tử là liệu pháp đối chứng, đồng thời không giải trừ bệnh suyễn từ căn bản.
Trị suyễn trên lâm sàng thường dùng hai phương thang, một là Ma hạnh cam cao thang, hiện tại phương này được dùng khá nhiều, một phương thang khác là Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang, ứng dụng được nhưng không phổ biến nhiều. Trên lâm sàng thượng ngộ dụng (dùng nhầm) thang Ma hạnh Cam Cao để trị liệu t́nh huống suyễn của Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang chứng. Lăo đại phu Bồ Phụ Chu, trong y án có ghi lại một trường hợp, một em bé được chẩn đoán và trị liệu, chính là phong tà tác suyễn dùng nhầm Ma hạnh Cam Cao thang, kết quả sau khi uống thuốc sốt cao không hạ, đi tả, sau đó mời Bồ lăo tiên sinh đến, đầu tiên dùng Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử thang, tiếp đến dùng Xạ can ma hoàng thang, Bệnh đă được trị liệu tốt. Và là y án nêu rơ được vấn đề.
20太阳病,发汗,遂漏不止,其人恶风,小便难,四肢微急,难以屈伸者,桂枝 加附子汤主之。(C22)
Điều 20
Thái dương bệnh, phát hăn, toại lậu bất chỉ, kỳ nhân ố phong, tiểu tiện nan, tứ chi vi cấp, nan dĩ khuất thân giả, Quế chi gia Phụ tử thang chủ chi.C22
Dịch: Thái dương bệnh, phát hăn, mồ hôi ra măi không ngừng, bệnh nhân ghét gió, tiểu tiện khó, tứ chi co quắp nhẹ, khó co duỗi, thang Quế chi gia Phụ tử chủ trị bệnh này.
Phương thang Quế chi gia Phụ tử: Phương thang Quế chi gia Phụ tử 1 củ, nướng, bỏ vỏ, đập vỡ làm 8 miếng, c̣n lại theo phép (của thang Quế chi).
Điều này nói về chứng trạng và trị liệu của trường hợp phát hăn quá độ gây tổn thương dương khí mà biểu chứng chưa được giải. Thái dương bệnh đúng ra là nên phát hăn, nhưng nếu phát hăn thái quá, xuất hiện “Toại lậu bất chỉ ” (Mồ hôi ra măi không ngừng), cũng chính là ngộ trị (điều trị sai lầm), “Lậu= Ṛ rỉ” là không thể khống chế t́nh trạng xuất hăn. Trung y gọi loại mồ hôi này là “lậu hăn”. Vệ khí có chức năng điều khiển mở đóng, khống chế chức năng đóng mở của tấu lư (thớ thịt) và huyền phủ (lỗ chân lông). Nếu như khí của vệ dương không có khả năng đóng lại, sẽ xuất hiện chứng “Lậu hăn”(Ṛ rỉ mồ hôi không ngừng). Liên quan đến nguyên nhân lậu hăn của điều này(điều 22), một số nhà chú thích cho rằng chính là Thái dương trúng phong chứng uống nhầm thang Ma hoàng. V́ thế, ở điều này (điều 22) và câu “Quế chi căn bản là giải cơ” ở điều 18 chính là hỗ tương đối chiếu cho nhận định trên. Quế chi thang chứng lại uống nhầm thang Ma hoàng, chính là đă hư lại thêm hư, nguyên nhân v́ vốn đă có mồ hôi, lại dùng thang Ma hoàng có tác dụng phát hăn mănh liệt, làm cho vệ khí càng hư tổn hơn, doanh khí cũng yếu nhược hơn, v́ thế nên mồ hôi xuất ra ṛ rỉ không ngừng.
Quế chi thang chứng đă ngộ phục (uống nhầm) thang Ma hoàng, dương không giữ được âm, vệ không làm cho biểu kiên cố vững chắc, mồ hôi sẽ ṛ rỉ không ngừng. Xét theo phương pháp sắc và uống của thang Quế chi, biểu chứng cũng chưa được giải quyết, mồ hôi càng ra nhiều, biểu chứng ngược lại không được giải quyết, chính là ứng với câu nói ở thang Quế chi “Vi tựa hữu hăn giả ích giai, bất khả linh như thuỷ lưu li, bệnh tất bất trừ” (微似有汗者益佳,不可令如水流离,病必不除)Tựa như có một chút mồ hôi th́ tốt, không thể như nước chảy, bệnh sẽ không trừ được. Do mồ hôi ṛ rỉ không ngừng, vệ dương bị tổn hại, cộng thêm phong tà chưa được giải trừ, v́ thế cảm giác sợ gió nặng hơn so với trước khi xuất mồ hôi.
“Tiểu tiện khó, tứ chi co quắp nhẹ, khó co duỗi”, Do phát hăn quá nhiều, nên đă tổn thương dương lại tổn thương âm, làm cho tân dịch tàng chứa trong bàng quang (Châu đô chi quan, tân dịch tàng yên) cũng ít đi, khí cũng lạnh lẽo, làm cho tiểu tiện khó khăn; “Tứ chi là căn cản của chư dương”, “Dương khí giả, tinh th́ nuôi dưỡng thần, mềm mại nuôi gân”, dương khí đă hư tổn, tân dịch ít, cơ nhục, gân mạch không được nuôi dưỡng sưởi ấm, tứ chi sẽ co quắp, co duỗi khó khăn.
Đối với loại t́nh huống này, nên dùng “Quế chi gia phụ tử thang chủ chi”. Mâu thuẫn chủ yếu của bệnh này là “Hăn lậu bất chỉ” (Mồ hôi ṛ rỉ không ngừng), v́ thế dùng thang Quế chi điều hoà doanh vệ, giải cơ khứ phong, đồng thời gia thêm Phụ tử vị thuốc cay ấm rất nóng, có khả năng bổ nguyên dương của Thiếu âm, tăng cường tác dụng phù dương ôn kinh củng cố thể biểu, khiến cho mồ hôi ngừng lại. Dương khí có đủ khả năng cố mật (làm dày đặc kín đáo) tân dịch, khiễn mồ hôi không xuất, tiểu tiện khó khăn, tứ chi co quắp nhẹ, co duỗi khó tự nhiên cũng được giải quyết. Điều này thể hiện được đặc điểm nắm vững mâu thuẫn chủ yếu khi điều trị bệnh của Trương tiên sư. Tuy bệnh nhân âm dịch không đủ, nhưng chỉ cần dương khí chặt chẽ, âm dịch nhờ vào thuỷ cốc ẩm thực tự do phát triển cũng có thể hoá sinh được, từ đó có khả năng bổ sung ở trên, và sẽ “đắc tiểu tiện lợi, tất tự dũ” (得小便 利,必自愈)Tiểu tiện thuận lợi, bệnh tự khỏi.
Điều cần nhấn mạnh chính là, chứng lậu hăn của biểu dương hư, không dùng Phụ tử là không thể. Hư chứng xuất hăn đă có nguyên nhân ở khí hư, cũng có nguyên nhân ở dương hư. Đối với chứng khí hư xuất hăn, có thể dùng thang Bổ trung ích khí hoặc thang Bảo nguyên của Lư Đông Viên để giải quyết vấn đề. Đối với chứng xuất hăn do Phế khí hư, c̣n có thể dùng Hoàng kỳ để cầm mồ hôi, đối với chứng dương hư mồ hôi ṛ rỉ không ngừng, thuộc khí vệ dương của thái dương không giữ vững tân dịch, dùng các loại như Hoàng kỳ, Tiểu mạch, Long cốt, Mẫu lệ đều vô hiệu, đây là trường hợp phải dùng Phụ tử, v́ chứng lậu hăn chính là đầu mối của chứng vong dương.
Người viết có một bệnh nhân là người nhà của một đồng sự, bị chứng tự hăn, do xuất hăn quá nhiều nên thân thể rất suy nhược, lại c̣n rất dễ bị cảm mạo. Người viết và đồng sự đều có chung nhận định là hư chứng, dùng các loại thuốc bổ khí huyết như Hoàng kỳ, Đảng sâm, thậm chí dùng Hoàng kỳ (đến 1 lạng), vấn đề xuất hăn vẫn không được giải quyết. Sau đó, người viết dùng thang Quế chi gia Phụ tử, mồ hôi không xuất ra nữa.


21太阳病,下之后,脉促胸满者,桂枝去芍药汤主之。C23
Điều 21
Thái dương bệnh, hạ chi hậu, mạch xúc hung măn giả, Quế chi khứ Thược dược thang chủ chi. C23
Điều 21
Thái dương bệnh, sau khi dùng phép hạ, mạch xúc lồng ngực đầy, thang Quế chi khứ Thược dược chủ trị bệnh này.C23
22若微恶寒者,去芍药方 中,加附子汤主之。(C23)
Nhược vi ố hàn giả, khứ thược dược phương trung, gia Phụ tử thang chủ chi. C23
Nếu sợ lạnh nhẹ, khứ Thược dược trong phương, gia Phụ tử thang chủ trị bệnh này.

Quế chi khứ Thược dược thang phương:
Trong phương thang Quế chi, khứ Thược dược, c̣n lại làm theo phép.
Phương thang Quế chi khứ Thược dược gia Phụ tử:
Trong phương thang Quế chi, khứ Thược dược, gia Phụ tử 1 củ, nướng, bỏ vỏ, phách ra làm 8, c̣n lại theo như phép trước.
Điều này giới thiệu kiêm chứng (chứng kèm theo) của Thái dương trúng phong. “Thái dương bệnh, hạ chi hậu”, hạ nhầm sẽ có thể dẫn đến tà của Thái dương từ biểu nhập vào lư. “Mạch xúc hung muộn giả” (脉促胸满者)Măn đọc khứ thanh thành chữ Muộn. Hung măn (lồng ngực đầy) cho thấy tà khí đă xâm phạm lồng ngực. Đương nhiên, Trên lâm sàng khi xuất hiện chứng trạng lồng ngực đầy th́ không phải đều là do Thái dương bệnh ngộ hạ gây ra, không cần giáo điều đối với vấn đề ngộ hạ.
Trên cơ thể có hai nơi gọi là Khí hải, Trong lồng ngực là nợi hội tụ của Tôn khí, gọi là Khí hải trên; Dưới rốn 3 thốn là nơi hội tụ của khí gọi là Đan điền, được gọi là Khí hải dưới. Trung y học cho rằng “胸为阳位似天空” (Hung vi dương vị tựa thiên không)Lồng ngực là vị trí dương tựa như bầu trời (Trần Tu Viên), “Hung thị tâm phế chi cung thành dă” (胸是心肺之宫城也)Lồng ngực cung điện thành luỹ của tâm phế. Khí của Phế gọi là Vệ, khí của Tâm gọi là Doanh, Doanh Vệ mở mang đều chính là bắt đầu từ lồng ngực, thượng tiêu mở mang, lan toả vị ngũ cốc, ấm áp da thịt, thân thể sung túc, lông tóc mượt mà, tưới tắm như sương sa, gọi là vị khí.” Bởi v́, biểu của Thái dương và lồng ngực chính là cận kề nhau, “Tà khí nhập lư thủ tiên hung” (邪气入里首先胸)Tà khí nhập lư trước tiên là vào lồng ngực. Xúc giả, tốc dă, bách dă (Mạch xúc là mạnh nhanh và cấp bách). Mạch xúc ở đây không phải chỉ “Sác mạch khiêu lục chí nhất chỉ” (Mạch sác đập 6 chí ngừng một lần), mà chỉ về mạch đập rất nhanh, trên thực tế có ư chỉ về mạch sác. V́ cái ǵ mà hung măn lại đồng thời xuất hiện với mạch xúc? Mạch xúc thuộc dương mạch, tà khí đă từ biểu vào lồng ngực, dương khí của tâm hung liền đề kháng, mạch liền nhanh. “Đại, Phù, Sác, Động, Hoạt là các mạch dương”, phản ảnh dương khí c̣n khả năng đấu tranh với tà khí. Ngoài ra, cũng thấy được một phương diện không đầy đủ của chính khí. Nếu tà khí không hăm vào lồng ngực, làm sao ngực lại đầy? Đây không phải là vấn đề của khí thượng xung. Ngực tuy cận kề với biểu, nhưng lồng ngực không phải là biểu. Lúc này khí của hung dương ở vào địa vị bất lợi, tuy vậy vẫn c̣n khả năng đề kháng bệnh tà, mạch c̣n gắng gượng nhanh, nhưng đă lực bất ṭng tâm rồi.
Đối với loại t́nh huống này, cần phải “Quế chi khứ Thược dược thang chủ chi”(Dùng thang Quế chi khứ Thược dược để điều trị bệnh). V́ sao phải khứ Thược dược? Có hai nguyên nhân, thứ nhất, Thược dược vị chua, nhập huyết phận và âm phận, đối với khí của hung dương không thuận lợi, v́ thề cần giảm khứ. Căn cứ theo chuẩn mực dụng dược của Trương Trọng Cảnh, lồng ngực là dương, phàm khi dương của lồng ngực không thuận lợi sẽ xuất hiện lồng ngực đầy, đều phải khứ Thược dược, bụng là âm, phàm tỳ âm bất lợi sẽ xuất hiện đầy bụng th́ đều gia Thược dược. “V́ thế, khứ Thược dược là tránh âm để cứu dương”. Thứ hai là e ngại Thược dược ảnh hưởng đến các tác dụng như tuyên phát(lan toả), thăng lên, chấn hưng của Quế chi. Sau khi giảm khứ Thược dược, trong thang Quế chi c̣n lại là những vị thuốc tân cam (cay ngọt). Quế chi và chích Cam thảo đă thành thang Quế chi Cam thảo, có tác dụng bổ tâm dương. Bổ tâm dương tức là chấn hưng(phấn khởi) dương của lồng ngực, V́ lồng ngực là cung điện là thành tŕ của Tâm Phế, Tâm chính là dương trong Thái dương, thông với khí mùa Hạ. Đại táo và Sinh khương có thể điều hoà doanh vệ, kiêm khả năng phù tŕ chính khí, có tác dụng phụ tá. Thông qua ứng dụng của các vị thuốc tân cam (cay ngọt), có thể khiến tà khí từ lồng ngực trở lại biểu.
“Nhược vi ố hàn giả”( 若微恶寒者)Nếu hơi ghét lạnh, trong phương khứ Thược dược cần gia thêm Phụ tử. Có nhà chú thích cho rằng “Nhược vi ố hàn” chính là mạch vi mà sợ gió, như vậy là không đúng. Hơi sợ lạnh cho thấy dương của lồng ngực không vững vàng, mà dương khí cũng đă suy yếu rồi. Nếu như xuất hiện dương hư sợ lạnh, lực lượng của thang Quế chi khứ Thược dược là quá nhỏ, nên gia thêm Phụ tử th́ lực lượng chấn hưng dương khí của tâm hung sẽ lớn mạnh. Trên lâm sàng đối với bệnh của lồng ngực, bao gồm bệnh hung tí trong Kim Quỹ Yếu Lược, nếu như xuất hiện hung măn, hoặc đau ngực xuyên sang lưng, đau lưng xuyên sang tâm, hoặc hơi thở ngắn, hoặc ho, chỉ cần thuộc dương của lồng ngực hư tổn mà khí âm hàn lại tương đối nhiều, th́ thang Quế chi khứ Thược dược gia Phụ tử sẽ thu được hiệu quả như ư.
Người viết trong thời gian công tác tại y viện Đông Trực Môn, cùng với các y sinh khám bệnh Tôi đă thấy một nhân viên của một công ty xây dựng họ Wang, có triệu chứng chính là nghẹt thở, trở nên tồi tệ hơn vào ban đêm, cũng như ho và ớn lạnh. Khi tôi chẩn mạch , mạch đập chậm và nặng nề, và chất lưỡi th́ nhạt và to, đây là một hội chứng dương hư điển h́nh, v́ vậy Quế chi thang khứ Thược dược gia Phụ tử được sử dụng, và thu hiệu quả rất tốt.
23太阳病,得之八九日,如疟状,发热恶寒,热多寒少,其人不呕,清便欲自可,一日二三度发,脉微缓者,为欲愈也。脉微而恶寒者,此阴阳俱虚,不可更发汗、更下、更吐也。面色反有热色者,未欲解也,以其不能得小汗出,身必痒,宜桂枝麻黄各半汤。C24

Điều 23
Thái dương bệnh, đắc chi 8,9 nhật, như ngược trạng, phát nhiệt ố hàn, nhiệt đa hàn thiểu, kỳ nhân bất ẩu, thanh tiện dục tự khả, nhất nhật nhị tam độ phát, mạch vi hoăn giả, vi dục dũ dă. Mạch vi nhi ố hàn giả, thử âm dương câu hư, bất khả canh phát hăn, canh hạ, canh thổ dă. Diện sắc phản hữu nhiệt sắc giả, vị dục giải dă, dĩ kỳ bất năng đắc tiểu hăn xuất, thân tất dưỡng, nghi Quế chi Ma hoàng các bán thang. C24
Dịch: Thái dương bệnh, bị 8,9 ngày, giống như sốt rét, phát sốt ghét lạnh, sốt nhiều lạnh ít, bệnh nhân không nôn, đại tiện có thể tự ḿnh, một ngày 2,3 lần, mạch vi hoăn, là bệnh muốn khỏi. Mạch vi mà ghét lạnh, là âm dương đều hư, không thể hăn, hạ, thổ. Sắc mặt lại có có sắc nóng là bệnh chưa muốn giải, v́ chưa xuất một chút mồ hôi, thân thể phát ngứa, nên dùng Quế chi Ma hoàng các bán thang.
Phương thang Quế chi Ma hoàng các bán thang: Quế chi 1 lạng 16 thù (1 thù =1/24 lạng) bỏ vỏ Thược dược Sinh khương thái Cam thảo chích Ma hoàng đều 1 lạng, bỏ đốt, Đại táo 4 quả (bổ) Hạnh nhân 24 hạt, bỏ đầu nhọn và hạt sinh đôi (độc tính cao), 7 vị thuốc trên dùng 5 thăng nước, đầu tiên sắc vị Ma hoàng sôi một hai dạo vớt bỏ bọt, cho hết thuốc vào, đun c̣n lại 1 thăng 8 hợp (hợp = 1/10 thăng), bỏ bă, uống lúc thuốc c̣n ấm 6 hợp.
Sau đây sẽ giới thiệu 3 tiểu phương pháp phát hăn, và một số vấn đề xuất hiện trong quá tŕnh uống thang Quế chi. Điều này có thể phân thành 3 đoạn, phân biệt chính là 3 loại t́nh huống của diễn biến Thái dương bệnh.
“Thái dương bệnh, đắc chi 8,9 nhật, như ngược trạng, phát nhiệt ố hàn, nhiệt đa hàn thiểu, kỳ nhân bất ẩu, thanh tiện dục tự khả, nhất nhật nhị tam độ phát, mạch vi hoăn giả, vi dục dũ dă” là một loại t́nh huống; “Mạch vi nhi ố hàn giả, thử âm dương câu hư, bất khả canh phát hăn, canh hạ, canh thổ dă.”chính là một loại t́nh huống; “Diện sắc phản hữu nhiệt sắc giả, vị dục giải dă, dĩ kỳ bất năng đắc tiểu hăn xuất, thân tất dưỡng, nghi Quế chi Ma hoàng các bán thang.” Chính là một loại t́nh huống. Có thể thấy có khi không chữa mà tự khỏi; Có khi phát triển thành biểu lư đều hư; Có khi tiểu tà lưu luyến ở giữa doanh vệ mà không đi, cần xuất một chút mồ hôi, để giải quyết vấn đề.
“Thái dương bệnh đă 8,9 ngày”, câu này như một cái mũ của 3 đoạn văn. Thời gian này khá dài rồi. “Thái dương bệnh, đau đầu 7 ngày trở lên là tự khỏi, đă đi hết kinh mạch của nó ”, đến ngày thứ bảy là đến kỳ hạn trở lại, bệnh đang tốt lại không tốt; “Nhược dục tác tái kinh giả”, bệnh đang truyền kinh cũng không truyền kinh. Tại tiền đề này, xuất hiện “Như ngược trạng, phát nhiệt ố hàn”, là giống như sốt rét, chính là một trận lạnh một trận nóng, mà “Nhiệt đa hàn thiểu) nóng nhiều lạnh ít, chính điểm này đă có ư nghĩa biện chứng.
Trong quá tŕnh của Thái dương bệnh, nếu như ghét lạnh nhiều, phát nhiệt ít, cho thấy tà khí chiếm thượng phong, biểu chứng khá nặng; Nếu phát nhiệt nhiều, ghét lạnh ít, cho thấy biểu tà khá nhẹ, năng lực kháng bệnh tà khá mạnh. Nhiệt đại biểu cho dương khí, hàn đại biểu cho tà khí.

“Nhất nhật nhị tam độ phát” nên tiếp tại “Nhiệt đa hàn thiểu”, chính là nói loại phát nhiệt ghét lạnh, nhiệt nhiều hàn ít, giống như sốt rét ngày phát 2,3 lần. Đây là phép viết văn thời nhà Hán, gọi là Đâu đầu bút pháp, câu tử như vậy gọi là câu đảo trang (là phép tu từ). Cho thấy biểu tà khá nhẹ, khí thái dương chiếm ưu thế. Ngoại trừ quan sát t́nh huống của biểu chứng, c̣n cần xem xét có lư chứng hay không. “Kỳ nhân bất ẩu, thanh tiện dục tự khả”, “bất ẩu” (không nôn) phản ảnh vị khí hoà; “Thanh tiện dục tự khả” (清便欲自可), có nhà chú thích cho rằng chữ “dục” (欲)nên đổi thành chữ “tục” (续), chính là đại tiện thường xuyên duy tŕ không sai, phản ảnh lư khí hoà (khí bên trong ḥa). “Mạch vi hoăn giả” mạch tuy mềm yếu, nhưng rất hoà hoăn, cho thấy cơ thể điều hoà. Trong trường hợp nay “Vi dục dũ dă”, cho thấy bệnh sẽ khỏi, chính khí ở vào giai đoạn hồi phục. “Mạch vi nhi ố hàn giả, thử âm dương câu hư, bất khả canh phát hăn, canh hạ, canh thổ dă.”Thái dương bệnh 8,9 ngày, mạch phù khẩn biến thành mạch vi. Chữ “vi” này chính là vi mạch, không giống “vi” trong “mạch vi hoăn” là được dùng làm từ h́nh dung. “Vi mạch khinh vi phách phách hồ, án chi dục tuyệt hữu như vô, vi vi dương nhược tế âm nhược, tế tỉ vu vi lược giác thô”, (Mạch vi nhịp đập nhẹ nhàng, ấn tay muốn hết như có như không, vi là dương nhược, tế là âm nhược, mạch tế so với mạch vi th́ mạch tế hơi thô), mạch vi là mạch bé và yếu hơn mạch tế, phản ảnh dương khí suy yếu, khí huyết không đủ. Loại mạch này nhịp đập tựa như có tựa như không, vô cùng vi nhược (bé và yếu), người xưa thường lấy váng dầu mỡ trong nước canh làm thí dụ. Đồng thời với mạch vi, lại xuất hiện ghét lạnh, cũng phản ảnh dương khí thái dương hư mà có khuynh hướng biến thành Thiếu âm bệnh, v́ thế nói “Thử âm dương câu hư”(Âm dương đều hư).

Liên quan đến “Âm dương câu hư”, có hai loại giải thích. Một loại là khí Thái dương, khí Thiếu âm đều hư.Nguyên bản của bệnh này là Thái dương bệnh, lại xuất hiện mạch vi của Thiếu âm, “Thiếu âm chi vi bệnh, mạch vi tế, đăn dục mị dă”(Thiếu âm bệnh, mạch vi tế, nhưng muốn ngủ), v́ thế dương khí của Thái dương, Thiếu âm đều đă hư. Một loại khác là biểu lư đều hư. Thực ra, hai loại giải thích này bản chất là giống nhau. Đối với t́nh trạng bệnh này, nên dùng phép ôn bổ để trị liệu, có nhà chú thích cho rằng nên dùng thang Cam thảo Thược dược Phụ tử thang, cũng có nhà chú thích cho rằng nên dùng Đương quy tứ nghịch thang, mà “Bất khả canh phát hăn, canh hạ, canh thổ dă”, cần nhanh chóng phù tŕ chính khí củng cố căn bản, không thể lại khứ tà.
“Diện sắc phản hữu nhiệt sắc giả, vị dục giải dă, dĩ kỳ bất năng hữu tiểu hăn xuất, thân tất dưỡng, nghi Quế chi Ma hoàng các bán thang.” Thái dương bệnh 8,9 ngày, mà c̣n phát nhiệt, chính là do khí Thái dương bế uất gây ra, hàm ư là c̣n biểu tà. Càng nóng, sẽ xuất hiện khuôn mặt có nhiệt sắc, cũng chính là khuôn mặt ửng đỏ. “Vị dục giải dă”, đó là bệnh không tốt, v́ sao không tốt ? “Dĩ kỳ bất năng đắc tiểu hăn xuất” (Chưa thể xuất một chút mồ hôi) th́ chưa thể giải quyết vấn đề biểu chứng. V́ sao cần phát hăn nhẹ? V́ Thái dương bệnh đă 8,9 ngày, bệnh thế đă chậm, chỉ là một chút tà khí bế uất dương khí. “Thân tất dưỡng”(Thân thể ngứa), là ngứa ngoài da. Tà khí khá mạnh, thông thường sẽ xuất hiện cơ thể da thịt bị ngứa. Dương khí bế uất khá nặng, thông thường sẽ xuất hiện thân thể nặng nề. Chỉ v́ dương khí bế uất nên không xuất được mồ hôi, khiến thân thể bị ngứa.
Đối với t́nh huống này, “Nên dùng Quế chi Ma hoàng các bán thang” , lấy tễ lượng của hai phương rồi lấy một nửa. Quế chi Ma hoàng các bán thang chính là phép tiểu hăn (phương pháp phát hăn nhẹ). Quế chi Ma hoàng các bán thang, Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang, Quế chi nhị Việt t́ nhất thang đều dùng Quế chi thang là chủ phương, như vậy vừa có thể phát hăn, lại có thể tư dưỡng chính khí.
Quế chi Ma hoàng các bán thang trên thực tế chính là thang Quế chi gia Ma hoàng, Hạnh nhân, bất quá chỉ là phân lượng nhỏ, căn cứ tễ lượng trên y thư, “Quế chi nhất lạng thập lục thù, cam thược khương ma nhất lạng cụ, hạnh trập tứ mai táo tứ lạp, diện tŕnh nhiệt sắc dưỡng quân khu”. Là hai phương hợp thành một, biến chế thang thuốc lớn thành thang thuốc nhỏ, mà mục đích chính là để cho thuốc không quá mạnh so với bệnh. Đó chính là phép tiểu hăn, cũng là phép phát hăn kết hợp giữa Quế chi và Ma hoàng.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-11-25 20:37:25
Điều 24 đến điều 34
24太阳病,初服桂枝汤,反烦不解者, 先刺风池、风府,却与桂枝汤则愈。 C25
Điều 24
Thái dương bệnh, sơ phục Quế chi thang, phản phiền bất giải giả, tiên thích Phong tŕ, Phong phủ, khước dữ Quế chi thang tắc dũ.
Điều 24
Dịch: Thái dương bệnh, đầu tiên uống thang Quế chi, bệnh nhân lại phiền muộn và bệnh không giải, châm huyệt Phong tŕ, Phong phủ, lại uống thang Quế chi th́ khỏi bệnh.
Điều này nói về khi bệnh nặng thuốc nhẹ không đủ lực trị bệnh th́ có thể dùng kết hợp hai phép châm và thuốc để điều trị bệnh.
Đối với Thái dương trúng phong, nên dùng thang Quế chi để trị liệu. “Sơ phục” chính là uống lần thứ nhất, sau khi uống lại tiếp tục ăn cháo, đắp mền để xuất hăn. Nếu như không phát hăn, phong tà không giải, th́ nên theo đúng phép uống lần hai. Hiện tại sau khi uống thuốc lần thứ nhất, không những không thấy xuất hăn bệnh giảm, ngược lại lại thấy chứng trạng phiền nóng tăng lên. Phiền giả, nhiệt dă. “Phản phiền bất giải”, chính là ngược lại nhiệt càng nặng. Là Thái dương trúng phong, dùng thang Quế chi để điều trị là phương dượctrị liệu thoả đáng, nhưng v́ sao sau khi uống thang Quế chi bệnh lại tăng lên? Đây chính là phong tà quá nhiều trong kinh mạch, mà sức thuốc của thang Quế chi khá nhẹ, sau khi uống thuốc không thể xuất hăn, lại c̣n tăng thế lực của phong tà. Đối với t́nh huống này, không thể chiếu theo phép cũ để dùng thuốc, mà nên châm huyệt trước khi dùng thuốc, châm các huyệt Phong tŕ và Phong phủ. Hai huyệt này có tác dụng rất rơ rệt trong việc khai thông kinh mạch và phát tán phong tà, châm vào có thể khai mở bế tắc của Thái dương kinh khí, tiết phong tà trong Thái dương kinh, làm suy yếu thế lực của tà khí trong kinh mạch. Sau đó uống lại thang Quế chi, ăn cháo nóng, trùm mền để xuất hăn.
Điều này đề xuất phép dùng hỗn hợp châm và dược, có thể nói đây là pháp trong pháp. Sau khi tŕnh bày trường hợp sau khi uống thuốc không xuất hăn, điều kế tiếp lại nói về sau khi uống thuốc xuất đại hăn (xuất rất nhiều mồ hôi).
25 服桂枝汤,大汗出,脉洪大者,与桂枝汤如前法;若形如疟,日再发者,汗出必解,宜桂枝二麻黄一汤。C26
Điều 25
Phục Quế chi thang, đại hăn xuất, mạch hồng đại giả, dữ Quế chi thang như tiền pháp; Nhược h́nh như ngược, nhật tái phát giả, hăn xuất tất giải, nghi Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang. C26
Dịch: Uống thang Quế chi, xuất rất nhiều mồ hôi (đại hăn), mạch hồng đại, uống thang Quế chi theo phép đă nêu ở phần trên; Nếu tựa như sốt rét, ngày phát hai lần, mồ hôi xuất ra bệnh tất giải, nên uống Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang.
Phương thang Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang:
Quế chi 1 lạng 17 thù bỏ vỏ
Thược dược 1 lạng 6 thù
Ma hoàng 16 thù, bỏ đốt
Sinh khương 1 lạng 6 thù, thái miếng
Hạnh nhân 16 hạt, bỏ đầu nhọn
Cam thảo 1 lạng 2 thù
Đại táo 5 quả, bổ đôi
7 vị thuốc, dùng 5 thăng nước, nấu vị Ma hoàng trước, nấu sôi một hai dạo, vớt bỏ bọt, cho hết vị thuốc vào, đun cạn c̣n 2 thăng, bỏ bă, uống lúc thuốc c̣n ấm 1 thăng, uống lần nữa trong ngày.
Đây là đoạn văn phân tích sau khi uống thang Quế chi xuất rất nhiều mồ hôi (đại hăn) xuất hiện hai loại t́nh huống chứng trị khác nhau. Sau khi uống thang Quế chi, phát hăn cần phải “Toàn thân chỉ cần tựa hồ như có mồ hôi là tốt, không nên xuất nhiều mồ hôi như nước chảy”. Nếu như xuất hăn không đúng, tạo thành đại hăn (quá nhiều mồ hôi), không những không trừ được bệnh, mà c̣n khiến bệnh tật phát sinh biến hoá. “Mạch hồng đại giả” là mạch đang phù hoăn biến thành hồng đại. Nếu như mạch tuy biến mà chứng chưa biến, phải lưu ư là vẫn tồn tại chứng của Thái dương trúng phong. Nếu mạch biến đại mà xuất hiện chứng phiền khát, là thuộc tân dịch dương minh bị tổn thương sau đại hăn, là biểu nhiệt đă nhập lư. Hiện tại chính là chứng không biến mà mạch biến, cho thấy loại mạch hồng đại này là biểu hiện sau khi uống thuốc xuất quá nhiều mồ hôi (đại hăn) dương khí vẫn mạnh ở ngoài, tức là có thể gọi là biểu hiện của “Kỳ khí thượng xung”, nên vẫn có thể dùng thang Quế chi như phép trước. Thái dương trúng phong, xuất đại hăn, mạch hồng đại, dễ bị ngộ nhận là Bạch hổ thang chứng, sai nhầm ở đây là chỉ xem mạch mà không xét đến chứng, xem xét vấn đề một cách phiến diện. Khi chứng của Thái dương trúng phong chưa biến, c̣n quá sớm để dùng thang Bạch hổ, nếu dùng có thể khiến cho phong tà bị uất kết ngăn trở mà phát sinh hoại bệnh. V́ thế khi gặp chứng nhất định phải tham khảo kết hợp mạch và chứng, nắm vững toàn diện bệnh t́nh, để khắc phục tính phiến diện.
C̣n có một loại t́nh huống là bệnh nhân sau khi uống thang Quế chi xuất đại hăn, xuất hiện ghét lạnh phát sốt giống như ngược tật (sốt rét), một ngày phát tác hai lần, cũng chính là “Nhất nhật tái phát”, điều này cho thấy giữa doanh và vệ c̣n một chút bệnh tà (tiểu tà) chưa giải, nhưng nhẹ hơn so với t́nh huống Quế chi Ma hoàng các bán thang là chứng một ngày phát 2,3 lần, hơn nữa lại đă xuất quá nhiều mồ hôi, v́ thế dùng Quế chi nhị ma hoàng nhất thang, để điều hoà doanh vệ, kèm theo trừ khứ tiểu tà (chút tà khí c̣n sót lại).
Xét thành phần của phương thang có thể thấy, vị thuốc của Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang tương đồng với Quế chi Ma hoàng các bán thang, chỉ là lượng thuốc ít hơn, dùng 5/12 của nguyên tễ lượng thang Quế chi, 2/9 của nguyên tễ lượng thang Ma hoàng. Trong phương có tác dụng điều hoà doanh vệ mạnh hơn nhiều so với với tác dụng phát hăn, và như vậy sẽ vô cùng thích nghi đối với trường hợp sau khi xuất nhiều mồ hôi chỉ c̣n một chút tà (tiểu tà) chưa giải. Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang và Quế chi Ma hoàng các bán thang (đều nửa thang) trên lâm sàng có thể dùng để trị chứng biểu có tiểu tà mà có các chứng như phiền nhiệt, cơ thể bị ngứa. Nói chung, phàm là biểu tà không có mồ hôi mà cơ thể đau nhức, dùng thang Ma hoàng phát đại hăn; Thân thể không đau nhức mà ngứa th́ không nên phát hăn mạnh, mà nên dùng 2 phương phát hăn nhẹ nhàng (tiểu hăn pháp), Chứng của hai phương này là hàn nhiệt giao nhau, tương tự như sốt rét, nhưng không phải sốt rét. Chẳng qua, tư tưởng của hậu thế sử dụng Quế chi thang trị sốt rét là phát triển từ đây.
Điều dưới đây thảo luận về t́nh huống thứ ba sau khi uống thang Quế chi xuất đại hăn.
26服桂枝汤,大汗出后,大烦,渴不解,脉洪大者,白虎加人参汤主之。C27
Điều 26
Phục Quế chi thang, đại hăn xuất hậu, đại phiền, khát bất giải, mạch hồng đại giả, Bạch hổ gia Nhân sâm thang chủ chi . C27
Uống thang Quế chi, sau khi xuất nhiều mồ hôi, bệnh nhân rất phiền muộn, không hết khát nước, mạch hồng đại, thang Bạch hổ gia Nhân sâm trị bệnh này.
Phương thang Bạch hổ gia Nhân sâm: Trong phương thang Bạch hổ, gia Nhân sâm 3 lạng, c̣n lại làm theo như phép của thang Bạch hổ.
Đây là đoạn văn phân tích chứng và phương pháp trị liệu sau khi bệnh nhân uống thang Quế chi xuất đại hăn dẫn đến tổn thương tân dịch háo khí mà tà nhiệt truyền vào kinh dương minh.
Thái dương trúng phong, dùng thang Quế chi là chính xác, nhưng sau khi uống thuốc v́ áp dụng không đúng phương pháp dẫn đến xuất quá nhiều mồ hôi. Ở đoạn văn trước mồ hôi xuất nhiều tuy mạch biến hồng đại, nhưng chứng không biến, v́ thế phép trị liệu cũng không thay đổi, vẫn dùng thang Quế chi như trước. C̣n ở điều này mạch biến hồng đại mà thấy chứng “Đại phiền khát bất giải” (Rất khát nước không giải được), cho thấy không c̣n biểu chứng, lại do sau khi xuất quá nhiều mồ hôi gây tổn thương tân dịch trong dạ dày làm cho dạ dày khô khan, dương tà hăm trong khí phận của kinh dương minh. Dạ dày nóng ảnh hưởng đến tâm, nên rất phiền muộn; Khí và tân dịch cả hai đều bị tổn thương, khí không hoá thành tân dịch, nên khát nước nghiêm trọng mà uống nước không giải được khát; Nóng bên trong bốc hơi, “Dương minh mạch đại”, nên thấy mạch hồng đại; Nếu kèm theo nhiệt thịnh mà khí âm cùng bị tổn thương, th́ mạch hồng đại lại xuất hiện h́nh tượng mạch khâu. Đối với t́nh huống này, phải dùng thang Bạch hổ để thanh nhiệt ở khí phận của kinh dương minh, gia Nhân sâm ích khí sinh tân dịch để trị phiền khát.
Điều này chính là do uống thang Quế chi trợ nhiệt tổn thương tân dịch, dẫn đến xuất quá nhiều mồ hôi mà rất phiền khát, chuyển thành dương minh lư nhiệt, khí âm cùng tổn thương gọi là Bạch hổ gia Nhân sâm thang chứng. So sánh mà nói, Quế chi gia phụ tử thang chứng là do uống nhầm thang Ma hoàng sau khi xuất quá nhiều mồ hôi, dẫn đến mồ hôi ra không ngừng, dương hư không kiên cố.
Nói chung, sau khi dùng thang Quế chi xuất quá nhiều mồ hôi (phát đại hăn) thường dễ tổn thương âm; Sau khi dùng thang Ma hoàng phát đại hăn thường thấy vong dương. Trên lâm sàng tuy không tuyệt đối như vậy, nhưng cũng nên lưu ư. Chúng ta liên hệ so sánh phân tích ba điều:
“Lần đầu uống thang Quế chi, không giải được phiền”; “Uống thang Quế chi, xuất nhiều mồ hôi, mạch hồng đại”; “Uống Quế chi thang, sau khi xuất nhiều mồ hôi, phiền khát không giải”, đă có thể dựa theo bệnh t́nh biến hoá xuất hiện sau khi uống thang Quế chi của các trường hợp đề cử, và đề xuất nội dung biện chứng chủ yếu và trong phương pháp xử lư, nhận thức được tinh thần biện chứng luận trị của Trương Trọng Cảnh, những điều này có giá trị rất tốt đối với việc học tập và nghiên cứu.
27太阳病,发热恶寒,热多寒少,脉微弱者,此无阳也,不可更汗,宜桂枝二越 婢一汤方。C28
Điều 27
Thái dương bệnh, phát nhiệt ố hàn, nhiệt đa hàn thiểu, mạch vi nhược giả, thử vô dương dă, bất khả cánh hăn, nghi Quế chi nhị việt t́ nhất thang phương. C28
Dịch: Thái dương bệnh, phát sốt ghét lạnh, nóng nhiều lạnh ít, mạch nhỏ yếu, đó là không có dương, không thể ra mồ hôi liên tục, nên dùng thang Quế chi nhị Việt t́ nhất.
Quế chi nhị Việt t́ nhất thang phương: Quế chi bỏ vỏ , Thược dược, Cam thảo đều 18 thù, Sinh khương 1 lạng 3 thù, thái, Đại táo 4 quả bổ đôi, Ma hoàng 18 thù, bỏ đốt, Thạch cao 24 thù, đập nát
7 vị thuốc dùng 5 thăng nước, nấu Ma hoàng sôi một hai dạo, vớt bỏ bọt, cho tất cả vị thuốc vào, đun cạn c̣n 2 thăng, bỏ bă, uống lúc thuốc c̣n ấm 1 thăng, phương này là thang Việt t́, thang Quế chi uống chung một thăng, nay hợp thành 1 phương, Quế chi nhị Việt t́ nhất.
Đoạn văn này thảo luận trị liệu chứng biểu uất sinh nhiệt nhẹ.
Thái dương biểu chứng, phát sốt nhiều mà ghét lạnh ít, cho thấy hàn tà xâm phạm thể biểu (phần bên ngoài của cơ thể) lâu ngày, tà khí đă ở thế hoá nhiệt. Nếu như hoàn toàn hoá nhiệt, sẽ xuất hiện chứng dương minh lư nhiệt là chỉ nóng không lạnh mà ngược lại lại ghét nóng. Hiện tại, bệnh c̣n ghét lạnh, từ đó cho thấy bệnh chưa hoàn toàn hoá nhiệt. “Mạch vi nhược” là có ư nói so sánh với mạch phù khẩn, cũng chính là thế của mạch phù khẩn đă giảm bớt, cũng phản ảnh hàn tà đă ở thế hoá nhiệt.
“Thử vô dương dă”, Thành Vô Kỷ ở điều C161 “Vô dương tắc âm độc” (无阳则阴独) chú thích viết: “Biểu chứng băi vi vô dương” (表证罢为无阳)Hết biểu chứng là vô dương. Có thể thấy, “Vô dương” tại đây là nói về không có chứng thương hàn biểu thực, v́ thế không thể dùng lại thang Ma hoàng để phát hăn. Hậu thế không ít nhà chú thích dùng điều này điều chỉnh câu trên, đổi là “Thái dương bệnh, phát nhiệt ố hàn, nhiệt đa hàn thiểu, Nghi Quế chi nhị Việt t́ nhất thang. Mạch vi nhược giả, thử vô dương dă, bất khả cánh hăn.”Đổi mạch vi nhược thành mạch cực vi là mạch dương suy, lấy “Vô dương” giải thành vong dương. Bất quá, đây chính là đoạn thảo luận về chứng và trị liệu biểu lư nhiệt, không có quan hệ ǵ với vong dương, lấy vong dương giải thích ư ban đầu của Trương Trọng Cảnh là không phù hợp, vẫn nên tuân theo chú giải của Thành Vô Kỷ, chẩn đoán là biểu uất mà sinh nhiệt chứng nhẹ, dùng thang Quế chi nhị Việt t́ nhất để điều trị.
Thang Quế chi nhị Việt t́ nhất tức là thang Quế chi kết hợp với thang Việt tỳ, cũng có thể nói đó là thang Quế chi gia Ma hoàng, Thạch cao, đồng thời chế thành thang tễ nhỏ mà thành. Dùng thang Quế chi gia Ma hoàng giải biểu khai uất, gia Thạch cao thanh nhiệt của dương uất. V́ lượng dùng của chúng khá nhẹ, lực phát hăn và giải nhiệt khá yếu, v́ thế vẫn thuộc phạm trù của phương tiểu hăn (ra ít mồ hôi). Khi bộ phận biểu hàn hoá nhiệt, xuất hiện nóng nhiều lạnh ít, thang Ma hoàng, thang Quế chi, thang Đại thanh long đều không phải là thời điểm ứng dụng thích hợp, chỉ có thể tuyển phương này tân (cay) để thấu biểu, lương (mát) để giải nhiệt, cũng là phép tân lương giải biểu. Tên phương “Việt t́” có hai loại giải thích: Một là, “Việt” có ư chỉ sự vượt qua; “T́” Đồng nghĩa với ti, chỉ địa vị thấp kém, lực lượng yếu kém. Việt t́ chỉ lực vượt qua thấp, không như tác dụng phát hăn thanh lư mạnh mẽ như thang Đại thanh long. Thứ hai, 《Ngoại Đài Bí Yếu》 gọi thang Việt t́ là “Khởi t́ thang”, cho rằng phương này có tác dụng phát việt tỳ khí, thông hành tân dịch.
Quế chi ma hoàng các bán thang, Quế chi nhị Ma hoàng nhất thang, Quế chi nhị Việt t́ nhất thang đều là những phương tễ phát hăn nhẹ (tiểu hăn), dùng cho trường hợp tiểu tà ở doanh vệ không giải. Tiểu tà ở doanh vệ không giải đều có t́nh huống hàn nhiệt giao tác như sốt rét, hoặc một ngày phát 2,3 lần, hoặc một ngày tái phát, hoặc nóng nhiều lạnh ít hoặc thân thể ngứa. Khác biệt với phát nhiệt ghét lạnh của Thái dương biểu chứng điển h́nh. Trên lâm sàng gặp những t́nh huống này, cần chú ư xem có phải là chứng thích ứng với ba phương tiểu hăn này hay không. Ba phương này v́ là phương phát hăn nhẹ (tiểu hăn), nhất định cần chú ư đến lượng thuốc sử dụng phải ít và nhẹ, không thể làm mất đi bản ư của Trương Trọng Cảnh.
28服桂枝汤,或下之,仍头项强痛, 翕翕发热,无汗,心下满,微痛,小便不利 者,桂枝汤去桂,加茯苓白术汤主之。C29
Điều 28
Phục Quế chi thang, hoặc hạ chi, nhưng đầu hạng cường thống, hấp hấp phát nhiệt, vô hăn, tâm hạ măn, vi thống, tiểu tiện bất lợi giả, Quế chi thang khứ Quế, gia Phục linh Bạch truật thang chủ chi. C29
Dịch: Uống thang Quế chi, hoặc dùng phép tả hạ, đầu gáy vẫn cứng đau, hấp hấp phát sốt, không mồ hôi, đầy ở dưới tim, đau nhẹ, tiểu tiện không thuận lợi, Quế chi thang khứ Quế, gia Phục linh bạch truật thang chủ trị bệnh này.
Phương Quế chi khứ quế gia Phục linh Bạch truật thang:
Thang Quế chi khứ quế , gia Phục linh, Bạch truật đều 3 lạng, c̣n lại làm theo phép trước, sắc uống. Tiểu tiện thuận lợi là khỏi bệnh. Đây là đoạn văn thảo luận cách trị liệu của thuỷ tà đ́nh trệ bên trong sau khi dùng phép hạ.
Đối với đoạn văn này các nhà chú giải tranh luận khá nhiều, trọng điểm là ở chỗ có hay không có biểu chứng, đến việc bỏ vị Quế chi c̣n là vấn đề bỏ vị Thược dược. 《Y Tông Kim Giám》 cho rằng: “Khứ Quế đương nhiên là khứ Thược dược”. Thành Vô Kỷ th́ mập mờ cả hai đều có thể, không nói bỏ Quế chi, c̣n chính là khứ bỏ Thược dược, đề xuất nên dùng thang Quế chi gia Phục Linh Bạch truật. Kha Vận Bá, Trần Tu Viên th́ duy tŕ nguyên ư, chủ trương khứ Quế chi gia Phục linh Bạch truật.
Đoạn văn mở đầu viết “Uống thang Quế chi, hoặc hạ chi”, có thể thấy người làm thuốc trước đây cho rằng “Đầu hạng cường thống, hấp hấp phát nhiệt” là chứng của thang quế chi, có thể phát hăn, lại hoặc cho rằng “Tâm hạ măn, vi thống”(đầy dưới tâm, đau nhẹ) là chứng có thể hạ, nhưng sau khi phát hăn và tả hạ, những chứng trước đó vẫn tồn tại, đó là v́ nguyên nhân ǵ? V́ họ không biết “Tiểu tiện bất lợi ” chính là biện chứng chủ yếu ở đó. Tiểu tiện bất lợi là phản ảnh của khí hoá bất lợi, của thuỷ tà đ́nh lại bên trong.
Tác dụng khí hoá của khí Thái dương với chuyển hoá thuỷ dịch có quan hệ vô cùng mật thiết. Thuỷ tà lưu ở trong, dẫn đến thái dương phủ khí không thuận lợi, khí hoá mất kiểm soát, có thể xuất hiện chứng tiểu tiện bất lợi; Đè nén cản trở dương khí trong kinh Thái dương, kinh mạch bất lợi, có thể xuất hiện chứng đầu gáy cứng đau và phát sốt, tựa như biểu chứng mà không phải biểu chứng; Dẫn đến khí bên trong bất hoà, có thể xuất hiện các chứng đầy dưới tim, đau nhẹ, tựa như lư thực nhưng không phải lư thực. V́ thế hai phép hăn và hạ đều không thích nghi, chỉ dùng thang Quế chi khứ quế gia Phục linh Bạch truật để kiện tỳ lợi thuỷ. Thuỷ tà đă trừ, thái dương kinh phủ khí không c̣n uất, bệnh cũng biến chuyển tốt.
Sau phương thang lại có ghi chú :“Tiểu tiện lợi, tắc dũ” (Tiểu tiện thuận lợi, khỏi bệnh), cho thấy tác dụng của phương này không phải là phát hăn, mà chính là thông lợi tiểu tiện, không cần Quế chi đi ra biểu để giải cơ, v́ vậy nên bỏ quế đi. Có người nói, đă không phát hăn, mà chuyên môn lợi tiểu tiện, th́ tại sao không dùng Ngũ linh tán? Ghi chú sau phương Ngũ linh tán là “Đa ẩm noăn thuỷ, hăn xuất dũ” (uống nhiều nước ấm, xuất hăn khỏi bệnh), chứng chính là tiểu tiện bất lợi, nhiệt nhẹ khát nước, mạch phù, dùng phương pháp phát hăn lợi thuỷ, khiến khiếu bên ngoài được thông, nên khiếu bên trong thuận lợi, chính là phép biểu lư lưỡng giải. So sánh mà nói, phương này chỉ lợi thuỷ mà thôi, khiếu bên trong thông, thuỷ tà khứ, nên kinh mạch tự hoà, chính là phép lợi thuỷ để điều hoà bên ngoài. Đường Dung Xuyên viết: “Ngũ linh tán thị Thái dương chi khí bất ngoại đạt, cố dụng Quế chi, dĩ tuyên Thái dương chi khí, khí ngoại đạt tắc thủy tự hạ hành, nhi tiểu tiện lợi hĩ. Thử phương thị Thái dương chi thủy bất hạ hành, cố khứ Quế chi, trọng gia Linh Truật, dĩ hành Thái dương chi thủy, thủy hạ hành, tắc khí tự ngoại đạt, nhi đầu thống phát nhiệt đẳng chứng, tự nhiên giải tán. Vô hăn giả, tất vi hăn nhi dũ hĩ. Nhiên tắc Ngũ linh tán trọng tại Quế chi dĩ phát hăn, phát hăn tức sở dĩ lợi thủy dă; Thử phương trọng tại Linh Truật dĩ lợi thủy, lợi thủy tức sở dĩ phát hăn dă. Thực tri thủy năng hóa khí, khí năng hành thủy chi cố, sở dĩ tả nghi hữu hữu.” (五苓散是太阳之气不外达,故用桂枝,以宣太阳之气,气外达则水自下行,而小便利矣。此方是太阳之水不下行,故去桂枝,重加苓术,以 行太阳之水,水下行,则气自外达,而头痛发热等证,自然解散。无汗者,必微 汗而愈矣。然则五苓散重在桂枝以发汗,发汗即所以利水也;此方重在苓术以利水,利水即所以发汗也。实知水能化气,气能行水之故,所以左宜右有。)

Ngũ linh tán chính là khí Thái dương không thông ra ngoài, nên dùng Quế chi, để khai thông khí Thái dương, khí thông ra ngoài nên thuỷ tự hạ hành (đi xuống), mà tiểu tiện thông lợi. Phương này chính là thuỷ của Thái dương không đi xuống, nên khứ Quế chi, gia nhiều Linh Truật, để lưu thông thuỷ của Thái dương, thuỷ hạ hành th́ khí thông ra ngoài, mà các chứng đau đầu, phát nhiệt sẽ tự giải. Nếu không có mồ hôi, sẽ xuất mồ hôi nhẹ và khỏi bệnh.
Vậy th́ Ngũ linh tán chú trọng vào Quế chi để phát hăn, phát hăn cũng tức là lợi thuỷ; Phương này chú trọng vào Linh Truật để lợi thuỷ, lợi thuỷ tức là phát hăn vậy. Thực là biết thuỷ có thể hoá khí, khí có thể hành thuỷ, v́ thế thích nghi thích hợp. Phân tích của họ Đường có thể nói là đă hiểu sâu sắc ư nghĩa trị liệu của phương thuốc này.
Trần Thận Ngô Tiên sinh từng điều trị cho bệnh nhân bị sốt nhẹ một vài năm, chứng chủ yếu là hấp hấp phát nhiệt, tiểu tiện không thuận lợi. Ông sử dụng nguyên bản phương để điều trị, chỉ dùng 2,3 thang là nhiệt thoái bệnh khỏi. Có thể thấy, kinh phương chỉ cần dùng thoả đáng là có thể thu được hiệu quả rất tốt. Trần Tu Viên dùng phương này trong nghiệm án trị liệu sứ bộ Tạ Chi Điền cũng rất trứ danh, cũng không cần nói lại.
Tóm lại, từ phân tích lư luận đến nghiệm chứng lâm sàng, đều khứ Quế chi là đúng. Vị Thược dược trong phương có thể hỗ trợ sơ tiết để trị chứng tâm hạ măn, Linh Truật đi vào trong để kiện tỳ lợi thuỷ, Khương (gừng) kiện tỳ hoà trung, điều hoà doanh vệ, cộng lại cùng có công hiệu kiện tỳ khí và lợi thuỷ tà.
29 伤寒脉浮,自汗出,小便数,心烦,微恶寒,脚挛急,反与桂枝汤,欲攻其表, 此误也。得之便厥,咽中干,烦躁吐逆者,作甘草干姜汤与之,以复其阳。若厥愈、足温者,更作芍药甘草汤与之,其脚即伸。若胃气不和,谵语者,少与调胃 承气汤。若重发汗,复加烧针者,四逆汤主之。C30
Điều 29
Thương hàn mạch phù, tự hăn xuất, tiểu tiện sác, tâm phiền, vi ố hàn, cước luyên cấp, phản dữ Quế chi thang, dục công kỳ biểu, thử ngộ dă. Đắc chi tiện quyết, yết trung can, phiền táo thổ nghịch giả, tác Cam thảo Can khương thang dữ chi, dĩ phục kỳ dương. Nhược quyết dũ, túc ôn giả, cánh tác Thược dược Cam thảo thang dữ chi, kỳ cước tức thân. Nhược vị khí bất hoà, thiềm ngữ giả, thiểu dữ điều vị thừa khí thang. Nhược trọng phát hăn, phục gia thiêu châm giả, tứ nghịch thang chủ chi.
Dịch: Thương hàn mạch phù, tự xuất mồ hôi, tiểu tiện nhiều lần, tâm phiền, ghét lạnh nhẹ, chân co lại, lại cho uống thang Quế chi, muốn công biểu, đó là sai lầm. Uống vào liền quyết, cổ họng khô, phiền táo thổ nghịch, dùng Cam thảo Can khương để phục dương. Nếu khỏi chứng quyết, chân ấm, lại cho uống thang Thược dược cam thảo, chân duỗi được. Nếu vị khí bất hoà, nói lảm nhảm, một ít thang Điều vị thừa khí. Nếu trọng phát hăn, thêm thiêu châm, Tứ nghịch thang trị bệnh này.
Phương Cam thảo Can khương thang: Cam thảo 4 lạng, Càn khương 2 lạng, sao, làm nát, dùng 3 thăng nước, đun cạn c̣n 1 thăng 5 hợp, bỏ bă, phân hai lần uống.
Thang Thược dược Cam thảo: Thược dược 4 lạng, Cam thảo 4 lạng, nướng, dùng 3 thăng nước , nấu cạn c̣n 1 thăng rưỡi, bỏ bă, phân hai lần uống.
Phương thang Điều vị thừa khí: Đại hoàng 4 lạng, bỏ vỏ, tẩm rượu Cam thảo 2 lạng, nướng, Mang tiêu nửa cân, dùng 3 thăng nước, nấu c̣n 1 thăng, bỏ bă, rồi cho Mang tiêu vào nấu lửa nhỏ, khi sôi, uống ấm ít một.
Phương thang Tứ nghịch: Cam thảo 2 lạng, nướng, Can khương 1 lạng rưỡi, Phụ tử 1 củ, dùng sống, bỏ vỏ, bổ làm 8 miếng. Dùng 3 thăng nước, nấu cạn c̣n 1 thăng 2 hợp, bỏ bă, phân 2 lần uống ấm, người khoẻ mạnh dùng 1 củ phụ tử to, Can khương 3 lạng.
Đoạn văn này đưa ra h́nh thức làm mẫu để phân tích biến chứng của chứng thương hàn kèm theo hư tổn mà phát hăn nhầm và phương pháp cứu trị tuỳ theo chứng.
Người âm dương khí huyết đều hư lại thêm cảm hàn, dương không giữ được âm, nên tự đổ mồ hôi (tự hăn), tiểu tiện nhiều lần; Âm huyết không đủ, tâm thần không được nuôi dưỡng, nên tâm phiền; Biểu có hàn tà, nên mạch phù, ghét lạnh nhẹ; Âm huyết hư và ít, cân mạch không được nuôi dưỡng, nên chân co quắp, co lại, đau nhức, cũng chính là “Cước luyên cấp” (chứng chuột rút) ở bắp chân.
Đối với loại t́nh huống này, có thể cân nhắc dùng thang Quế chi gia Phụ tử, giải biểu kèm theo củng cố dương để giữ âm. Nhưng thày thuốc ngộ nhận là “Vệ cường doanh nhược” (Vệ mạnh doanh yếu) của chứng Thái dương trúng phong, lại dùng thang Quế chi phát hăn, đă phạm vào điều cấm hư hư chi giới (làm hư càng thêm hư) dẫn đến âm dương càng hư, xuất hiện dương hư chân tay lạnh, âm bị tổn thương gây khô khan bên trong cổ họng, hư dương nhiễu động nên phiền muộn, âm dịch khuy háo nên táo (nóng nảy), khí bất hoà nên thổ nghịch, dần dần bệnh t́nh ngày càng phức tạp, chỉ có thể tuỳ theo chứng mà điều trị.
Trường hợp âm dương đều hư, khí dương không giữ được âm, mâu thuẫn chủ yếu thường ở phương diện dương hư. Dương vững chắc th́ âm tồn tại, dương sinh sẽ khiến âm lớn mạnh (Dương sinh tắc âm trưởng). Hơn nữa âm hữu h́nh không thể sinh nhanh chóng (tốc sinh), mà dương vô h́nh có nguy cơ biến mất trong khoảnh khắc. V́ thế, trước tiên dùng thang Cam thảo Can khương để phục hồi dương khí, đợi sau khi dương hồi phục, chứng quyết khỏi, chân ấm áp, nếu chân c̣n co rút chưa hoăn giải, lại dùng thang Thược dược Cam thảo tư âm hoà huyết, giải trừ chứng co cứng, chân có thể duỗi ra dễ dàng. Nếu có chứng âm dịch không đầy đủ, sau khi dùng thang Cam thảo Can khương để phù dương, v́ dương phục hồi thái quá, khiến cho âm dịch càng bị tổn thương, trong dạ dày khô nóng, làm cho trong dạ dày bất hoà mà nói sàm, có thể dùng thang Điều vị thừa khí với lượng ít, có mục đích là hoà vị táo (khô ráo) điều vị khí, mà không hề có mục đích tả hạ.
Nếu như căn bản là dương khí không đủ, trong trị liệu lại sử dụng thuốc phát hăn mạnh như thang Ma hoàng, hoặc phát hăn nhiều lần, dùng thiêu châm ép buộc xuất hăn, tức là “Trọng phát hăn, cộng thêm thiêu châm”, có thể dẫn đến dương bị tổn thương nặng mà xuất hiện quyết nghịch thổ lợi.v.v… Phương pháp cứu trị nên cấp thời dùng thang Tứ nghịch để hồi dương cứu nghịch. Đối với loại dương hư trọng chứng này, thang Cam thảo Can khương không thể đảm nhiệm được.
Đây là đoạn văn nói về trường hợp sau khi ngộ trị phát sinh biến chứng đa dạng, hư thực hàn nhiệt cùng tồn tại, âm dương chuyển hoá thất thường, trên phương diện trị liệu hoặc là phù dương, hoặc là tư âm, hoặc hoà vị, hoặc hồi dương, trị pháp biến hoá theo chứng, Trương Trọng Cảnh đối với nguyên tắc trị liệu ở đây là “Quan kỳ mạch chứng, tri phạm hà nghịch, tuỳ chứng trị chi” (Quan sát mạch chứng, để biết điểm phạm nghịch, tuỳ theo chứng mà trị liệu) làm mẫu mực điển h́nh, và có ư nghĩa hướng dẫn rất lớn.
Thang Cam thảo Can khương thấy ở hai nơi, một ở {Thương hàn luận}, một ở 《Kim Quỹ Yếu Lược》, 《Kim Quỹ Yếu Lược》dùng trị chứng hư hàn phế nuy. Lượng sử dụng của phương là lượng Cam thảo nhiều hơn Can khương, một là phù trợ dương của tỳ vị, hai là chứng này ngoại trừ dương hư c̣n có các chứng âm hư như cước luyên cấp, khô họng, v́ thế trong khi phù dương c̣n phải đặc biệt chú ư không để tổn háo chân âm đă bị suy yếu sẵn, đó cũng chính là nguyên nhân chỉ dùng Can khương mà không dùng Phụ tử. V́ thuốc phù trợ dương nhiều phần là cứng và khô, v́ thế không chỉ tránh sử dụng Phụ tử khô táo mănh liệt, c̣n cần phải dùng nhiều Cam thảo để giám chế tính mănh liệt của Can khương, giữ ǵn chân âm. Ở đây cần dùng đến vị Can khương đă sao, nướng, để tính dược của Can khương hoà hoăn hạn chế ảnh hưởng đến âm của cơ thể, từ những điểm vừa nêu có thể nhận thấy những điểm tinh diệu trong việc sử dụng thuốc của Trương Trọng Cảnh. 《Chu Thị Tập Nghiệm Phương》 dùng phương này để trị chứng thổ huyết không ngừng của bệnh nhân tỳ vị dương hư, khí bất nhiếp huyết, có các chứng như: Mạch tŕ, thân thể mát mẻ, phương có tên là Nhị thần thang, có thể thấy phương này có thể phù dương lại có thể nhiếp âm.
Thang Thược dược Cam thảo dùng lượng Thược dược và Cam thảo bằng nhau, đều là 4 lạng. Hai vị hợp lại với nhau, chua ngọt hợp lại hoá thành âm (cam toan hoá âm), có thể dưỡng huyết b́nh can, hoăn giải cân mạch co quắp, chuyên trị huyết mạch co rút đau nhức, thường có hiệu quả tốt đối với v́ nguyên nhân huyết hư mà dẫn đến hai chân co rút đau nhức hoặc là bắp chân co rút không thể duỗi thẳng, v́ thế c̣n được gọi với mỹ danh là “Khứ trượng thang” (Thang Bỏ gậy).
Người viết có một bệnh nhân nữ họ Tào, 53 tuổi, kể là bắp chân bị co rút, thường hay phát tác về ban đêm, mạch huyền, lưỡi hồng. Người viết dùng thang Thược dược Cam thảo, sau khi uống 4 thang bệnh hoàn toàn khỏi hẳn. Trường hợp điều trị cho một bn nữ họ Chu, 12 tuổi, chủ yếu do thận trái sau khi bị thương sưng đau, chân trái không duỗi ra được, và c̣n sốt, thân nhiệt 37.8°C, mạch huyền tế sác. Tây y chẩn đoán viêm khớp hông có mủ. Phân tích mạch tượng, huyền là mạch của tạng can, tế là huyết hư, sác là nhiệt, cho thấy can huyết không đủ, cân mạch không thuận lợi mà c̣n có chứng uất nhiệt, đầu tiên người viết dùng 3 thang Thược dược Cam thảo, sau khi uống 3 thang, chân trái đă có thể hoạt động, sau khi uống thêm 2 thang, đùi trái có thể duỗi thẳng, đau ở hông cũng giảm nhẹ. Cân nhắc cục bộ sưng đỏ và có cảm giác nóng thế là quyết định thay bằng Tiên phương hoạt mệnh ẩm, liên tục uống một số thang, t́nh trạng tốt dần và khỏi bệnh.
Thành phần của thang Điều vị thừa khí gồm Mang tiêu, Đại hoàng và Cam thảo, Tiêu Hoàng trong phương có thể tiết táo nhiệt ở vị tràng, Cam thảo có thể hoà hoăn lực của Tiêu Hoàng, khiến nó tác dụng ở dạ dày. V́ vậy, phương này có thể điều hoà vị khí, lại có khả năng thông tràng hạ tiện. Một phương mà có hai phép, Trần Tu Viên gọi là “Pháp trung chi pháp” (法中之法). Nguyên nhân v́ mục đích chủ yếu là điều vị, v́ thế khi uống bệnh nhân được yêu cầu “Thiểu thiểu ôn phục” (Uống thuốc ấm và uống ít một), khiến cho trong dạ dày không khô ráo, vị khí điều hoà, và chứng nói sàm tự ngưng lại. Hậu thế thường dùng thang Điều vị thừa khí thanh tiết nhiệt ở dạ dày, điều hoà khô ráo trong dạ dày, như Trương Thị Y Thông trị chứng tâm hoả thịnh, bệnh nhân thường có cảm giác như mặt bị hơ nóng gọi là “Liệu diện chứng” (擦面症)mặt bị thiêu đốt, là dùng thang Điều vị thừa khí gia Hoàng liên, Tê giác. Cũng có thày thuốc dùng cho trường hợp v́ dùng quá nhiều thuốc bổ mà tạo thành chứng vị nhiệt sinh ban, thu được hiệu quả rất tốt.
Thang Tứ nghịch với chủ yếu là vị Phụ tử, chú trọng ở ôn Thiếu âm để hồi dương cứu nghịch, trong phương Phụ tử chính là Sinh Phụ tử. Đồng thời tá dược là Can khương, Cam thảo, thu được hiệu quả nhanh mà c̣n lực mạnh và lâu dài. Phương này thường dùng vào trường hợp cấp cứu như thoát dương, vong dương. Liên quan đến chủ trị và các chứng thích hợp có thể tham khảo kết hợp với phân tích của thiên thiếu âm bệnh.
30问曰:证象阳旦,按法治之而增剧,厥逆, 咽中干,两胫拘急而谵语。师曰:言夜半手足当温,两脚当伸;后如师言。何以知此?答曰:寸口脉浮而大, 浮则为风,大则为虚,风则生微热,虚则两胫挛。病征象桂枝,因加附子参其间,增桂令汗出,附子溫经,亡阳故也。厥逆咽中干,烦躁,阳明内结, 谵语,烦乱,更饮甘草干姜汤。夜半阳气还,两足当热, 胫尚微拘急,重与药药甘草汤,尔乃胫伸,以承气汤微溏,则止其谵语,故知病可愈。C31
Điều 30
Vấn viết: Chứng tượng Dương đán (Quế chi thang chứng), án pháp trị chi nhi tăng kịch, quyết nghịch, yết trung can, lưỡng hĩnh câu cấp nhi thiềm ngữ. Sư viết: Ngôn dạ bán thủ túc đương ôn, lưỡng cước đương thân; Hậu như sư ngôn. Hà dĩ tri thử? Đáp viết: Thốn khẩu mạch phù nhi đại, phù tắc vi phong, đại tắc vi hư, phong tắc sinh vi nhiệt, hư tắc lưỡng hĩnh luyên. Bệnh chinh tượng Quế chi, nhân gia Phụ tử tham kỳ gian,tăng Quế lịnh hăn xuất, phụ tử ôn kinh, vong dương cố dă. Quyết nghịch yết trung can, phiền táo, dương minh nội kết, thiềm ngữ, phiền loạn, cánh ẩm Cam thảo Can khương thang. Dạ bán dương khí hoàn, lưỡng túc đương nhiệt, hĩnh thượng vi câu cấp, trọng dữ Thược dược Cam thảo thang, nhĩ năi hĩnh thân, dĩ Thừa khí thang vi đường, tắc chỉ kỳ thiềm ngữ, cố tri bệnh khả dũ.
Hỏi: Chứng như Dương đán (Quế chi thang chứng), theo phép trị mà bệnh tăng, quyết nghịch, họng khô, hai chân co quắp miệng nói sàm. Thày viết: Nửa đêm tay chân ấm áp, hai chân duỗi, sau như thày nói. Làm thế nào để biết điều này? Đáp: Thốn khẩu mạch phù mà đại, phù là phong, đại là hư, phong sẽ sinh vi nhiệt, hư th́ hai đùi co quắp. Bệnh chứng giống Quế chi, v́ gia Phụ tử vào, tăng khả năng xuất hăn của Quế, phụ tử làm ấm kinh lạc, cho nên vong dương. Quyết nghịch trong họng khô, bực bội, dương minh nội kết, nói sàm, lo lắng, thay bằng thang Cam thảo Can khương. Nửa đêm dương khí trở về, hai chân đang nóng, chân c̣n co quắp nhẹ, lại dùng Thang Thược dược Cam thảo, chân duỗi ra, với thang Điều vị thừa khí phân hơi lỏng, hết nói sàm, nên biết bệnh có thể khỏi.
Đoạn văn này tiến thêm một bước để giải thích thêm về điều bên trên. Phân tích giản lược.
Chúng ta hăy tóm tắt bài viết này. Thiên này gồm 31 điều, từ điều 1 đến điều 12 chính là cương lĩnh của toàn bộ sách, cũng chính là cương lĩnh của Thái dương bệnh, có ư nghĩa sâu xa trong việc hướng dẫn toàn bộ cuốn sách và thống lĩnh biện chứng. Nội dung của 12 điều này ngoài việc tŕnh bày đề cương chứng của Thái dương bệnh, c̣n có phân biệt bệnh phát âm dương, phân biệt chân giả hàn nhiệt, phân biệt trúng phong thương hàn, phân biệt có truyền kinh hay không, phân biệt sự khác biệt của các chứng tương tự, phân biệt thời gian khỏi bệnh, tuy có luận nhưng không đề ra phương thang, nhưng cũng phản ảnh được tôn chỉ của biện chứng luận trị, chính là bảng tóm tắt của Thái dương bệnh. Từ điều thứ 13, th́ có bàn luận, có chứng, có phương thuộc chuyên khảo của Thái dương bệnh, chủ yếu tŕnh bày Quế chi thang chứng của Thái dương trúng phong chứng, đến chứng gia giảm và chứng cấm kỵ của thang Quế chi. Sau cùng Trương Trọng Cảnh thuyết minh cụ thể về tinh thần “Tuỳ chứng trị chi” (Theo chứng mà trị)
Phân biện trị pháp và mạch chứng của Thái dương bệnh phần giữa
Tóm tắt
Đoạn văn này kế tiếp đoạn văn Thái dương trúng phong sau khi điều trị là loại h́nh hàng đầu của Thái dương biểu bệnh, chủ yếu tŕnh bày một đại loại h́nh khác -----Thái dương thương hàn chứng trị và một số phương chứng có liên quan. Tiến hành tŕnh bày hai đại loại h́nh của Thái dương phủ chứng____ Chứng và trị liệu của Thái dương súc (tích ứ) thuỷ và Thái dương súc (tích ứ) huyết, theo đó mà hoàn thiện hệ thống luận trị của Thái dương bệnh. Bản thiên c̣n đề cử phương pháp cứu trị của nhiều biến chứng, bên trong chứa ư nghĩa trị liệu tạp bệnh, đồng thời thông qua việc thảo luận trị liệu Thiếu dương bệnh xuất hiện sau khi tà truyền Thiếu dương, để nói rơ về tà của Thái dương nhập lư hoặc truyền vào Dương minh, hoặc truyền Thiếu dương, tuyệt nhiên không có quy luật cố định, quyết định then chốt là ở nhân tố thể chất.
31太阳病,项背強几几,无汗,恶风,葛根汤主之。C32
Điều 31
Thái dương bệnh, hạng bối cường ki ki, vô hăn, ố phong, Cát căn thang chủ chi. C32
Thái dương bệnh, gáy lưng cứng không tự nhiên, không mồ hôi, ghét gió, thang Cát căn trị chứng này.
Phương thang Cát căn: Cát căn 4 lạng, Ma hoàng 3 lạng bỏ đốt, Quế chi 2 lạng bỏ vỏ, Thược dược 2 lạng, thái Cam thảo 2 lạng, nướng Sinh khương 3 lạng, thái Đại táo 12 quả, bổ
Dùng 1 đấu nước để sắc thuốc, đầu tiên nấu vị Ma hoàng và Cát căn , giảm 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho hết thuốc vào , nấu c̣n lại 3 thăng, bỏ bă, uống 1 thăng lúc thuốc c̣n ấm, làm cho cơ thể tựa như có mồ hôi, không cần ăn cháo, c̣n lại theo như phép của thang Quế chi, điều dưỡng và cấm kỵ.
Đây là đoạn văn thảo luận về chứng và trị liệu Thái dương thương hàn kinh mạch vận chuyển bất lợi.
Kinh mạch chính là đường giao thông của khí huyết, biểu tà của Thái dương không được giải, kinh mạch thụ tà, khí huyết vận hành không thông sướng, kinh mạch vận chuyển không thuận lợi, cho nên xuất hiện chứng gáy lưng cứng không tự nhiên. Nếu như cân mạch co quắp, lại thấy các chứng như xuất mồ hôi ghét gió, đây là biểu hiện của Thái dương bệnh trúng phong không cần nghi ngờ, dùng thang Quế chi gia Cát căn để điều trị, điều này đă được đề cập ở phần trước. Nếu gáy lưng cứng không mềm mại tự nhiên, không có mồ hôi mà sợ gió lạnh, là thuộc thương hàn biểu thực chứng, chính là do hàn bao phủ ở bên ngoài, huyền phủ (lỗ chân lông) không thông, dẫn đến kinh mạch khí huyết không thuận lợi, sợ gió cũng là từ đồng nghĩa của sợ lạnh. Điều trị nên phát hăn tán hàn, vận chuyển thông suốt kinh mạch, thang Cát căn chủ trị bệnh này.
Từ góc độ dùng thuốc, thang Cát căn chính là trên cơ sở thang Quế chi gia Ma hoàng, Cát căn. Mà trong đó vị Cát căn là chủ dược, có thể phối với Ma hoàng giải cơ phát biểu, lại có khả năng thăng tân dịch, mềm mại cân mạch để trị chứng gáy lưng cứng, chứng gáy lưng cứng của biểu hư dùng thang Quế chi gia Cát căn, chứng này thuộc biểu thực kinh mạch vận chuyển không thuận lợi, th́ tại sao không dùng thang Ma hoàng gia Cát căn? V́ Ma hoàng có lực phát hăn mạnh, lại gia thêm Cát căn để thăng dương phát biểu, sợ rằng mồ hôi sẽ xuất quá nhiều. Tuy chứng này là do kinh mạch vận chuyển không thuận lợi, cũng nên phát hăn, nhưng cần phải xét đến cân mạch không được nuôi dưỡng, g̣ bó không mềm mại, dùng thang Ma hoàng gia Cát căn dễ tạo thành xuất nhiều mồ hôi tổn thương tân dịch, không đạt được mục đích là thêm tân dịch nhuận táo, hoăn hoà cân mạch câu loan (co cứng). V́ thế, tuyển chọn thang Quế chi gia Ma hoàng Cát căn, đă có thể phát hăn tán hàn, lại không đến mức xuất quá nhiều mồ hôi gây tổn thương tân dịch. Đồng thời, có Thược dược, Cam thảo, Đại táo có tác dụng thêm tân dịch hoá âm để hoà hoăn cân mạch, phù hợp với t́nh trạng bệnh.
Trên lâm sành có rất nhiều bệnh nhân đau lưng gáy, dùng thang Cát căn trị liệu thường có thể thu được hiệu quả. Sau khi uống thang Cát căn, có bệnh nhân đau lưng gáy có cảm giác phát nhiệt, đó chính là phản ảnh của dương khí sắp thông suốt, tiếp theo là gáy lưng xuất mồ hôi, cùng với xuất mồ hôi lan ra toàn thân mà khỏi bệnh. Như Tào Gia Đạt trong 《Kinh Phương Thực Nghiệm Lục》 viết: “Khoảnh khắc sau khi uống, có cảm giác nóng nhẹ ở lưng, uống thêm, lưng xuất mồ hôi, tiếp đến toàn thân…..Trị bệnh thành công”
Liên quan đến phép sắc, uống của phương thang, cần chú ư sắc trước hai vị Ma hoàng và Cát căn, vớt bỏ bọt, sau đó cho hết vị thuốc vào. Như vậy, một mặt có thể hoà hoăn tính tân tán của Ma hoàng, Cát căn, đề pḥng lực phát hăn quá mạnh, xuất mồ hôi quá nhiều; Mặt khác có thể giảm tính tẩu tán của Ma hoàng, để tránh sau khi uống thuốc phát sinh các tác dụng phụ như hồi hộp, tâm phiền, vựng đầu. Sau khi uống thuốc không cần ăn cháo, chỉ trùm mền để có thể xuất mồ hôi.
32太阳与阳明合病者,必自下利,葛根汤主之。C33
Điều 32
Thái dương dữ dương minh hợp bệnh giả, tất tự hạ lợi, Cát căn thang chủ chi. C33
Thái dương và Dương minh hợp bệnh, tất sẽ tự hạ lợi, thang Cát căn trị bệnh này.
Đoạn văn này thảo luận trị liệu bệnh hạ lợi (tiết tả) do Thái dương hợp với dương minh gây bệnh.
Bệnh chứng của hai kinh hoặc nhiều hơn hai kinh đồng thời phát sinh, không phân trước sau, chính phụ, gọi là hợp bệnh, hợp bệnh phát sinh, phần nhiều là do tà khí quá mạnh, cùng lúc xâm phạm một số kinh, bệnh thế của nó cũng mạnh hơn so với bệnh phát ở một kinh. “Thái dương dữ dương minh hợp bệnh”, Tại đây chỉ đích thị Thái dương và Dương minh kinh biểu đồng thời thụ tà, biểu hiện Thái dương biểu chứng như sợ lạnh phát nhiệt, đầu gáy cứng đau, lại có Dương minh kinh biểu chứng như mặt bừng bừng đỏ, đau vùng đầu trán, mắt đau mũi khô, ngủ không yên giấc. Liên quan đến Dương minh kinh chứng, trong {Thương hàn luận} giải thích không rơ ràng lắm, nguyên văn điều 49 đề cập chỉ có 1 chứng “Diện sắc duyên duyên chính xích” (面色缘缘正赤) sắc hồng đỏ đầy mặt, là rất không toàn diện. Những năm gần đây, nhiều học giả lấy Bạch hổ thang chứng làm dương minh kinh chứng, xáo trộn khái niệm của kinh, cũng không hoàn toàn thích hợp. Nói một cách nghiêm túc, Bạch hổ thang chứng xem như Dương minh nhiệt chứng tựa hồ khá là chuẩn xác. Căn cứ theo các y thư《Thương Hàn Tổng Bệnh Luận》 của Bàng An Thời và 《Loại Chứng Hoạt Nhân Thư》 của Chu Quăng ghi lại, đều là Dương minh kinh mạch vi bệnh gọi là tố kinh chứng.
Y Tôn Kim Giám đối với Dương minh kinh chứng lại làm thành bài văn vần để tóm lược: “Cát căn phù trường biểu dương minh, duyên duyên diện xích ngạch đầu thống, phát nhiệt ố hàn thân vô hăn, mục thống tỵ can ngoạ bất ninh.”
Ở đây nói rằng Cát căn thang chứng cũng là Dương minh kinh chứng, chính là dương minh kinh mạch thụ tà, kinh khí bị cản trở mà biểu hiện hội chứng. V́ kinh của nó cũng hành ở biểu, v́ thế cũng có chứng trạng toàn thân như phát nhiệt, ghét lạnh, mắt đau mũi khô ngủ không yên.
Nhị dương hợp bệnh, v́ Thái dương, Dương minh hai kinh thụ tà nhiều ít khác nhau, bệnh biến cũng có bên nặng bên nhẹ. Nếu Thái dương bệnh chứng nặng hơn, có thể dùng thang Ma hoàng, như điều thứ 37 “Thái dương với Dương minh hợp bệnh, suyễn mà ngực trướng đầy, không thể hạ, nên dùng thang Ma hoàng” chính là một thí dụ. Đây là điều của hai dương hợp bệnh với tà của kinh Dương minh nặng, ở đây có thể dựa theo chứng “Tất tự hạ lợi” (tất nhiên sẽ tiết tả) mà nhận biết. Thái dương và Dương minh kinh biểu thụ tà, nhất là tà nặng ở kinh dương minh, v́ khí của kinh dương minh kháng tà ở biểu, không thể chiếu cố bảo hộ bên trong của vị tràng, khí bên trong bất hoà, thăng giáng thất thường, v́ thế xuất hiện các chứng như hạ lợi tự phát (đi tả tự phát), ẩu thổ. Với hạ lợi là chính, dùng thang Cát căn giải tà ở kinh biểu, thăng khí của dương minh, biểu giải th́ lư hoà, hạ lợi (đi tả) tất tự ngừng.
Thang Cát căn là phương thang trị liệu chính của dương minh kinh chứng, lại có thể kiêm giải biểu tà của Thái dương, chủ dược trong phương là vị thuốc Cát căn, không chỉ giải cơ phát biểu, mà c̣n có thể nhập vào tỳ vị, thăng phát thanh dương, cổ vũ vị khí, điều trị tốt chứng tiết lợi (tiết tả). V́ thế phương này rất thích hợp dùng để điều trị chứng tiết tả do nhị dương hợp bệnh gây ra.
33太阳与阳明合病,不下利,但呕者,葛根加半夏汤主之。C34
Điều 33
Thái dương dữ dương minh hợp bệnh, bất hạ lợi, đăn ẩu giả, Cát căn gia Bán hạ thang chủ chi. C34
Dịch: Thái dương và Dương minh hợp bệnh, không tiết tả, nhưng ẩu thổ, Cát căn gia bán hạ chủ trị bệnh này.
Phương thang Cát căn gia Bán hạ: Cát căn 4 lạng, Ma hoàng 3 lạng, bỏ đốt, ngâm trong nước bỏ nước vàng, sấy khô, gừng tươi 3 lạng, thái Cam thảo 2 lạng, nướng, Thược dược 2 lạng, Quế chi 2 lạng, bỏ vỏ, Đại táo 12 quả, bổ, Bán hạ nửa cân, rửa
8 vị thuốc trên dùng 1 đấu nước, đầu tiên nấu hai vị Cát căn và Ma hoàng, cạn bớt 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho hêt thuốc vào, đun cạn c̣n 3 thăng, bỏ bă, uống thuốc lúc c̣n ấm 1 thăng, uống thêm một lần để tựa như xuất mồ hôi nhẹ.
Đoạn văn này nối tiếp đoạn văn trên để thảo luận trị liệu của nhị dương hợp bệnh, biểu tà không giải, ảnh hưởng khí bên trong bất hoà, không tiết tả nhưng ẩu thổ.
Thái dương với Dương minh hợp bệnh, biểu tà không giải, dương khí của hai kinh đề kháng ngoại tà ở biểu (bên ngoài), không thể chăm sóc bên trong, tạo thành khí bên trong bất hoà, thăng giáng thất thường, có lúc có thể xuất hiện tiết tả, có lúc lại thấy ẩu thổ, có lúc lại thấy cả hai thổ và tả. Ẩu thổ là chứng vị khí không hạ giáng, có liên hệ với biểu lư bất hoà gây ra, v́ thế trong trị liệu nên giải biểu của hai kinh, dùng thang Cát căn gia Bán hạ hoà vị giáng nghịch để trị ẩu thổ.
Trên lâm sàng rất hay gặp t́nh huống khí bên ngoài và ảnh hưởng khí bên trong bất hoà, như trong Quế chi thang chứng có oẹ khan, trong Ma hoàng thang chứng có ẩu nghịch. Có người cảm ngoại tà mà thổ lợi (thổ tả) không ngừng, hiện tại gọi là “Vị tràng h́nh cảm mạo”. Đối với loại h́nh bệnh này, trên phương diện trị liệu nên giải ngoại (giải ngoại tà) là quan trọng nhất. Ngoại tà được giải, khí bên trong sẽ tự hoà. Thăng giáng trở lại b́nh thường, thổ tả cũng tự ngừng.
Thang Cát căn gia bán hạ chính là trên cơ sở nguyên phương nguyên lượng thang Cát căn gia Bán hạ nửa cân (Bản Triệu là nửa thăng), phép sắc uống giống như thang Cát căn.
34太阳病,桂枝证,医反下之,利遂不止,脉促者,表未解也; 喘而汗出者,葛根黄连黄苓汤主之。C35
Điều 34
Thái dương bệnh, Quế chi chứng, y phản hạ chi, lợi toại bất chỉ, mạch xúc giả, biểu vị giải dă; Suyễn nhi hăn xuất giả, Cát căn Hoàng liên Hoàng cầm thang chủ chi. C35
Dịch: Thái dương bệnh, Quế chi chứng, thày thuốc lại hạ, liền tiết tả không ngừng, mạch xúc, biểu chứng chưa giải; Suyễn mà xuất mồ hôi, thang Cát căn Hoàng liên Hoàng cầm trị bệnh này.
Phương thang Cát căn Hoàng cầm Hoàng liên: Cát căn ½ cân, Cam thảo 2 lạng, Hoàng cầm 2 lạng, Hoàng liên 3 lạng, gồm 4 vị, dùng 8 thăng nước, đầu tiên nấu riêng vị Cát căn, cạn bớt 2 thăng, cho hết vị thuốc vào, nấu cạn c̣n lại 2 thăng, bỏ bă, chia làm hai lần uống khi thuốc c̣n ấm.
Đây là đoạn văn thảo luận trị liệu của chứng lư nhiệt (nóng trong) bên ngoài có biểu tà và tiết tả.
Quế chi thang chứng của Thái dương trúng phong, do thày thuốc dùng nhầm phép hạ, biểu tà bị hăm vào trong, xuất hiện chứng trạng tiết tả không ngừng.
“Y phản hạ chi”, chính là bệnh tại biểu không nên hạ mà lại hạ, v́ thế gia thêm chữ “phản”, điều này nên được coi là một điều kiện cho sự thay đổi bệnh lư, khi gặp bệnh không cần câu nệ. Biểu tà nhập lư xuất hiện “Lợi toại bất chỉ” (tiết tả không ngừng), chính là thuộc hư chứng, thuộc thực, thuộc hàn, c̣n là thuộc nhiệt, nên dựa vào mạch biện chứng để đưa ra chẩn đoán.
“Mạch xúc giả”,là mạch sác mà cấp bách, không phải mạch xúc (là mạch sác mà có nhịp ngừng). Mạch sác là bên trong có nhiệt, đồng thời phản ảnh cơ thể nhiều dương khí. Nhiều dương khí, có khí thế kháng ngoại tà thông đạt ra ngoài, th́ ngoại tà chưa hoàn toàn hăm vào trong, v́ thế nên viết “Biểu vị giải dă”. Đă có biểu tà chưa giải, lại có lư nhiệt hạ lợi, có thể gọi là lư nhiệt xen lẫn biểu tà mà hạ lợi (tiết tả), hoặc gọi là “Hiệp nhiệt lợi”(kèm theo nhiệt tả). Biểu tà g̣ bó phế, nhiệt bên trong bức bách phế, phế khí không thuận lợi, nên phát bệnh suyễn. Lư nhiệt bức bách tân dịch vượt ra ngoài, nên xuất mồ hôi. Biểu lư đều nhiệt, nên phát sốt, chính là ư tại ngôn ngoại, nên không nói thêm. Đă là nhiệt lợi (nhiệt tả), th́ có các chứng như phân dính và hôi hám, đi tả nhiều và bức bách xuống dưới, là những chứng nhiệt lợi khó tránh. Trị liệu nên dùng phương pháp biểu lư lưỡng giải để giải biểu thanh lư, dùng thang Cát căn Hoàng cầm Hoàng liên.
Thang Cát căn Hoàng cầm Hoàng liên thang chính là phương tễ hàng đầu với vị Cát căn là chủ dược trong {Thương hàn luận}, nhưng dùng Cát căn đến ½ cân th́ hiếm thấy. Cát căn vị cay tính mát, có thể giải cơ nhiệt, lại có tác dụng thanh nhiệt ở ruột, c̣n có thể thăng tân dịch và khí ở vị tràng. Sắc vị Cát căn trước chính là để giải cơ thanh tràng là chủ yếu, Hoàng cầm, Hoàng liên đắng lạnh chuyên trị nóng trong, kiên cố chân âm để trị chứng tiết tả; Cam thảo phù tŕ trung châu bảo hộ chính khí, điều bổ hư chứng tiết tả, hỗ trợ chính khí để trừ khứ tà khí. Các vị thuốc tương ngẫu, giải biểu thanh lư khiến tự lợi đ́nh chỉ, hết ho suyễn. Theo cách sử dụng thuốc của phương thang có thể thấy, chứng này chính là biểu tà ít mà lư nhiệt (nóng bên trong) nhiều, có thể nói chỉ có 3 phần biểu chứng, 7 phần c̣n lại đều là lư chứng.
Tổng kết 4 điều trên, thang Cát căn có thể dùng vào chứng phong hàn tại biểu, Thái dương kinh vận chuyển không thuận lợi, chứng cứng lưng gáy, cũng có thể dùng trị trị chứng Thái dương Dương minh hợp bệnh, chính khí kháng bệnh tà ở biểu không chăm sóc bảo hộ bên trong, khí bên trong bất hoà, thăng giáng thất thường, xuất hiện các chứng thổ, tả. Thang Cát căn Cầm liên dùng điều trị chứng hạ lợi hiệp nhiệt của biểu lư đều nhiệt. Với vị Cát căn là chủ dược của hai phương này, trên lâm sàng rất thường dùng, hiệu quả cũng rất tốt, nên nắm vững mạch chứng.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-11-26 21:00:04
Điều 35 đến 44
35太阳病,头痛发热,身疼, 腰痛,骨节疼痛,恶风,无汗而喘者,麻黄汤主之。 C36
Điều 35
Thái dương bệnh, đầu thống phát nhiệt, thân đông, yêu thống, cốt tiết đông thống, ố phong, vô hăn nhi suyễn giả, Ma hoàng thang chủ chi. C36
Dịch: Thái dương bệnh, đau đầu, phát nhiệt, thân thể đau nhức, đau eo, xương khớp đau nhức, ghét gió, không xuất mồ hôi mà suyễn, thang Ma hoàng trị bệnh này.
Phương thang Ma hoàng: Ma hoàng 2 lạng, bỏ đốt Quế chi 2 lạng, bỏ vỏ Cam thảo 1 lạng, nướng Hạnh nhân 70 hạt, bỏ vỏ đầu nhọn
Bốn vị thuốc trên dùng 9 thăng nước, trước tiên nấu Ma hoàng, cạn 2 thăng, vớt bỏ bọt, bỏ hết thuốc vào, nấu c̣n 2 thăng rưỡi, bỏ bă, uống ấm 8 hợp, uống lại để ra chút mồ hôi, không ăn cháo, c̣n lại làm theo phép của thang Quế chi.
Điều 35 thảo luận trị liệu của chứng Thái dương thương hàn biểu thực. Nên tham khảo hỗ tương với điều thứ 3 “Thái dương bệnh, hoặc dĩ phát nhiệt, hoặc vị phát nhiệt, tất ố hàn, thể thống ẩu nghịch, mạch âm dương câu khẩn giả, danh vi thương hàn” (Thái dương bệnh, hoặc đă phát nhiệt, hoặc chưa phát nhiệt, tất ghét lạnh, đau người, oẹ ngược, mạch âm dương đều khẩn, gọi là thương hàn).
Đoạn văn đề xuất 8 chứng như đau đầu, phát nhiệt, thân thể đau nhức, đau eo lưng, đau xương khớp, sợ gió, không xuất mồ hôi, khí suyễn. V́ chúng là biểu hiện lâm sàng điển h́nh của bệnh thương hàn, lại dùng thang Ma hoàng trị liệu, v́ thế gọi là “Thương hàn bát chứng” hoặc “Ma hoàng bát chứng”. Đối với bát chứng tiến hành tóm tắt mà nói, có thể phân thành 3 nhóm gồm các loại: Đau, lạnh nóng (hàn nhiệt) và không mồ hôi mà suyễn.
Trúng phong là phong tà gây tổn thương vệ phận, tổn thương trên cơ thể khá nông. Thương hàn là hàn tà gây tổn thương cho doanh phận, tổn thương khá sâu trên cơ thể, tính của hàn rét buốt, có thể từ vệ phận thấu vào doanh phận, đă bao phủ vệ dương, bên trong lại gây tổn thương doanh huyết. Tính của hàn ngưng trệ, co lại, chủ về đau. Hàn tà xâm phạm biểu, doanh huyết vận hành không dễ dàng, thông sướng, kinh mạch gân cơ thắt chặt, v́ thế xuất hiện cảm giác đau (không thông th́ đau). Đầu thống là gọi tắt của“Đầu gáy cứng đau” không giống với đau người, đau xương khớp (thân đông, cốt tiết đông thống) nên chú ư phân biệt. Đầu gáy, eo lưng là những nơi kinh Thái dương đi qua, hàn gây tổn thương kinh Thái dương, nên kinh mạch vận chuyển không thuận lợi, v́ thế đầu gáy cứng đau, eo lưng đau. Như 《Linh Khu kinh Kinh Mạch》 viết : “Bàng quang Túc Thái dương chi mạch,….thị động tắc bệnh xung đầu thống, mục tựa thoát, hạng như bạt, lưng đau eo như chiết” (Bàng quang mạch Túc Thái dương,…chính là động khiến bệnh xung lên gây đau đầu, mắt như bóc ra, gáy như bị rút lại, lưng đau eo như gẫy). Gân chi phối sự liên kết của xương và có lợi cho các cơ quan, Thái dương chủ gân mà sinh bệnh, v́ thế Thái dương cảm lạnh th́ thân thể đau nhức, đau xương khớp. “Ghét gió” chính là từ hỗ trợ của ghét lạnh, tham khảo ở điều 3, có thể biết là chứng phải có của thương hàn. V́ hàn là âm tà, rất dễ gây tổn thương dương khí ở người, vệ dương sau khi bị tổn thương sẽ xuất hiện ghét lạnh, hàn chủ về thu dẫn bế liễm, có thể gây bế tắc lỗ chân lông thớ thịt toàn thân, nên không xuất mồ hôi. Khí vệ dương bị hàn tà bế uất, không thể tuyên tiết (lan toả, bài tiết), nên thấy bn phát nhiệt. Tạng phế hợp với b́ mao mà làm chủ biểu (bên ngoài), biểu bế tắc không xuất mồ hôi, ảnh hưởng công năng tuyên phát (Thăng phát lên trên và lan toả ra ngoại vi) của phế, nên phát bệnh suyễn. “Vô hăn nhi suyễn” (Không mồ hôi mà suyễn) đă đề ra được hai chứng trạng đơn độc, đồng thời cho thấy quan hệ nhân quả giữa không có mồ hôi và chứng suyễn. Một khi hăn xuất biểu giải, công năng tuyên giáng của phế khí hồi phục, suyễn tự nhiên cũng hết. Đồng thời, “Vô hăn nhi suyễn”(Không xuất mồ hôi mà suyễn) cũng tiện dùng để phân biệt với “Hăn xuất nhi suyễn” (Xuất mồ hôi mà suyễn) của phế nhiệt. Điều này nói rơ về chứng nhưng chỉ nói sơ lược về mạch, tham khảo với điều 3 có thể biết chứng Thái dương thương hàn nên thấy mạch phù khẩn, mà cả ba bộ Thốn Quan Xích đều phù khẩn, phương thuộc hội chứng chính của Thái dương thương hàn. Điều trị nên phát hăn tán hàn, chỉ có thang Ma hoàng mới có thể hoàn thành nhiệm vụ này.
Thang Ma hoàng có tác dụng phát hăn tán hàn, giải biểu trục tà mạnh mẽ, chính là phương chủ yếu để điều trị chứng Thái dương thương hàn. Ma hoàng phát hăn tán hàn, mở lỗ chân lông, mở bế tắc trị suyễn; Quế chi thông dương, hỗ trợ Ma hoàng phát tán phong hàn; Hạnh nhân lợi phế trị suyễn, đồng thời có thể hỗ trợ Ma hoàng giải biểu phát hăn, Cam thảo điều hoà trung châu, bảo hộ chính khí. Khi dùng phương này nhất định phải nắm vững tỉ lệ lượng thuốc thích hợp, ở t́nh huống thông thường nên dùng các vị thuốc với tỉ lệ là Ma hoàng: Quế chi: Cam thảo = 3:2:1. Nếu tỉ lệ không thích đáng, có thể ảnh hưởng hiệu quả trị liệu của phát hăn giải biểu. Phương thang có lực phát hăn mạnh mẽ, sau khi uống thuốc chỉ cần trùm mền cho ấm là có thể xuất mồ hôi, không cần ăn cháo nóng. Ngoài ra nên chú ư, yêu cầu và cấm kỵ của phát hăn, giống với thang Quế chi. Khi sắc thuốc cần chú ư sắc vị Ma hoàng trước và phải vớt bỏ bọt để tránh cho bệnh nhân tâm phiền.
Ma hoàng thang chứng điển h́nh không gặp nhiều ở địa khu Bắc kinh, phương này sử dụng trên lâm sàng tương đối ít. Nhưng là một đất nước có lănh thổ mênh mông bát ngát, khí hậu khác biệt, đặc biệt là những địa khu cao và lạnh, chứng thương hàn không ít, v́ thế không nên coi thường mà bỏ qua phương này. Đồng thời, ứng dụng của thang tễ Ma hoàng không chỉ giới hạn ở đó. Trước hết, thuốc Ma hoàng có hiệu quả để trị các chứng đau, đặc biệt là các chứng đau do lạnh. Các phương thang trị đau nhức do chứng Tí (tê bại) như thang Tiểu tục mệnh, Quế chi Thược dược Tri mẫu thang trong phương đều có vị Ma hoàng. Tiếp nữa, vị Ma hoàng điều trị suyễn cũng có hiệu quả rất rơ rệt. Ngoại trừ thang Ma hoàng, các thang như Tiểu thanh long, thang Ma hạnh Cam cao đến Định suyễn thang của hậu thế sau này là những phương thang trị suyễn hiệu quả, đều dùng vị Ma hoàng là chủ dược. Y học hiện đại dùng Ma hoàng tố tức là Ma hoàng kiềm (ephedrin) để trị suyễn, mà cách nay 1700 năm trong “Thương hàn luận” đă ứng dụng rộng răi vị Ma hoàng để điều trị bệnh suyễn, đây là một đóng góp lớn. Thêm nữa, Ma hoàng c̣n có khả năng trị liệu một số bệnh chứng do hàn tà bế tắc gây ra. Có y án ghi chép lại một lương y trị chứng đẻ khó cho một bệnh nhân Thái dương thương hàn, dùng một thang Ma hoàng, theo hăn xuất mà anh nhi được sinh ra. Điều này cho thấy đẻ khó có liên quan với hàn tà bế tắc, doanh vệ khí huyết không thông sướng. Phát hăn khiến hàn tà bị trừ khứ, bế tắc khai mà thai nhi tự thuận. Do đó có thể thấy, là chứng thương hàn rất ít khi gặp ở địa khu Bắc kinh, việc dùng Ma hoàng trị cảm hàn dẫn đến đau nhức và suyễn, đến những nguyên nhân do hàn tà bế tắc dẫn đến các bệnh chứng khác, và đây cũng chính là vùng đất dụng vơ to lớn của thang tễ Ma hoàng.
36太阳与阳明合病,喘而胸满者,不可下,宜麻黄汤主之。C37
Điều 36
Thái dương dữ Dương minh hợp bệnh, suyễn nhi hung măn giả, bất khả hạ, nghi Ma hoàng thang chủ chi.
Dịch: Thái dương và Dương minh hợp bệnh, suyễn mà lồng ngực trướng đầy, không thể hạ, nên dùng thang Ma hoàng để trị bệnh này.
Điều 36 tŕnh bày nhị dương hợp bệnh, nặng về chứng trị ở kinh Thái dương.
Biểu chứng của kinh thái dương và kinh dương minh đồng thời tồn tại, khi tà khí nặng ở kinh dương minh, có thể thấy tự hạ lợi (tiết tả) hoặc không hạ lợi, nhưng lại ẩu thổ, trị liệu dùng Cát căn thang hoặc Cát căn gia Bán hạ thang, như đă đề cập ở trên. Đoạn văn này tŕnh bày chính là trọng điểm hợp bệnh ở kinh Thái dương. Thái dương tà khí nhiều, khí bên ngoài (biểu khí) bế uất, phế không tuyên giáng, nên xuất hiện chứng suyễn. Phế khí bất lợi, nên thấy lồng ngực trướng đầy. Bệnh cơ chủ yếu của chứng này là khí Thái dương bị uất, v́ thế dùng thang Ma hoàng phát hăn tán hàn, mở bế tắc có thể thu được hiệu quả. V́ phế và Đại tràng có quan hệ biểu lư, phế không tuyên giáng, cũng có thể ảnh hưởng bất lợi đến phủ khí của Đại tràng mà làm cho đại tiện khó khăn, nhưng không v́ thế mà dùng phép tả hạ. V́ xuất hiện chứng ngực trướng đầy nhưng bụng không trướng đầy, đồng thời không có chứng lư thực (thực chứng ở bên trong), một khi hạ nhầm sẽ khiến cho biểu tà hăm vào trong mà sinh biến chứng.
Cùng là Thái dương và Dương minh hợp bệnh, do trọng tâm của bệnh biến khác nhau, mà điều khiển phương và dùng dược cũng khác nhau. Bệnh tà ở Thái dương kinh biểu nặng hơn, với chứng suyễn là chủ yếu, dùng thang Ma hoàng; Bệnh tà ở dương minh kinh biểu nặng hơn, với chủ yếu là hạ lợi (tiết tả) th́ dùng thang Cát căn. Giới hạn phải phân minh không thể lẫn lộn.
37太阳病,十日以去,脉浮细而嗜卧者,外已解也。设胸满胁痛者,与小柴胡汤。但脉浮者,与麻黄汤。C38
Điều 37
Thái dương bệnh, thập nhật dĩ khứ, mạch phù tế nhi thị ngoạ giả, ngoại dĩ giải dă. Thiết hung măn hiếp thống giả, dữ Tiểu sài hồ thang. Đăn mạch phù giả, dữ Ma hoàng thang.
Dịch: Thái dương bệnh đă qua 10 ngày, mạch phù tế thích nằm là bệnh ở ngoài đă giải trừ. Ngực trướng đầy đau cạnh sườn, uống thang Tiểu sài hồ. Nếu mạch phù, dùng thang Ma hoàng.
(Phương thang Tiểu sài hồ: Xem ở điều 100 phần sau) Điều 37 tŕnh bày một số kết cục của Thái dương thương hàn lâu ngày.
Ở đây là “Thái dương bệnh”, theo đoạn văn sau “Mạch đăn phù giả, dữ Ma hoàng thang”, có thể biết chính là Thái dương thương hàn. Thái dương thương hàn đă qua 10 ngày, mạch từ phù khẩn biến thành “phù tế”, cũng chính là mạch tuy phù nhưng không khẩn cấp hữu lực, đồng thời lại thấy yếu sức thích nằm “thị ngoạ”, mà ghét lạnh phát nhiệt, đầu gáy cứng đau đă trừ (không c̣n). Mạch chứng trên cho thấy, biểu tà đă trừ khứ, chính khí đang dần hồi phục, đă không c̣n khổ, gọi là “Ngoại dĩ giải dă” (外已解也)bên ngoài đă giải. Ngoại tà đă giải, tuy nhiên c̣n cảm giác có chút không thoải mái, nhưng cũng không cần uống thuốc, chỉ cần an tâm tĩnh dưỡng là được, chính là loại kết cục thứ nhất. “Mạch đăn phù giả, dữ Ma hoàng thang”, chính là Thái dương thương hàn tuy đă qua 10 ngày, nhưng c̣n thấy mạch phù khẩn của thương hàn, và điều này cho thấy bằng chứng về cơn sốt và ghét lạnh của bệnh Thái dương thương hàn và các chứng như đau đầu, thân thể đau vẫn c̣n đó. Bởi v́ mạch chứng c̣n đó, bệnh c̣n ở Thái dương, thuộc chứng thương hàn biểu chưa giải, v́ thế trị pháp và phương dược cũng cần phải bất biến (không thay đổi), và vẫn nên cân nhắc sử dụng thang Ma hoàng. Nhưng do “thập nhật khứ”(đă qua 10 ngày), quá tŕnh mắc bệnh lâu ngày, cho dù các chứng của thương hàn c̣n đó, có thể dùng lại thang Ma hoàng để phát hăn, nhưng cũng nên cẩn thận khi sử dụng, v́ thế không nói “Chủ chi” (có tính chắc chắn) mà nói “dữ” (với), đó chính là sự khác biệt. Trên đây thuộc về biểu tà lưu luyến chưa giải, chính là loại kết cục thứ hai. Nếu như có chứng trạng “hung măn hiếp thống” (ngực đầy đau cạnh sườn), phản ảnh xu cơ (Mấu chốt của mọi sự chuyển động), (như tai mắt là xu cơ của trái tim ) của thiếu dương không thuận lợi, cho thấy tà khí đă từ biểu truyền nhập vào kinh Thiếu dương, dùng thang Tiểu sài hồ để hoà giải Thiếu dương, để lợi cho xu cơ, là loại kết cục thứ ba.
Có thể thấy một số loại kết cục của Thái dương thương hàn lâu ngày từ đoạn văn này, tuy nhiên “Thái dương bệnh, đă quá 10 ngày”, nhưng không nhất định bệnh tà sẽ phát sinh truyền biến. Trong đó có hướng khỏi bệnh, cũng có biểu tà vẫn chưa giải trừ, chỉ cần biểu chứng không giải, th́ nên dùng lại phương pháp giải biểu để trị liệu. Dựa vào mạch và biện chứng chính là căn cứ chủ yếu để suy đoán t́nh trạng phát triển, biến hoá của bệnh, không thể căn cứ vào quá tŕnh bệnh dài ngắn, và tinh thần này đă được thể hiện rất tốt ở đoạn văn này.
38太阳中风,脉浮紧,发热恶寒,身疼痛,不汗出而烦躁者,大青龙汤主之。 若脉微弱,汗出恶风者,不可服。服之则厥逆, 筋愓肉𥆧,此为逆也。C39
Điều 38
Thái dương trúng phong, mạch phù khẩn, phát nhiệt ố hàn, thân đông thống, bất hăn xuất nhi phiền táo giả, Đại thanh long thang chủ chi. Nhược mạch vi nhược, hăn xuất ố phong giả, bất khả phục. Phục chi tắc quyết nghịch, cân đăng nhục nhuận, thử vi nghịch dă. C39
Dịch: Thái dương trúng phong, mạch phù khẩn, phát nhiệt ghét lạnh, thân thể đau nhức, không xuất mồ hôi mà phiền táo (bực bội), thang Đại thanh long trị bệnh này. Nếu mạch vi nhược (nhỏ yếu), xuất mồ hôi sợ gió, không thể uống. Uống vào sẽ quyết nghịch, gân lơi ra thịt co giật, đó là nghịch.
Phương thang Đại thanh long:
Ma hoàng 6 lạng, bỏ đốt, Quế chi 2 lạng, bỏ vỏ, Cam thảo 2 lạng nướng Hạnh nhân 40 hạt, bỏ vỏ và đầu nhọn, Sinh khương 3 lạng, thái Đại táo 12 quả, bổ Thạch cao như quả trứng gà lớn, đập nát.
Tổng cộng 7 vị thuốc, dùng 9 thăng nước, đầu tiên sắc vị Ma hoàng, giảm 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho tất cả thuốc vào, đun cạn c̣n 3 thăng, bỏ bă, uống ấm 1 thăng, tựa như có mồ hôi (ư là rất ít), nếu mồ hôi ra nhiều dùng bột gạo xoa trên thân thể để bịt lỗ chân lông. Uống một lần mà có mồ hôi th́ không uống thêm. Nhiều mồ hôi vong dương, sẽ hư, ghét gió phiền táo, không ngủ được.
Điều 38 thảo luận trị liệu của chứng thương hàn biểu thực kiêm nội nhiệt phiền táo, các chứng cấm kỵ của thang Đại thanh long và những biến nghịch sau khi uống nhầm.
“Trúng phong” là từ hỗ tương bổ sung cho thương hàn, “Thái dương trúng phong” thực ra là chỉ về Thái dương thương hàn. Từ những chứng như mạch phù khẩn, phát nhiệt, ghét lạnh, thân thể đau nhức, cũng có thể xác định không nghi ngờ đây chính là thuộc chứng thương hàn biểu thực, nên dùng thang Ma hoàng để trị liệu. “Bất hăn xuất” (Không xuất mồ hôi) chính là một chứng, cũng có thể được coi là điều trị không đúng cách, hoặc dây dưa không có mồ hôi (chẳng hạn như không gặp bác sĩ, hoặc chưa sử dụng phương pháp đổ mồ hôi mặc dù điều trị), hoặc mặc dù sử dụng phương pháp đổ mồ hôi, nhưng bệnh nặng mà thuốc nhẹ nên không đạt được mục đích xuất mồ hôi. Mồ hôi xuất không đúng mức, hàn tà tại biểu không được giải, dương khí bế uất trở ngại, c̣n gọi là dương vi kết, tiến tới (phát triển) mà hoá nhiệt, nội nhiệt nhiễu tâm (nhiệt bên trong ảnh hưởng tạng tâm), nên sinh bực bội (phiền táo). Không xuất mồ hôi là nguyên nhân của bực bội, bực bội là kết quả của không xuất mồ hôi, v́ thế nên viết: “Bất hăn xuất nhi phiền táo” (不汗出而烦躁). T́nh huống này trên lâm sàng thường gặp ở bệnh nhân có thể chất cường tráng, có lực đề kháng mạnh mà tà khí cũng nhiều. Hàn tà bế uất ở biểu mà không thể xâm nhập vào trong, dương khí uất ở trong mà không thể tiết ra ngoài, chính là loại t́nh huống này. Nhưng chứng này chỉ do không xuất mồ hôi mà dẫn đến bực bội, đồng thời không có lư chứng của kinh dương minh là khát nước. v́ thế thuộc tà tại biểu kèm theo bệnh chứng dương uất hoá nhiệt, dùng thang Ma hoàng tuy có lực tán hàn khai bế, nhưng không thể thanh lư giải nhiệt, không phải là phương thang nên dùng cho chứng này, v́ thế dùng thang Đại thanh long có lực phát tán biểu tà mạnh mẽ để tuyên tiết nhiệt của dương uất, khiến biểu có thể giải mà trừ khứ phiền táo (bực bội). Nếu mạch không phù khẩn mà vi nhược, lại có các chứng như xuất mồ hôi, ghét gió, cho thấy vinh vệ đều hư hoặc vệ cường vinh nhược (vệ mạnh vinh yếu), mà không phải là vinh vệ đều thực. Nếu như sử dụng nhầm phương thang phát hăn mạnh như Đại thanh long, có thể do phát hăn quá mạnh mà vong dương, dương khí không thể thông ra tứ chi đầy đủ, xuất hiện tứ chi quyết nghịch (tay chân lạnh ngược lên); Xuất quá nhiều mồ hôi gây mất nước, âm dịch không đủ nuôi cân nhục, xuất hiện gân lỏng ra, da thịt co giật. Do trị liệu sai lầm mà dẫn đến bệnh t́nh biến hoại, cho nên gọi là “Thử vi nghịch dă”.
Thang Đại thanh long chính là thang Ma hoàng dùng nhiều Ma hoàng, gia thêm Thạch cao, Sinh khương, Đại táo, là thang thuốc phát hăn mạnh mẽ. Bội dụng vị Ma hoàng, Quế chi là tá dược, Sinh khương cay ấm phát hăn, tán hàn mở biểu; Thạch cao cay lạnh, có thể phối Ma hoàng để giải cơ khai dương bị uất, lại có thể thanh nhiệt trừ phiền táo (bực bội); Cam thảo, Đại táo hoà trung thêm cho nguồn mồ hôi (hăn nguyên). Phía dưới phương có chú thêm câu“Hăn xuất đa giả, ôn phấn phác chi” (Xuất nhiều mồ hôi, dùng bột gạo c̣n ấm xoa lên người) cho thấy phương này có lực phát hăn rất mạnh, không dễ khống chế. Khi mồ hôi xuất quá nhiều, phép pḥng trị là dùng bột xoa lên người. Phấn ấm tức là bột gạo sao nóng lên. Cách này là phương pháp chỉ hăn (ngăn mồ hôi) từ thời nhà Hán. Dù như thế, vẫn do mồ hôi xuất ra nhiều gây tổn thương cho dương khí, tạo thành chứng dương hư ghét gió hoặc dương hư âm thịnh, phiền táo không ngủ được, phát sinh nhiều loại biến nghịch. V́ thế, nếu sử dụng thang Thanh long, cần đặc biệt chú ư khống chế phát hăn nhiều hay ít sau khi uống thuốc.
Một sinh viên tốt nghiệp trong bệnh viện của chúng tôi đă từng điều trị một thành viên trung niên. Sau khi xuất rất nhiều mồ hôi vào mùa hè, thành viên đă xuống làm việc bên trong giếng. Cái lạnh dưới giếng giống như băng, và toàn thân đổ mồ hôi biến mất, và sau đó xuất hiện các chứng: Toàn bộ cơ thể bị đau và sợ lạnh, phát nhiệt, không có mồ hôi, phiền táo, uống thuốc không thấy hiệu quả. Y sinh đến khám, thấy bệnh nhân mặt đỏ hơi thở thô, mạch phù khẩn mà sác, không nghi ngờ là có liên quan với Đại Thanh long thang chứng. Nhưng lúc này là cao điểm của mùa hè, người này không dám tự tiện dùng thuốc, liền nhờ các thày thuốc khác ư kiến. Các y sinh đều cho rằng có thể, nếu như hăn xuất mà hư thoát th́ có thể dùng tây dược cấp cứu. V́ thế, họ dùng nguyên phương Đại thanh long, chỉ uống một lần thuốc là hăn xuất nhiệt thoái, mọi chứng đều khỏi.
Kim Quỹ Yếu Lược lấy Đại Thanh long dùng vào “Ẩm thuỷ lưu hành, quy vu tứ chi, đương hăn xuất nhi bất hăn xuất, thân thể đông trọng” của “Dật ẩm” (chứng thuỷ thấp đang xuất hăn lại không xuất hăn khiến cơ thể đau nhức), chủ yếu dùng mồ hôi để giải thuỷ độc, trị thuỷ tà ở tay chân, dưới da. Người viết trị qua một bệnh nhân, người này hai tay ê ẩm sưng trướng, thân thể béo ph́, uống Hoàng kỳ, Pḥng kỷ là thuốc ích khí lợi thuỷ và tiêm B1, B12 đều không hiệu quả. Người viết bèn dùng thang Đại thanh long, Việt t́ thang, sau khi uống thuốc bệnh nhân xuất mồ hôi và khỏi bệnh.
39伤寒脉浮缓,身不疼,但重,乍有轻时,无少阴证者,大青龙汤发之。C40
Điều 39
Thương hàn mạch phù hoăn, thân bất đông, đăn trọng, sạ hữu khinh thời, vô thiếu âm chứng giả, Đại thanh long thang phát chi. C40
Dịch: Thương hàn mạch phù và hoăn, thân thể không đau, nhưng nặng nề, chợt có lúc nhẹ, không có Thiếu âm chứng, thang Đại thanh long phát chi.
Điều 39 tiếp tục thảo luận trị liệu của thang Đại thanh long của điều 38 và giám định phân biệt với Thiếu âm chứng.
Thái dương thương hàn, mạch từ phù khẩn biến thành phù hoăn, chứng chuyển từ thân thể đau nhức biến thành thân thể nặng nề mà có lúc ngẫu nhiên giảm nhẹ, phản ảnh hàn tà tại biểu tuỳ theo xu hướng dương khí bế uất bất thân (co lại) hoá nhiệt. Hàn tà dần dần theo xu thế hoá nhiệt, mạch tự nhiên từ khẩn biến thành không khẩn, chứng cũng từ thân thể đau nhức chuyển thành không đau. Tuy hàn tà dần dần hoá nhiệt, nhưng chưa nhập lư (vào trong), vẫn ở ngoài biểu. Biểu c̣n đóng chưa mở, dương khí bế tắc, khí cơ toàn thân không thuận lợi, v́ thế thân thể nặng nề. Tà khí có xu thế nhập lư, tiến lui vào giữa biểu và lư, nên thấy thân thể nặng nhưng cũng có lúc lại nhẹ. Khí bên ngoài (biểu) bị bế uất, lư có uất nhiệt, th́ chứng phiền táo và uất nhiệt tất nhiên là ư tại ngôn ngoại (ngầm hiểu là có).
Chứng biểu hàn bế uất ở điều trước (điều38) khá rơ nét là hướng ra ngoài; Bộ phận biểu hàn hoá nhiệt của điều này (điều 39), có chiều hướng vào bên trong, nhưng đồng thời chưa thấy phiền khát muốn uống nước của Bạch hổ thang chứng, v́ thế vẫn dùng thang Đại thanh long để phát (hăn). V́ dương của Thiếu âm suy sẽ xuất hiện chứng trạng thân thể nặng nề bực bội, nên cần chú ư phân biệt với chứng thân thể nặng nề của Đại thanh long thang chứng, tránh phạm vào điều cấm hư hư chi giới (không làm cho hư thêm hư). Dương của Thiếu âm suy phải có mạch vi tế, tứ chi quyết nghịch (lạnh), tinh thần không phấn chấn là những chứng trạng chân dương suy vi, khác với chứng dương nhiệt của thang Đại thanh long.
Đối với những đề cập của hai điều trên “Thái dương trúng phong, mạch phù khẩn”, “Thương hàn, mạch phù hoăn”, và ứng dụng của thang Đại thanh long, ư kiến của các nhà chú thích qua các thời đại rất khác biệt.
Trừ một bộ phận nhà chú thích cho rằng văn tự có khả năng lộn xộn và đơn giản, các quan điểm khác trên cơ bản có thể phân thành hai phái. Với Thành Vô Kỷ, Hứa Thúc Vi, Phương Hữu Chấp là đại biểu, cho rằng Quế chi thang chứng là phong thương vệ (phong gây tổn thương vệ phận), Ma hoàng thang chứng là hàn thương doanh (hàn gây tổn thương doanh phận), Đại thanh long chứng chính là phong hàn lưỡng thương, doanh vệ cùng bị bệnh. Đây chính là thuyết “Tam cương đỉnh lập” (三纲鼎立)trứ danh (Du Gia Ngôn tại Thượng luận thiên quyển I Luận Thái dương thương hàn chứng trị đại ư trung thuyết: “Phong thương vệ, tắc dụng Quế chi thang; Hàn thương doanh, tắc dụng Ma hoàng thang; Phong hàn lưỡng thương doanh vệ, tắc dụng Đại thanh long thang.” Luận thuyết này bị hậu thế gọi là thuyết “Tam cương đỉnh lập”). Với Vưu Tại Kính làm đại biểu, không đồng ư với quan điểm trên, cho rằng “Quế chi chủ phong thương vệ tắc thị, Ma hoàng chủ hàn thương doanh tắc phi. Cái hữu vệ bệnh nhi doanh bất bệnh giả hĩ, vị hữu doanh bệnh nhi vệ bất bệnh dă. Chí vu Đại thanh long chứng, kỳ biện bất tại doanh vệ lưỡng bệnh, mà tại phiền táo nhất chứng. Kỳ lập phương chi chỉ, dă bất tại tịnh dụng Ma Quế, mà tại độc gia Thạch cao. ”( 桂枝主风伤卫则是,麻黄主寒伤营则非。盖有卫病而营不病者矣,未有营病而卫不病也。至于大青龙汤证,其辨不在营卫两病,而在烦躁一证。其立方之旨,也不 在并用麻桂,而在独加石膏。)Quế chi chủ phong gây tổn thương vệ phận là đúng, Ma hoàng chủ hàn gây tổn thương doanh phận là không đúng. V́ có vệ bệnh mà doanh không bệnh. C̣n như Đại thanh long chứng, phân biện không ở hai bệnh Doanh Vệ, mà là ở chứng phiền táo (bực bội). Mà mệnh lệnh lập phương, cũng không tại cùng dùng Ma Quế, mà tại gia thêm một vị Thạch cao. Quan điểm này của Vưu Tại Kính khá chính xác với thực tế lâm sàng, có điểm nên công nhận.
40伤寒表不解,心下有水气,干呕发热而咳,或渴,或利,或噎,或小便不利, 少腹满,或喘者,小青龙汤主之。C41
Điều 40
Thương hàn biểu bất giải, tâm hạ hữu thuỷ khí, can ẩu phát nhiệt nhi khái, hoặc khát, hoặc lợi, hoặc ế, hoặc tiểu tiện bất lợi, thiểu phúc măn, hoặc suyễn giả, Tiểu thanh long thang chủ chi.
Dịch: Thương hàn biểu không giải, dưới tim có thuỷ khí, nôn khan phát nhiệt mà ho, hoặc khát, hoặc hạ lợi (tiết tả), hoặc nghẹn, hoặc tiểu tiện bất lợi, bụng dưới trướng đầy, hoặc suyễn, thang Tiểu thanh long trị bệnh này.
Phương thang Tiểu thanh long
Ma hoàng 3 lạng, bỏ đốt Thược dược 3 lạng Ngũ vị tử nửa thăng Can khương 3 lạng, Cam thảo 3 lạng, Quế chi 2 lạng, bỏ vỏ Bán hạ nửa thăng, rửa nước nóng Tế tân 3 lạng
Gồm 8 vị, dùng 1 đấu nước, trước tiên nấu vị Ma hoàng, giảm 2 thăng, vớt bọt, cho tất cả thuốc vào, đun cạn c̣n 3 thăng, bỏ bă, uống 1 thăng thuốc lúc thuốc c̣n ấm.
Phép gia giảm:
Nếu lợi nhẹ (tiết tả nhẹ), khứ Ma hoàng gia Hoàn hoa, bằng quả trứng gà lớn, nấu có màu đỏ. Nếu khát khứ Bán hạ, gia Quát lâu căn 3 lạng; Nếu nghẹn khứ Ma hoàng gia Phụ tử 1 củ (sao); Nếu tiểu tiện bất lợi, bụng dưới đầy, khứ Ma hoàng gia Phục linh 4 lạng; Nếu suyễn: Khứ Ma hoàng, gia Hạnh nhân ½ thăng, bỏ vỏ và đầu nhọn.
Điều 40 thảo luận trị liệu chứng ngoại hàn kiêm nội ẩm. “Thương hàn biểu bất giải, tâm hạ hữu thuỷ khí” (Thương hàn biểu không giải, dưới tim có thuỷ khí) là tóm tắt bệnh cơ ngoại hàn nội ẩm của Tiểu thanh long thang chứng. “Phát nhiệt”nhất định đại biểu cho “Biểu không giải”, c̣n cần các chứng của thương hàn biểu thực như ghét lạnh, vô hăn, thân thể đau nhức. Dưới tim, vị quản có hàn tà đ́nh trệ lại (dạ dày có hàn tà đ́nh trệ), cũng chính là “Tâm hạ hữu thuỷ khí”. Hàn ẩm quấy nhiễu vị (dạ dày), vị khí thượng nghịch (trào ngược), nên thấy oẹ khan, thuỷ hàn xạ phế (hàn thuỷ ảnh hưởng phế) khiến phế khí không tuyên giáng, nên xuất hiện chứng ho. Thuỷ ẩm biến động không ở yên, có thể tuỳ theo tam tiêu khí cơ thăng giáng xuất nhập, v́ thế có thể thấy nhiều chứng hoặc một chứng. Thuỷ ẩm không hoá, tân dịch không thêm, nên thấy khát, nhưng không muốn uống nước; Nước xuống đại tràng, không phân trong đục, nên hạ lợi (tiết tả); Thuỷ hàn trệ khí, khí cơ không thông sướng nên nghẹn; Thuỷ ẩm đ́nh trệ ở bên trong, khí hoá không thuận lợi, nên tiểu tiện bất lợi, trường hợp nặng bụng dưới trướng đầy; Hàn ẩm bức bách phế, phế khí nghịch lên trên, xuất hiện chứng suyễn. Ho, suyễn, khát, nghẹn đều chính là hội chứng của thượng tiêu; Nôn khan là chứng của trung tiêu; Tiểu tiện không thuận lợi, bụng dưới trướng đầy, tiết tả là chứng của hạ tiêu. Chứng tuy nhiều, then chốt đều chính là “thuỷ khí” gây ra.. Dưới tim có thuỷ ẩm, bên ngoài có biểu hàn, trị liệu dùng thang Tiểu thanh long bên ngoài tán hàn tà tại biểu, bên trong tiêu thuỷ ẩm dưới tim (tâm hạ). Đây chính là phát hăn tiêu ẩm, phép lưỡng trị biểu lư (điều trị cả trong và ngoài).
Thang Tiểu thanh long do thang Ma hoàng khứ Hạnh nhân, gia Can khương, Tế tân, Ngũ vị tử, Thược dược, Bán hạ mà thành. Phát hăn giải biểu, tuyên phế b́nh suyễn, kèm theo lợi thuỷ; Quế chi có thể tăng cường tuyên tán hàn tà, có tác dụng thông suốt dương khí; Can khương phối Bán hạ, ôn hoá thuỷ hàn tà của trung tiêu, trị thuỷ khí dưới tim; Tế tân có vị cay mà tán (tân tán), ôn tán thuỷ hàn tà ở tam tiêu (thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu). Phân tích từ các vị thuốc, thang Tiểu thanh long thượng, trung, hạ tam tiêu ở bên trong lại ôn thông tam tiêu, có công hiệu thông trị hàn ẩm ở thượng, trung, hạ tam tiêu. V́ e ngại các vị thuốc tân tán thái quá, có thể háo âm động dương, tổn thương chính khí, nên dùng chích Cam thảo để thủ giữ trung tiêu phù tŕ chính khí (coi giữ trung tiêu và phụ trợ chính khí), Thược dược chua liễm để giữ ǵn can âm, Ngũ vị tử toan liễm để bảo hộ thận âm, khiến cho phương thang này có đặc điểm là ôn tán hàn ẩm mà không tổn thương chính khí.
Xem xét quy luật trị liệu hàn ẩm của Trương Trọng Cảnh, khi trị liệu hàn ẩm ở phế vị, thường dùng phối hợp 3 vị Can khương, Tế tân, Ngũ vị tử, đối với chứng hàn ẩm ho suyễn thu được hiệu quả rất tốt. Can khương, Tế tân có thể trực tiếp nhập vào phế, tán thuỷ hàn tà, Ngũ vị tử cũng có thể nhập phế, thu liễm khí nghịch của phế. Một thu một tán, trong tán có thu, chính tà cùng chiếu cố, đối với tiêu tán hàn ẩm, trị ho định suyễn thập phần đắc lực. V́ thế khi sử dụng phương này cần đặc biệt chú ư đến phương pháp phối ngẫu. Trong《Kim Quỹ Yếu Lược Đàm Ẩm Khái Thấu Bệnh Mạch Chứng Tính Trị》có thang Linh Cam Ngũ vị Khương Tân, thang Quế Linh Ngũ vị Cam thảo khứ Quế gia Khương Tân Hạ, thang Linh Cam Ngũ vị gia Khương Tân Bán Hạ Hạnh nhân, thang Kim Cam Ngũ vị gia Khương Tân Bán Hạnh Đại hoàng, các phương trị đàm ẩm khái thấu vừa nêu, đều thoả đáng trong việc sử dụng phối ngẫu rất tốt giữa các vị thuốc Can khương, Tế tân và Ngũ vị.
Phương thang này có tác dụng tán biểu hàn ở ngoài, bên trong tiêu hàn ẩm, là phương điều trị bệnh ở cả biểu và lư (cả ngoài và trong). Bất quá, nếu không có biểu chứng thương hàn, chỉ cần là hàn ẩm đ́nh lại bên trong phát sinh ho suyễn, cũng có thể sử dụng, như Kim Quỹ Yếu Lược lấy thang Tiểu thanh long dùng cho chứng “Dật ẩm” và “Chi ẩm” chứng ho phải ngồi không thể nằm. Căn cứ kinh nghiệm lâm sàng, phàm nếu bệnh nhân bên trong có hàn ẩm tạo thành chứng ho suyễn, thường có biểu hiện lâm sàng như sau: Thuỷ hàn ngăn cản dương khí, nên sắc mặt thường có màu xanh hoặc đen sạm, gọi là “Thuỷ sắc”; Hàn ẩm ngưng trệ cản trở, doanh vệ khí huyết vận hành không thuận lợi, th́ trên mặt có thể xuất hiện sắc tố sậm có tính đối xứng, gọi là “Thuỷ ban”; Thuỷ khí đ́nh trệ ở dưới da, sẽ thấy vùng mặt bị hư phù, bao mắt phù nhẹ, gọi là “Thuỷ khí”. Sự xuất hiện của thuỷ sắc, thuỷ ban, thuỷ khí chính là khi sử dụng nền tảng vọng chẩn của thang Tiểu thanh long. Ngoài ra, loại bệnh nhân này thường gặp mạch huyền với rêu lưỡi ướt và trơn.
Ho suyễn của Tiểu thanh long thang chứng có liên quan với hàn ẩm ảnh hưởng (xạ) phế gây ra, luôn luôn ho và nhiều đàm, với đàm của loại hàn ẩm này có đủ các đặc điểm sau: Một là ho thổ ra một lượng lớn bọt màu trắng dạng đàm, rơi xuống đất thành nước; Hai là thổ ra đàm lạnh, tự có cảm giác đàm mát lạnh như phấn, có màu tro tựa như ḷng trắng trứng dạng nửa như trong suốt, mà lại liên tục không đứt. So sánh cho thấy, đàm khô, hoặc đàm keo dính khó khạc ra, không khó phân biệt. Ngoài ra, bệnh nhân thường thở ngắn, khó chịu, cảm giác nghẹt thở, trường hợp nặng bệnh nhân phải ngồi khi ho không thể nằm, càng nặng hơn khi bệnh nhân ho suyễn kèm theo chảy nước mắt nước mũi, nặng cực độ khi thuỷ khí thượng nghịch bệnh bị đột nhiên hôn quyết (đột nhiên ngă ra). Nguyên nhân bệnh thuộc hàn ẩm, khi thời tiết ấm áp th́ bệnh t́nh hoăn giải, khi thời tiết lạnh lẽo th́ bệnh tăng nặng.
Do thuỷ hàn tà gây bệnh nhiều biến động không cố định, nên thường trên cơ sở chủ chứng xuất hiện nhiều loại kiêm chứng khác nhau. Trị liệu kiêm chứng cần chú ư gia giảm vị thuốc theo chứng, linh hoạt biến thông, để có thể thu được hiệu quả tốt nhất. Dưới phương thang có kèm theo phép gia giảm, chính là bản mẫu của Trương Trọng Cảnh tuỳ theo chứng mà biến hoá lượng định.
Phương này sử dụng đồng thời Ma hoàng và Quế chi, lại phối với Tế tân, tuy có Thược dược, Cam thảo, Ngũ vị tử cùng là tá dược, cuối cùng cũng là thang tễ tân tán mănh liệt. V́ thế, phép uống yêu cầu phân làm ba lần uống, để sức thuốc không quá mănh liệt. Cho dù như thế, khi gặp bệnh, đối với bệnh nhân tuổi cao sức yếu, trẻ em nhi đồng, đặc biệt là những bệnh nhân công năng tâm thận hư suy yếu vẫn cứ phải thận trọng khi sử dụng, sợ ảnh hưởng thận khí, động xung khí, gây thành mối hại háo âm động dương. Đối với bệnh nhân thông thường, sử dụng phương này là phép cứu cấp dùng khi phát tác ho suyễn cấp tính, không thể uống lâu dài, uống nhiều. Khi bệnh hoăn giải, nên dùng các thang Linh Quế (như Linh Quế Truật Cam thang, Linh Quế Hương Cam thang, Linh Quế Vị Cam thang, Linh Quế Tuệ Cam thang, Linh Quế Cam thang.v.v…), ôn hoá hàn ẩm, để tốt về sau.
Người viết từng điều trị một bệnh nhân ho suyễn, bắt đầu bằng 3 thang Tiểu thanh long, sau khi uống chứng trạng giảm nhẹ, vốn từ đầu đă có ư đổi phương, nhưng bệnh nhân thấy uống thuốc có hiệu quả, không tái khám và tự ư uống thêm 12 thang, kết quả xuất hiện chảy máu mũi không ngừng. Sau đó phải nhập viện cấp cứu cầm máu, nhưng vẫn c̣n các chứng như mỏi mệt, yếu sức. Đây là một thí dụ về việc uống quá nhiều thuốc tân tán, tổn thương âm, động huyết. Diệp Thiên Sĩ trong 《Lâm Chứng Chỉ Nam Y Án Suyễn Môn》ghi lại 2 trang các bài thuốc trị suyễn, một trang dùng Ma hoàng mà không dùng Tế tân; Riêng một trang dùng Tế tân, Can khương, Ngũ vị tử mà không dùng Ma hoàng, nhưng lại gia thêm các vị thuốc như Phục linh, Nhân sâm. V́ sao Diệp Thiên Sĩ dùng riêng hai vị Ma hoàng Tế tân mà không dùng chung? Có thể v́ ông hành nghề y ở phương nam, khí hậu ấm và ẩm ướt, thớ thịt con người lỏng lẻo, v́ thế mà không dùng nhiều vị thuốc tân tán. Có thể thấy, danh gia hậu thế đă có những nhận thức sâu sắc đối với việc hợp dụng Ma hoàng Tế tân, có lực phát tán quá mạnh, dễ dẫn đến hậu quả tệ hại là tổn thương âm và động dương.
Đại, Tiểu thanh long thang có thể thấy là đều do Ma hoàng thang khai triển thành, cũng đều là phương lưỡng giải biểu lư. Nhưng Đại thanh long thang phát hăn tán hàn, kiêm thanh nhiệt uất của dương để trừ phiền táo, với chủ yếu là phát hăn; Tiểu thanh long thang phát hăn tán hàn, loại trừ hàn ẩm dưới tim để trị ho suyễn, với chủ yếu là trừ ẩm. Bất luận là {Thương hàn luận} hay Kim Quỹ Yếu Lược, sử dụng Đại thanh long thang đều cần ra mồ hôi, mà thang Tiểu thanh long trong {Thương hàn luận} được dùng để giải cả biểu và lư, trong Kim Quỹ Yếu Lược được dùng để ôn tán thuỷ ẩm dưới tim.
Cấm kỵ sử dụng của Đại thanh long thang đă được nói đến trong {Thương hàn luận}, v́ thế không nhắc lại trong {Kim Quỹ Yếu Lược}, đó chính là trước th́ rơ ràng mà sau th́ sơ lược. Cấm kỵ sử dụng của Tiểu thanh long không ghi lại trong {Thương hàn luận}, mà trong {Kim Quỹ Yếu Lược} lại nói rơ ràng đó chính là sau th́ rơ ràng mà trước th́ sơ lược. Kim Quỹ Yếu Lược Đàm Ẩm Khái Thấu Bệnh Mạch Chứng Tính trị nói: “Khái nghịch ỷ tức bất đắc ngoạ, Tiểu thanh long thang chủ chi. Thanh long thang hạ dĩ, đa thoá khẩu táo, thốn mạch trầm, xích mạch vi, thủ túc quyết nghịch, khí ṭng tiểu phúc thượng xung hung yết, thủ túc tí, kỳ diện hấp nhiệt như tuư trạng, nhân phục hạ lưu âm cổ, tiểu tiện nan, thời phục mạo giả, dữ Phục linh Quế chi Ngũ vị Cam thảo thang, trị kỳ khí xung. ” (咳逆倚息不得卧,小青龙汤主之。青龙汤下已,多唾口燥,寸脉沉,尺脉微,手足厥逆,气从小腹上冲胸咽,手足痹,其面翕热如醉状, 因复下流阴股,小便难,时复冒者,与获苓桂枝五味甘草汤,治其气冲。)Khi ho phải ngồi thở không thể nằm, Tiểu thanh long trị bệnh này, đă uống Thanh long thang, khạc nhổ nhiều miệng khô, mạch thốn trầm, mạch xích vi, tay chân quyết lănh, khí từ bụng xung lên ngực họng, tay chân đau, mặt nóng như người say rượu, v́ lại chảy xuống âm cổ ( là phần gần âm đạo), tiểu tiện khó, khi bốc lên, dùng thang Phục linh Quế chi Ngũ vị Cam thảo, trị chứng khí thượng xung. Đây là đoạn văn tŕnh bày chi tiết về cấm kỵ sử dụng và những biến chứng và phương pháp cứu trị sau khi sử dụng sai lầm thang Tiểu thanh long. Vưu Tại Kính có những giải thích thuyết minh đối với đoạn văn này rất tốt: “Phục Thanh long thang dĩ, thiết kỳ nhân hạ thực bất hư, tắc tà giải nhi bệnh trừ. Nhược hư tắc Ma hoàng Tế tân tân cam ôn tán chi phẩm tuy năng phát việt ngoại tà, diệc dị động nhân xung khí. Xung khí, xung mạch chi khí dă. Xung mạch khởi vu hạ tiêu giáp thận mạch thượng hành chí hầu lung. Đa thoá khẩu táo, khí xung hung yết, diện nhiệt như tuư, giai xung khí thượng nhập chi hậu dă. Thốn trầm xích vi, thủ túc quyết nhi tí giả, quyết khí thượng hành nhi dương khí bất trị dă. Hạ lưu âm cổ, tiểu tiện nan, thời phục mạo giả, xung khí bất quy, nhi nhưng thượng nghịch dă. Phục linh Quế chi năng ức xung khí sử chi hạ hành, nhiên nghịch khí phi liễm bất giáng, cố dĩ ngũ vị chi toan liễm kỳ khí, thổ hậu tắc âm hoả tự phục, cố dĩ Cam thảo chi cam bổ kỳ trung dă.” (服青龙汤已,设其人下实不虚,则邪解而病除。若虚则麻黄细辛辛甘温散之品虽能发越外邪,亦易动人冲气。冲气, 冲脉之气也。冲脉起于下焦,夹肾脉上行至喉咙。多睡口燥, 气冲胸咽,面热如醉, 皆冲气上人之候也。寸沉尺微,手足厥而痹者,厥气上行而阳气不治也。 下流阴股,小便难,时复冒者,冲气不归,而仍上逆也。获苓桂枝能抑冲气使之下行,然逆气非剑不降,故以五味之酸敛其气,土厚则阴火自伏,故以甘草之甘 补其中也。) Đă uống thang Thanh long, giả sử là người hạ thực (hạ tiêu thực chứng) không hư, th́ tà giải mà bệnh được giải trừ. Nếu là hư chứng th́ Ma hoàng Tế tân là những dược phẩm tân cam ôn (cay ngọt ấm) tuy có thể phát tán ngoại tà, cũng dễ động nhân xung khí . Xung khí, là khí của mạch xung. Xung mạch bắt đầu ở hạ tiêu, theo mạch thận đi lên họng. Khạc nhổ nhiều miệng khô, khí bốc lên ngực họng, sắc mặt như người say rượu, đều là hội chứng của khí bốc lên, mạch thốn trầm, mạch xích vi, tay chân quyết lănh tê bại, quyết khí đi lên mà dương khí không trị được, v́ lại chảy xuống âm cổ ( là phần gần âm đạo) tiểu tiện khó khăn, thỉnh thoảng tái phát, xung khí không trở về, mà lại nghịch lên. Thang Phục linh Quế chi có thể ức chế khiến xung khí đi xuống, khí nghịch không liễm không giáng xuống, nên Ngũ vị chua thu liễm khí, Thổ đầy đặn khiến âm hoả tự phục, nên Cam thảo vị ngọt có tác dụng bồi bổ trung châu ) Cho thấy người hạ hư dùng nhầm thang Tiểu thanh long sẽ dẫn đến động xung khí, hậu quả là ảnh hưởng thận khí, nhắc nhở mọi người khi sử dụng thang Tiểu thanh long nên nghiêm túc nắm vững chứng cấm kỵ của thang dược. Cho dù ngoại trừ thang Linh Quế Vị Cam thang trong {Kim Quỹ Yếu Lược} của điều này, c̣n thiết lập nhiều loại phương cứu trị sau khi dùng nhầm thang Tiểu thanh long, nhưng dù sao th́ cẩn thận vẫn là cách tốt nhất. Chẳng qua, trị liệu là căn cứ vào biện chứng, chỉ cần biện chứng chuẩn xác, th́ điều trị không cấm kỵ, và v́ thế cũng không thể v́ khó khăn mà không sử dụng.
Phương thang này thích hợp với chứng ho suyễn do hàn ẩm, không thể dùng cho chứng ho suyễn do Thái âm ôn bệnh, phong nhiệt phạm phế. Thang Tiểu thanh long gia Thạch cao trong {Kim Quỹ Yếu Lược}, trị liệu “Phế trướng, khái nhi thượng khí, phiền táo nhi suyễn, mạch phù, tâm hạ hữu thuỷ” (phế trướng, ho như khí nghịch lên, phiền táo mà suyễn, mạch phù, dưới tim có nước), chính là dùng trị tà ẩm thuỷ ở trong, ngăn cản dương khí mà xuất hiện chứng phiền táo (bực bội).
41伤寒,心下有水气,咳而微喘,发热不渴。服汤已渴者,此寒去欲解也。 青龙汤主之。C42
Điều 41
Thương hàn, tâm hạ hữu thuỷ khí, khái nhi vi suyễn, phát nhiệt bất khát. Phục thang dĩ khát giả, thử hàn khứ dục giải dă. Thanh long thang chủ chi.
Dịch: Thương hàn, dưới tim có thuỷ khí, ho mà suyễn nhẹ, phát nhiệt không khát. Uống thuốc rất khát, đó là trừ khứ hàn muốn khỏi bệnh. Thanh long thang trị bệnh này.
Điều này nối tiếp điều trên (40) nói thêm về chủ chứng và cơ chế chuyển biến sau khi uống thuốc trừ khứ hàn tà và bệnh chuyển biến tốt.
“Tiểu thanh long thang chủ chi” cần phải để tiếp sau “Phát nhiệt bất khát” (发热不渴) thuộc đảo trang câu pháp. “Thương hàn, tâm hạ hữu thuỷ khí”, với câu ở điều (41) “Thương hàn biểu bất giải, tâm hạ hữu thuỷ khí” có hàm nghĩa giống nhau, cũng chính là nói về cơ chế bệnh của thang Tiểu thanh long. Điều trên giảng về chứng chủ yếu là nôn khan, phát nhiệt mà ho, điều này nói thêm về chứng ho và suyễn nhẹ cũng chính là chứng thích ứng (hợp với điều kiện khách quan). Chứng khát nước ở điều trước hoặc là chứng tự nhiên chính là do thuỷ khí bất hoá, tân dịch bất tư (tăng thêm) gây ra, v́ thế khi điều trị th́ khứ Bán hạ gia Thiên hoa phấn để sinh tân dịch trị khát nước. Ở điều này sau khi uống thang Tiểu thanh long th́ xuất hiện khát nước, chính là sau khi uống thuốc bệnh tà hàn ẩm đă bị trừ khứ, khí của Vị dương dần dần hồi phục, khí bên trong ấm áp, dấu hiệu của thuỷ khí phân tán v́ thế Trương Trọng Cảnh viết: “Thử hàn khí dục giải dă.” (此寒去欲解也。)Đó là hàn khí muốn giải vậy. Tuy khát nhưng không quá khát, làm sao để trị nó? , có thể không trị cũng khỏi, uống từng chút nước là được. Nếu như khát nước và khát quá nhiều, th́ sẽ uất át (cản trở) vị dương, dẫn đến tai hoạ là thuỷ khí tụ trở lại.
42太阳病,外证未解,脉浮弱者,当以汗解,宜桂枝汤。C43
Điều 42
Thái dương bệnh, ngoại chứng vị giải, mạch phù nhược giả, đương dĩ hăn giải, nghi Quế chi thang.
Dịch: Thái dương bệnh, chứng bên ngoài chưa giải, mạch phù nhược, cần dùng hăn để giải, nên dùng thang Quế chi.
Đây là đoạn văn tŕnh bày Thái dương bệnh thấy mạch phù nhược, điều trị nên dùng thang Quế chi.
Điều này nên xét chung với điều 38 “Mạch đăn phù giả, dữ Ma hoàng thang” (Mạch vẫn phù, dùng thang Ma hoàng).
Thái dương bệnh ở điều 38 “Mạch đăn phù” (mạch vẫn phù), trên thực tế là chỉ mạch phù khẩn, là thuộc chứng thương hàn biểu thực, điều trị dùng thang Ma hoàng. Đây là điều nói về Thái dương bệnh mạch không phù khẩn mà thấy “Phù nhược”, nhược chính hoăn nhược (yếu và chậm), nên nghĩ đến chính là chứng trúng phong biểu hư, điều trị nên dùng thang Quế chi.
Tại 7 điều liên tiếp sau khi tŕnh bày các chứng và trị liệu chứng thương hàn biểu thực của thang Ma hoàng và thang Đại, Tiểu thanh long , từ điều này bắt đầu tái thảo luận trị liệu của thang Quế chi, nơi đây sẽ có một sự so sánh giữa hư và thực, có thể làm sâu sắc thêm tư tưởng của biện chứng luận trị.
43太阳病,下之微喘者,表未解故也。桂枝加厚朴杏仁汤主之. C44
Điều 43
Thái dương bệnh, hạ chi vi suyễn giả, biểu vị giải cố dă. Quế chi gia Hậu phác Hạnh nhân thang chủ chi.
Dịch: Thái dương bệnh, hạ th́ suyễn nhẹ, biểu chưa giải. Quế chi gia Hậu phác Hạnh nhân thang trị bệnh này.
Đây là đoạn văn thảo luận trị liệu của Thái dương biểu chứng không giải kèm theo tà hăm gây suyễn.
Thái dương bệnh, chỉ cần ngoại chứng c̣n, là khiến đại tiện không thuận lợi, dù đại tiện bất lợi cũng không được hạ trước, mà nên giải biểu trước, biểu giải rồi mới có thể tả hạ công lư. Đó gọi là “Hăn nghi tảo, hạ nghi tŕ”(hăn pháp nên sớm, hạ pháp nên chậm) “汗宜早,下宜迟”. Nếu như biểu chứng vẫn tồn tại mà dùng nhầm phép hạ, th́ dễ tổn thương khí bên trong, khiến tà ở biểu thừa cơ hội hăm vào trong. Sau khi hạ nhầm, chỉ thấy suyễn nhẹ, cho thấy tà khí tại biểu đă dần dần xâm nhập vào trong (nhập lư), ảnh hưởng phế khí bất lợi mà nghịch lên. V́ phương diện mâu thuẫn chủ yếu c̣n ở biểu, tức “Biểu chưa giải”, v́ thế trị liệu chủ yếu vẫn dùng thang Quế chi để giải cơ phát biểu, lại gia Hậu phác, Hạnh nhân để giáng khí trị suyễn. V́ sau khi dùng phép tả hạ th́ chính khí sẽ bị tổn thương, v́ thế không nên dùng thang Ma hoàng có lực phát hăn mạnh. Trên lâm sàng phàm là phong hàn ngoại cảm kèm chứng suyễn nhẹ, mạch phù có mồ hôi th́ dùng Quế chi thang gia Hậu phác Hạnh tử thang có hiệu quả rất tốt. Ở điều 20 có viết: “Suyễn gia tác Quế chi thang, gia Hậu phác Hạnh tử giai” (喘 家作桂枝汤,加厚朴杏子佳) giải thích là bệnh cảm mới dụ phát bệnh suyễn vốn có từ trước, dùng phương này không trị bệnh suyễn mà chính là trị chứng trúng phong kèm theo chiếu cố bệnh có sẵn (túc tật), chính là phương pháp bệnh cấp th́ điều trị ngọn, v́ thế viết là “giai”(tốt đẹp). Điều này là bệnh cảm mới biểu tà không giải, tà hăm vào trong gây suyễn, chính là kiêm chứng của Quế chi thang chứng, dùng phương này có ư phát tán biểu tà kèm theo tuyên giáng phế khí, biểu lư cùng được chiếu cố khiến mọi chứng đều khỏi. V́ thế không gọi là “giai” , mà gọi là “chủ chi”.
Trên lâm sàng trị suyễn, do hàn ẩm ảnh hưởng phế dùng thang Tiểu thanh long, do phế nhiệt gây suyễn dùng thang Ma Hạnh Cam Thạch, có nhiều người dùng phương pháp trị suyễn này. So sánh mà nói, sử dụng thang Quế chi gia Hậu phác Hạnh tử trị suyễn tương đối ít, mà phương này cũng ít người xem trọng. Kỳ thực, đối với phong hàn ngoại cảm dẫn đến xuất hăn và suyễn, Ma hạnh Cam Thạch thang, Tiểu thanh long thang đều không thích hợp. Chỉ có phương này là có khả năng trị bệnh. Bồ Phụ Chu tiên sinh đă ghi lại trong y án trị suyễn, đă sử dụng bản phương và đă hiểu sâu sắc yếu lĩnh của phương thang. Phương này trị suyễn với tiêu chuẩn mạch chứng là mạch phù hoăn, có mồ hôi, dùng thang Quế chi gia Hậu phác, Hạnh tử. Diệp Thiên Sĩ tiên sinh chỉ gia Hạnh tử mà không gia Hậu phác, hiệu quả thu được cũng rất tốt.
44太阳病,外证未解者,不可下也,下之为逆。欲解外者,宜桂枝汤主之。 C45
Điều 44
Thái dương bệnh, ngoại chứng vị giải giả, bất khả hạ dă, hạ chi vi nghịch. Dục giải ngoại giả, nghi Quế chi thang chủ chi.
Dịch: Thái dương bệnh, ngoại chứng chưa giải, không thể hạ, hạ là ngược, nên dùng thang Quế chi trị bệnh này.
Đoạn văn này tŕnh bày bệnh biểu lư cùng bị bệnh (biểu lư đồng bệnh), trước tiên nên giải trừ bệnh bên ngoài, điều trị nên dùng thang Quế chi.
Phàm là biểu chứng chưa giải, khi thấy lư chứng là đại tiện không thuận lợi, không được công hạ trước. Nếu công hạ trước, chính là phạm sai lầm trong trị liệu. V́ trong t́nh huống thông thường, bệnh tà khách ở biểu, nên dùng hăn pháp để giải; Tà khí kết ở trong (lư), nên công hạ để trị bệnh; Biểu lư cùng bị bệnh, phải giải biểu trước và công lư sau. Nếu như công lư trước, sẽ làm tổn thương khí bên trong, khí bên trong thụ thương, bệnh tà ở bên ngoài (biểu) rất dễ dàng thừa cơ hội thân thể hư tổn mà truyền vào trong, khiến cho bệnh trở nên phức tạp. V́ thế, khi biểu lư cùng bị bệnh, nhất định trước tiên giải trừ bệnh ở biểu, sau khi giải quyết biểu tà, nếu khí bên trong vẫn thực th́ có thể công hạ. Đây chính là nguyên tắc trị liệu rất trọng yếu của thương hàn lục kinh. C̣n như giải biểu, nên suy nghĩ sử dụng thang Quế chi. V́ ở đây là đại tiện không thuận lợi, v́ thế dùng thang Ma hoàng có tác dụng phát hăn mạnh sẽ dễ gây tổn thương tân dịch, chỉ nên dùng thang Quế chi có tác dụng tư âm hoà dương, điều vinh hoà vệ là thích hợp.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-11-27 13:23:22
Từ điều 45 đến 54
45太阳病,先发汗不解,而复下之,脉浮者不愈。浮为在外,而反下之,故令 不愈。今脉浮,故知在外,当须解外则愈,宜桂枝汤主之。(C46)
Điều 45
Thái dương bệnh, tiên phát hăn bất giải, nhi phục hạ chi, mạch phù giả bất dũ. Phù vi tại ngoại, nhi phản hạ chi, cố linh bất dũ. Kim mạch phù, cố tri tại ngoại, đương tu giải ngoại tắc dũ, nghi Quế chi thang chủ chi.
Dịch: Thái dương bệnh, trước tiên phát hăn không giải, lại tả hạ, mạch phù bệnh không khỏi. Mạch Phù là bệnh ở bên ngoài, mà lại hạ, nên không khỏi. Nay mạch phù, biết là bệnh c̣n ở ngoài, nếu giải biểu bệnh sẽ khỏi, nên dùng thang Quế chi trị bệnh này.
Đoạn văn này tŕnh bày Thái dương bệnh sau khi dùng hăn pháp, hạ pháp bệnh không được giải trừ vẫn có thể lại dùng hăn pháp.
Thái dương bệnh, bệnh này nên dùng phép phát hăn để giải trừ bệnh. Hiện tại chính là “Tiên phát hăn bất giải” (Trước tiên phát hăn không giải trừ được bệnh), điều này cho thấy có khả năng là biểu lư cùng bị bệnh, hoặc phát hăn không đúng phép, hoặc do bệnh nặng thuốc nhẹ, dẫn đến một lần phát hăn không thể giải trừ bệnh. Biểu tà đă không giải, nên phát hăn lại một lần nữa, tức là nếu có lư chứng cũng không công hạ. Nếu không, hạ nhầm sẽ gây tổn thương chính khí, dẫn đến biểu tà hăm vào trong, biến sinh bệnh khác. Hiện tại chính là biểu tà không giải mà lại công hạ, mạch vẫn thấy phù, cho thấy bệnh vẫn ở Thái dương, không truyền vào trong. “浮为在外,而反下之,故令不愈” “Phù vi tại ngoại, nhi phản hạ chi, cố linh bất dũ”(Phù là bệnh ở ngoài, nếu mà tả hạ, sẽ không khỏi bệnh) Chính là tập trung vào câu, chỉ ra nguyên nhân bệnh không được giải trừ chính là nên phát hăn mà không phát hăn, lại dùng phép công hạ. V́ hiện tại bệnh này phát sinh sau khi dùng hăn pháp và hạ pháp, tuy nhiên nên tái dụng hăn pháp, cũng không thể dùng thang Ma hoàng có tác dụng phát hăn mạnh mẽ, mà nên sử dụng thang Quế chi.
Thái dương bệnh, một lần phát hăn bệnh không giải có thể phát hăn lại; Dương minh bệnh hạ một lần dư nhiệt tụ lại, có thể tái dụng hạ pháp. Chứng cứ trên lâm sàng nên dùng biện chứng làm chuẩn mực, có chứng nào th́ dùng phép đó, ngàn vạn lần không nên dao động.
46太阳病,脉浮紧,无汗,发热,身疼痛,八九日不解,表证仍在,此当发其汗。 服药已,微除,其人发烦目瞑。剧者必衄, 衄乃解,所以然者,阳气重故也。麻黄汤主之。(C47)
Điều 46
Thái dương bệnh, mạch phù khẩn, vô hăn, phát nhiệt, thân đông thống, bát cửu nhật bất giải, biểu chứng nhưng tại, thử đương phát kỳ hăn. Phục dược dĩ, vi trừ, kỳ nhân phát phiền mục minh. Kịch giả tất nục, nục năi giải, sở dĩ nhiên giả, dương khí trọng cố dă. Ma hoàng thang chủ chi.
Dịch: Thái dương bệnh, mạch phù khẩn, không mồ hôi, phát nhiệt, thân thể đau nhức, 8,9 ngày không giải, biểu chứng c̣n đó, lúc này nên phát hăn. Đă uống thuốc, vi trừ, bệnh nhân phát phiền nhắm mắt. Nặng th́ chảu máu mũi, máu mũi ngừng, nguyên cớ v́ sao, dương khí trọng, Ma hoàng thang trị bệnh này.
Đoạn văn này tŕnh bày Thái dương thương hàn, kéo dài lâu ngày, sau khi uống thang Ma hoàng có khả năng phát sinh t́nh huống hết chảy máu mũi, đồng thời chỉ ra dấu hiệu báo trước chứng chảy máu mũi (tỵ nục) và nguyên nhân giải trừ chứng chảy máu mũi (tỵ nục). “Ma hoàng thang chủ chi” nên tiếp vào phía sau của “Thử đương phát kỳ hăn”.
Thái dương bệnh, xuất hiện mạch phù khẩn, không mồ hôi, phát nhiệt, thân thể đau nhức, chính là điển h́nh của chứng Thái dương thương hàn biểu thực. Nếu như chứng này kéo dài 8,9 ngày chưa khỏi, th́ vẫn phải dùng thang Ma hoàng để phát hăn. Nếu sau khi uống thuốc bệnh nhân xuất hiện không ra mồ hôi mà phiền táo (bực bội), thuộc chứng biểu tà bế uất quá nặng, dương nhiệt nội uất của chứng Đại thanh long thang. “Phục dược dĩ, vi trừ”, đúng là nói xuất một chút mồ hôi, hội chứng có chút giảm nhẹ, nhưng không triệt để. Tại sao không khai xuất ở thời điểm này để khỏi bệnh? Đó chính là do vệ bế doanh thực, lại không được trị liệu kịp thời, kéo dài 8,9 ngày, khiến dương khí bị ngăn cản đè nén quá mức, tức “Dương khí trọng cố dă”. Lúc này sử dụng thang Ma hoàng , cũng chỉ vỏn vẹn xuất được một chút mồ hôi, khiến cho tà ở vệ phận giảm nhẹ, mà tà khí trong doanh phận không thể hết được. Cho dù như thế, sau khi uống thuốc được sức thuốc trợ giúp, khiến dương khí mạnh mẽ, lại có khả năng xuất hiện t́nh huống chiến hăn (lạnh run và xuất mồ hôi) để giải bệnh hoặc chảy máu mũi để giải bệnh. Hai loại t́nh huống tự giải thường gặp ở trường hợp tà khí thịnh, bệnh nhân có thể chất khá cường tráng.
Đoạn văn tŕnh bày t́nh huống chảy máu mũi (tỵ nục) làm giải cứu bệnh. Tỵ nục tác giải (Chảy máu mũi để giải bệnh), c̣n gọi là “Hồng hăn” (Mồ hôi đỏ), chính là tà khí không thể giải ra ngoài, dương khí uất trệ quá độ, bên trong bức bách doanh phận, bức bách huyết vọng hành (huyết đi không đúng đường) theo đường mũi xuất ra ngoài. Mồ hôi và máu đồng nguyên (có cùng nguồn), tà khí không thể giải theo mồ hôi, th́ có thể giải theo máu mũi (nục). Trước khi giải bằng nục, do dương khí phát động, muốn trừ khứ tà khí ra ngoài, chính tà tương tranh, bệnh nhân thường xuất hiện các chứng báo trước như phiền nóng, sợ ánh sáng hoặc vựng đầu. Sau khi chảy máu mũi, hàn tà ở doanh phận theo đó mà được trừ khứ, mọi chứng theo đó mà khỏi. Quá tŕnh này hoặc gọi là “Nục dĩ đại hăn” (衄以代汗)Máu mũi thay cho mồ hôi, hoặc “Xuất hồng hăn” (出红汗)Xuất mồ hôi đỏ, “Xuất đại hàn” (出大寒)Xuất lạnh.
47 太阳病,脉浮紧,发热身无汗,自衄者愈。
C48
Điều 47
Thái dương bệnh, mạch phù khẩn, phát nhiệt thân vô hăn, tự nục giả dũ.
Dịch: Thái dương bệnh, mạch phù khẩn, phát nhiệt không xuất mồ hôi, tự chảy máu mũi để khỏi bệnh.
Đoạn văn này tŕnh bày tiếp theo điều tái luận chứng Thái dương thương hàn biểu thực có thể tự chảy máu mũi để giải bệnh.
“Mạch phù khẩn, phát nhiệt thân vô hăn” (脉浮紧,发热身无汗) Mạch phù khẩn, phát sốt, trên người không có mồ hôi, không nghi ngờ đây chính là thuộc Thái dương thương hàn biểu thực. Thái dương thương hàn biểu thực, nếu như chưa phát hăn, th́ dương khí tất nhiên bị bế tắc đè nén khá nặng, tà khí bức bách bên trong doanh phận, đối với thân thể bệnh nhân khoẻ mạnh mà nói, cơ thể của người này phát huy năng lực kháng bệnh tự nhiên, sẽ có khả năng xoay chuyển trừ khứ bệnh tà ra ngoài, mà con đường thường là chảy máu mũi, thông qua nục huyết ( chảy máu mũi), có thể khu trừ hàn tà của doanh phận ra ngoài. Nếu như bệnh nhân không thể chảy máu mũi để tự khỏi bệnh, cũng có thể suy xét cân nhắc, đến biện pháp châm phóng huyết (châm nặn cho ra máu). Hiện tại trong dân gian vẫn c̣n sử dụng các phương pháp này để trị liệu các loại nhiệt bệnh, chính là đạo lư này. Thí dụ, đối với những bệnh nhân ngoại cảm sốt cao tỵ nục (chảy máu mũi), sử dụng tam lăng châm xuất huyết ở các huyệt như Khúc tŕ, Thiếu Thương, Thái dương, đều thu được hiệu quả trị liệu. V́ thế đối với bệnh nhân ngoại cảm sốt cao phát sinh tỵ nục trên lâm sàng, cũng nên nghĩ đến khả năng xoay chuyển tự giải, không nên khinh dị dùng thang Tê giác địa hoàng là thang thuốc lương huyết (mát máu) dẫn đến đóng băng tà khí.
48二阳并病,太阳初得病时,发其汗,汗先出不彻,因转属阳明,续自微汗出, 不恶寒。若太阳病证不罢者,不可下,下之为逆,如此可小发汗。设面色缘缘正赤者,阳气郁在表,当解之、熏之;若发汗不彻,不足言阳气怫郁不得越,当汗不汗,其人躁烦,不知痛处, 乍在腹中, 乍在四肢,按之不可得,其人短气,但坐,以汗出不彻故也,更发汗则愈。何以知汗出不彻,以脉涩故也。(C49)
Điều 48
Nhị dương tính bệnh, Thái dương sơ đắc bệnh thời, phát kỳ hăn, hăn tiên xuất bất triệt, nhân chuyển thuộc dương minh, tục tự vi hăn xuất, bất ố hàn. Nhược Thái dương bệnh chứng bất băi giả, bất khả hạ, hạ chi vi nghịch, như thử khả tiểu phát hăn. Thiết diện sắc duyên duyên chính xích giả, dương khí uất tại biểu, đương giải chi, huân chi; Nhược phát hăn bất triệt, bất túc ngôn dương khí phất uất bất đắc việt, đương hăn bất hăn, kỳ nhân táo phiền, bất tri thống xử, xạ tại phúc trung, xạ tại tứ chi, án chi bất khả đắc, kỳ nhân đoản khí, đăn toạ, dĩ hăn xuất bất triệt cố dă, canh phát hăn tắc dũ. Hà dĩ tri hăn xuất bất triệt, dĩ mạch sáp cố dă.
Dịch: Hai kinh dương cùng bị bệnh, Thái dương khi mới bị bệnh, xuất mồ hôi, mồ hôi xuất không triệt để, là nguyên nhân chuyển bệnh thuộc dương minh, tiếp tục xuất mồ hôi nhẹ, không sợ lạnh. Nếu Thái dương bệnh chứng không ngừng lại, không thể dùng phép hạ, hạ là nghịch, như vậy có thể phát hăn nhẹ, sắc mặt xung quanh có màu đỏ, biểu hiện của dương khí uất tại biểu, nên giải, nên xông; Nếu phát hăn không triệt để, không đủ dương khí uất tức không vượt được, cần hăn lại không phát hăn, dễ gây bực bội, không biết đau ở đâu? Lúc đau trong bụng, lúc đau ở tứ chi, ấn nắn không thấy được, bệnh nhân hơi thở ngắn, chỉ ngồi, với chứng xuất hăn không triệt để, phát hăn thêm nữa th́ khỏi bệnh, làm sao để biết hăn xuất không triệt để, thấy mạch sáp là biết.
Đoạn văn này tŕnh bày nguồn gốc, hội chứng và trị liệu của Thái dương Dương minh cùng lúc bị bệnh, có thể phân thành 3 đoạn để tiến hành phân tích. Đoạn thứ nhất từ “Nhị dương tính bệnh” (Hai kinh dương cùng bị bệnh)đến “Tục tự vi hăn xuất, bất ố hàn” (tiếp tục xuất mồ hôi nhẹ, không sợ lạnh), chủ yếu tŕnh bày nguồn gốc của Thái dương Dương minh cùng bị bệnh. Thái dương bệnh mồ hôi xuất ra không triệt để, có thể chuyển thuộc Dương minh. Khi kinh Thái dương bị bệnh trong thời gian đầu, dùng phép phát hăn là rất chính xác. Nhưng nếu phát hăn không đủ triệt để, cũng không đạt được mục đích trừ khứ tà khí. Tà ở biểu không được giải trừ, sẽ có khả năng chuyển vào kinh Dương minh, kinh Dương minh là kinh nhiều khí nhiều huyết, dương khí hưng vượng. Nhiệt bên trong mạnh, bức bách tân dịch vượt ra ngoài, nên thấy xuất mồ hôi; Biểu tà đă hết, nên không c̣n sợ lạnh. V́ thế, xuất mồ hôi, không sợ lạnh chính là toàn bộ biểu tà đă vào trong (nhập lư), biểu hiện đă h́nh thành của chứng dương minh táo nhiệt, trị liệu nên dùng phép hạ.
Đoạn thứ hai từ “Nhược Thái dương bệnh chứng bất băi giả” (Nếu bệnh chứng của kinh Thái dương ừkhông ngưng lại)đến “Đương giải chi huân chi”, chủ yếu tŕnh bày về chứng và trị liệu hai kinh Thái dương và Dương minh cùng bị bệnh. Nếu chỉ có một bộ phận bệnh tà của Thái dương nhập lư mà bệnh chứng của Thái dương không ngừng, như thế gọi là “Nhị dương tính bệnh”(Hai kinh dương cùng bệnh). Nhị dương cùng bệnh, tà khí nhập lư cùng vào Dương minh, lại có sự khác nhau của nhập vào phủ với nhập vào kinh. Nếu như Thái dương biểu chứng không ngừng, tức là khiến cho Dương minh táo nhiệt đă được tạo thành, cũng không thể dùng ngay phép hạ, nếu không sẽ khiến biểu tà hăm vào trong mà phát sinh biến chứng, v́ thế nên giải biểu trước công lư sau. Do một phần tà khí đă nhập lư rồi, nên tà khí ở biểu cũng đă giảm nhẹ, nếu như dùng phép phát hăn mạnh, sẽ khiến tân dịch xuất ra ngoài, lại hỗ trợ chứng táo nhiệt ở kinh Dương minh, v́ thế chỉ nên dùng phép tiểu hăn (phát hăn nhẹ) là đủ. Nếu như biểu tà Thái dương không ngừng, một phần tà khí truyền vào Dương minh, sẽ xuất hiện “Diện sắc duyên duyên chính xích” (sắc mặt đỏ). Xích là màu đỏ đậm, chính xích là màu hồng sẫm. “Duyên duyên chính xích” là chỉ sắc hồng đầy mặt, mà từ ngoài da đến tầng sâu hơn đều rất hồng. Loại màu hồng này không phải là màu hồng cục bộ, cũng không phải phù hồng hoặc phiếm hồng, nộn hồng (hồng non), hoàn toàn khác với sắc mặt đỏ của hư dương thượng phù. Đồng thời, loại màu hồng này cũng tương tự “Dĩ bất đắc tiểu hăn xuất”(Không xuất được chút mồ hôi) mà có sắc mặt hồng sẫm như mặt có sắc nóng v́ tiểu tà không được giải. V́ tà khí trong kinh Dương minh bế uất không tán, khiến dương khí không thể vượt ra, cho nên. c̣n ứng kèm một số chứng như ghét lạnh, phát nhiệt. “Đương giải chi huân chi” (Nên giải nên xông), đều là nói về hăn pháp, có thể dùng thang Cát căn thanh giải Dương minh kinh nhiệt, kiêm giải Thái dương biểu tà.
Đoạn thứ 3 từ “Nhược phát hăn bất triệt” (Nếu phát hăn không triệt để) đến cuối, tiến thêm một bước tŕnh bày nguồn gốc và chủ chứng của hai kinh dương cùng bị bệnh. Tạo thành nguyên nhân hai kinh dương cùng bị bệnh, chính là Thái dương bệnh phát hăn không triệt để gây ra. Cần phát hăn lại không phát hăn, không chỉ không có khả năng khiến biểu tà phát tán, mà c̣n khiến dương khí ứ đọng không thể vượt phát. Dương khí bế uất tiến thêm một bước mà hoá nhiệt, nên xuất hiện bực bội. Tà khí bế tắc bên ngoài, phế khí không thuận lợi, nên xuất hiện “Đoản khí, đăn toạ”(hơi thở ngắn, chỉ ngồi), mà không thể nằm ngửa. Thái dương chủ da lông, Dương minh chủ cơ nhục, hai kinh này tà khí không giải, khí doanh vệ trệ sáp không thuận lợi, sẽ xuất hiện đau bất định, lúc th́ đau ở bụng, lúc lại đau ở tứ chi, như nếu có ấn nắn cũng không t́m được điểm đau rơ ràng. Nghiên cứu nguyên nhân, những chứng trạng trên đều chính là hăn xuất không triệt để, kinh khí của hai kinh dương bế uất mà ra. Làm sao để biết chính là do hăn xuất không triệt để? Ngoài những chứng trên, c̣n có thể thấy mạch sáp trệ. Mạch sáp phản ảnh tà khí ngưng trệ chưa tan, doanh vệ bị chèn ép không thông sướng. Trị liệu nên tái phát hăn, để sơ giải biểu tà của hai kinh dương, có thể điều trị tốt bệnh này.
49脉浮数者,法当汗出而愈。若下之,身重心悸者,不可发汗,当自汗出乃解。所以然者,尺中脉微,此里虚,须表里实,津液自和,便自汗出愈。(C50)
Điều 49
Mạch phù sác giả, pháp đương hăn xuất nhi dũ. Nhược hạ chi, thân trọng tâm quư giả, bất khả phát hăn, đương tự hăn xuất năi giải. Sở dĩ nhiên giả, xích trung mạch vi, thử lư hư, tu biểu lư thực, tân dịch tự hoà, tiện tự hăn xuất dũ.
Dịch: Mạch phù sác, lẽ ra xuất hăn là khỏi bệnh. Nếu dùng phép tả hạ, thân thể nặng nề hồi hộp, không thể phát hăn, nên để tự hăn là giải. V́ sao như thế, mạch vi ở xích bộ, là lư hư, đợi đến biểu lư thực, tân dịch tự hoà, liền tự hăn xuất ra mà khỏi bệnh.
Đây là đoạn văn thảo luận trị liệu của thương hàn xen lẫn hư chứng.
“Mạch phù sác”, hàm chứa ư của mạch phù khẩn. Thông thường, mạch phù khẩn có hàm chứa h́nh tượng sác, mạch phù hoăn hàm chứa ư của mạch tŕ. Mạch phù khẩn, chứng minh chính là chứng Thái dương thương hàn, nên cần dùng thang Ma hoàng phát hăn. Nếu như dùng lầm phép hạ, sẽ gây tổn thương khí ở trong. Chính khí bị tổn thương, khí hư không có lực nên thân thể nặng nề. Khí hư nên tâm không có nơi làm chủ, xuất hiện tâm hồi hộp. Nếu như biểu tà c̣n đó, chính là thương hàn xen lẫn hư chứng, không thể tái sử dụng phép phát hăn. Sau khi hạ nhầm làm cho chính khí hư tổn, không chỉ có biểu hiện là thân thể nặng nề, hồi hộp, mà c̣n từ “Xích trung mạch vi” (mạch vi ở bộ xích) cũng có thể chứng thực. “Xích trung mạch vi”, chỉ về xích mạch vi. Xích bộ là t́nh h́nh của bên trong (hậu lư), là t́nh h́nh của thận, vi là mạch hư chứng, xích mạch vi phản ảnh khí bên trong đă bị hư tổn, lúc này lại phát hăn nhầm cho người hư tổn, sẽ làm cho tà khí chưa bị trừ khứ, mà chính khí đă bị tổn hại, khiến cho t́nh trạng bệnh xấu đi (ác hoá). Như vậy phải xử lư thế nào cho tốt? Một mặt có thể dùng ẩm thực để điều dưỡng, chờ đợi chính khí hồi phục, âm dương tự hoà, chính khí của biểu lư đầy đủ, có khả năng trừ khứ tà ra ngoài, là có thể tự hăn xuất mà khỏi bệnh. Trên phương diện khác, nếu không có khả năng tự khỏi bệnh, tuy chờ đợi lâu ngày, chính khí không thể hồi phục, biểu tà cũng không thể tự giải, căn cứ vào chủ trương của các y gia hậu thế, có thể dùng thang Tiểu kiến trung để phù trung bổ hư, điều hoà vinh vệ, đó gọi là “Thực nhân thương hàn phát kỳ hăn, hư nhân thương hàn kiện kỳ trung” (实人伤寒发其汗,虚人伤寒建其中)Người khoẻ mạnh bị bệnh thương hàn th́ phát hăn, người hư yếu thương hàn th́ bổ trung.
Trong {Thương hàn luận} có phương xung phong hăm trận, có thuốc mạnh mẽ cường liệt, như đao búa tấn công bệnh trục tà, cũng chu toàn tỉ mỉ, vô cùng cẩn thận trong việc khiển phương dụng dược, c̣n dùng phép điều dưỡng để hy vọng chính khí hồi phục. Đó chính là dựa theo t́nh huống bệnh, t́nh huống của cơ thể mà có những phương pháp, phương thức chế định và thích nghi, ước lượng hư, thực để dụng phương, những sự việc này được gọi là mô h́nh mẫu mực của biện chứng luận trị.
50脉浮紧者,法当身疼痛,宜以汗解之。假令
尺中迟者,不可发汗。何以知之然?以荣气不足,血少故也。C51
Điều 50
Mạch phù khẩn giả, pháp đương thân đông thống, nghi dĩ hăn giải chi. Giả linh xích trung tŕ giả, bất khả phát hăn. Hà dĩ tri chi nhiên? Dĩ vinh khí bất túc, huyết thiểu cố dă.
Dịch: Mạch phù khẩn, cùng với thân thể đau nhức, nên phát hăn để giải. Giả như mạch xích tŕ, không thể phát hăn. V́ sao biết như vậy? Nguyên nhân là do vinh khí không đủ và huyết ít.
Đây là đoạn văn tiến thêm một bước phân tích nguyên tắc thương hàn xen lẫn hư chứng không thể phát hăn.
“Mạch phù khẩn”, nếu như mạch âm dương đều khẩn, th́ đúng là mạch của chứng Thái dương thương hàn biểu thực. Thương hàn biểu thực, hàn tà ngưng trệ, doanh vệ không thuận lợi, tất nhiên cơ thể sẽ đau nhức, nên phải dùng thang Ma hoàng để phát hăn. Đây chính là có ư “Mạch phù khẩn giả, pháp đương thân đông thống, nghi dĩ hăn giải chi”. Nhưng nếu người này mạch âm dương đều không khẩn, mà trong bộ xích có mạch tŕ, bộ xích là biểu hiện của t́nh h́nh bên trong, tŕ là trạng thái của doanh huyết sáp trệ bất túc (không đầy đủ), do đó đây là hiện tượng của lư hư. Người hư yếu bị ngoại cảm, tuy có biểu tà, cũng kỵ dùng phép phát hăn. Nếu không, phát hăn mạnh cho người hư yếu là phạm vào điều cấm kỵ “Đoạt hăn giả vô huyết” (Phát hăn mạnh sẽ ảnh hưởng đến máu), sẽ càng tổn thương doanh huyết và bức bách chân âm.
Hứa Thúc Vi ghi lại trong《Phổ Tế Bản Sự Phương》 dưới dạng một y án : Có một người ở quê cũ bị bệnh thương hàn, chẩn bệnh bệnh nhân phát nhiệt đau đầu, phiền khát, mạch tuy phù sác nhưng vô lực, xích bộ tŕ mà nhược. Ta viết: Tuy thuộc Ma hoàng chứng, mà xích bộ tŕ nhược. Trọng Cảnh viết: Xích trung tŕ giả, vinh khí không đủ, huyết khí vi thiếu (rất ít), vị khả phát hăn (尺中迟者,荣气不足,血气微少,未可发汗) Mạch xích tŕ, là biểu hiện của vinh khí không đầy đủ, huyết rất ít, chưa thể phát hăn. Ta cho uống Hoàng kỳ kiến trung thang gia Đương quy Hoàng kỳ. Ngày hôm sau mạch vẫn thế, gia đ́nh thúc ép, ngày đêm hối thúc uống thuốc phát hăn, lời nói không nể nang kiêng dè. Ta nhẫn nại, vẫn chỉ dùng Kiến trung điều doanh mà thôi. Đến ngày thứ 5, xích bộ mới ứng, liền dùng thang Ma hoàng, uống lần thứ 2, bệnh nhân phát cuồng, một lát sau th́ ổn định, ngủ và xuất hăn. Tin và hiểu sự việc này là rất khó. Trọng Cảnh tuy nói rằng không kiêng ngày đêm, tức là điều trị khi thuận tiện; Thày thuốc phải xem xét biểu lư hư thực, chờ đợi lâu dài. Nếu không theo tŕnh tự, tạm thời được bằng an, nhưng ngũ tạng bị tổn hại, rút ngắn tuổi thọ, là thứ không ǵ quư bằng. Có thể thấy Hứa thị có nhận thức rất sâu sắc đối với nguyên tắc “Hư nhân thương hàn kiện kỳ trung” (虚人伤寒建其中)Người hư yếu bị bệnh thương hàn nên bổ trung). Tuy nhiên hậu thế đối với những phương pháp trị liệu cho người hư yếu bị ngoại cảm có không ít phát triển mới, như trợ dương giải biểu, ích khí giải biểu, tư âm giải biểu v.v…, nhưng khi sử dụng những phương tễ phát hăn cho người hư yếu nên chú ư cẩn thận. C̣n như sử dụng thang Ma hoàng để phát hăn (cho người hư yếu) là điều tuyệt đối cấm kỵ.
51「脉浮者,病在表,可发汗,宜麻黄汤。(C52)
52脉浮而数者,可发汗,宜麻黄汤。C53
Điều 51
Mạch phù giả, bệnh tại biểu, khả phát hăn, nghi Ma hoàng thang.
Dịch: Mạch phù, bệnh tại biểu, có thể phát hăn, nên dùng thang Ma hoàng.
Điều 52
Mạch phù sác giả, khả phát hăn, nghi Ma hoàng thang.
Dịch: Mạch phù sác, có thể phát hăn, nên dùng thang Ma hoàng.
Đây là 2 điều tiếp nối và so sánh với điều trước, chỉ ra rằng phàm là Thái dương biểu thực chứng, mà mạch xích không vi, không tŕ th́ có thể cân nhắc dùng thang Ma hoàng để phát hăn.
Mạch phù chủ biểu, sác có ư của khẩn. Xét theo câu “Có thể phát hăn, nên dùng Ma hoàng thang”, chứng đương thuộc Thái dương thương hàn biểu thực, nên phát hăn để giải biểu, dùng thang Ma hoàng. Nhưng nhất định phải là mạch âm dương đều khẩn th́ mới có thể dùng, Nếu như xích mạch vi hoặc tŕ th́ cấm dùng phép phát hăn. V́ thế, ở đây viết là mạch phù hoặc mạch phù sác, ư ở ngoài lời nói (ư tại ngôn ngoại), đúng là xích mạch không vi không tŕ, th́ mới “nên dùng thang Ma hoàng”, mà không cấm.
53病常自汗出者,此为荣气和。荣气和者,外不谐,以卫气不共荣气和谐尔。以荣行脉中,卫行脉外,复发其汗,荣卫和则愈,宜桂枝汤。(C54)
Điều 53
Bệnh thường tự hăn xuất, thử vi vinh khí hoà. Vinh khí hoà giả, ngoại bất hài, dĩ vệ khí bất cộng vinh khí hoà hài nhĩ. Dĩ vinh hành mạch trung, vệ hành mạch ngoại, phục phát kỳ hăn vinh vệ hoà tắc dũ, nghi Quế chi thang.
Dịch: Bệnh thường tự hăn, đó là vinh khí hoà. Vinh khí hoà, bên ngoài không hài hoà, v́ vệ khí không cùng vinh khí hài hoà. V́ vinh tuần hành trong mạch, vệ tuần hành ngoài mạch, lại phát hăn, vinh vệ hoà th́ khỏi bệnh, nên dùng thang Quế chi.
Đây là đoạn văn phân tích chứng và trị liệu của Vinh Vệ bất hoà, thường tự xuất mồ hôi(tự hăn).
“Bệnh” là chỉ chung những người đă bị bệnh, Có chứng thường xuyên tự xuất hăn, Chính là do vinh khí không bị bệnh mà do vệ khí ở ngoài không hài hoà với vinh khí. Trong t́nh huống sinh lư b́nh thường, Vinh khí tuần hành trong mạch là giữ ǵn Vệ khí, vệ khí tuần hành ngoài mạch là sai khiến của vinh khí, vinh thêm cho vệ mà khiến vệ khí không vượt quá, vệ bảo hộ vinh khiến cho vinh âm không thoát ra, cả hai hỗ tương sử dụng, hỗ tương chế ước. Nếu vệ khí bên ngoại và vinh khí chia ĺa không cùng nhau, vệ khí mất đi tác dụng bảo hộ bên ngoài cho vinh, khiến cho vinh khí không thể giữ ǵn bên trong (nội thủ), nên thường tự hăn. Tuy nhiên bản thân vinh khí không bị bệnh, nhưng vệ khí không kín đáo vững vàng. Cả hai vẫn tiếp tục không thể hỗ tương hài hoà, tức là “V́ vệ khí không cùng vinh khí hài hoà mà thôi”. Đây là loại tự hăn do doanh vệ bất hoà, có thể dùng thang Quế chi để điều trị. V́ bệnh này là tự hăn xuất, lại dùng Quế chi thang phát hăn, cho nên nói “Phục phát kỳ hăn”(Lại phát hăn). Thang Quế chi có tác dụng tư âm hoà dương, điều hoà vinh vệ, với việc phát hăn có thể khiến vinh vệ hoà hợp, vệ ngoại là kiên cố bền vững, vinh âm coi giữ bên trong, th́ chứng xuất mồ hôi tự khỏi. đây chính là phương pháp dùng phát hăn để chỉ hăn (cầm mồ hôi).
Đối với đoạn văn viết về chứng tự hăn của vinh vệ bất hoà, các nhà chú thích có hai loại giải thích khác nhau. Một loại ư kiến cho rằng nguyên nhân của vệ khí bất hoà chính là bị tổn thương do phong tà, dùng thang Quế chi tái phát hăn, để trừ khứ phong tà mà hoà vinh vệ. Một loại ư kiến khác th́ cho rằng, nguyên nhân của vệ khí bất hoà chính là bản thân vinh vệ mất hài hoà cân đối, không liên quan đến phong tà. Căn cứ vào đoạn văn, không thấy nói đến Thái dương bệnh, cũng không có các biểu chứng như sợ lạnh, phát nhiệt, mạch phù, v́ thế ư kiến vinh vệ bất hoà không phải của Thái dương chứng là khá thoả đáng. Trên lâm sàng đối với bệnh nhân tự hăn không có biểu chứng như hàn nhiệt đầu thống, dùng thang Quế chi đều thu được hiệu quả, cũng chính là một minh chứng rất tốt.
54病人脏无他病,时发热,自汗出,而不愈者,此卫气不和也。先其时发汗则愈,宜桂枝汤主之。(C55)
Điều 54
Bệnh nhân tạng vô tha bệnh, thời phát nhiệt, tự hăn xuất, nhi bất dũ giả, thử vệ khí bất hoà dă. Tiên kỳ thời phát hăn tắc dũ, nghi Quế chi thang chủ chi.
Dịch: Bệnh nhân nội tạng không có bệnh khác, khi phát nhiệt, tự hăn xuất, mà không khỏi, là do vệ khí bất hoà. Lúc này phát hăn th́ khỏi bệnh, nên dùng thang Quế chi để điều trị bệnh này.
“Bệnh nhân tạng vô tha bệnh”, chính là chỉ về việc ăn uống, đại tiểu tiện, ngủ đều b́nh thường, không có chứng ǵ ở bên trong, cho thấy khí ở trong thuận hoà. Trong đoạn văn cũng không đề cập đến Thái dương bệnh hoặc biểu chứng như mạch phù, sợ gió, cho thấy cũng không thuộc Thái dương trúng phong. Bệnh nhân chỉ là khi xuất hiện th́ có các chứng trạng như phát nhiệt, xuất hăn, mà c̣n kéo dài không khỏi, uống một số thuốc cũng không hiệu quả . Đó chính là vệ khí bất hoà, biểu hiện của vinh vệ mất điều hoà. Vinh vệ phân biệt là thuộc âm và thuộc dương, âm không chế ngự được dương th́ dương quá mạnh mà phát nhiệt, dương không bảo hộ âm, th́ vinh âm vượt ra ngoài mà xuất hăn. Trên phương diện trị liệu cũng nên tuyển dụng thang Quế chi điều hoà vinh vệ, nhưng nhất định phải uống thuốc trước khi phát nhiệt và xuất hăn, âm dương vinh vệ lúc này khá thăng bằng ổn định và dễ điều tiết, mà c̣n có thể tránh được khi bệnh phát tác mà uống thuốc dẫn đến hăn xuất quá nhiều mà tổn thương chính khí. Loại tật hoạn này cũng thường gặp trên lâm sàng, hay gặp nhất là ở những phụ nữ trong thời kỳ măn kinh, khi sử dụng các phương pháp trị liệu như tư âm, trợ dương, thanh nhiệt, liễm hăn đều khó thu được hiệu quả, có thể dùng thang Quế chi thường thu được hiệu quả.
 
Reply with a quote
Replied by Trường Xuân (Hội Viên)
on 2023-11-28 02:15:01
010
Điều 55 đến 64
55伤寒脉浮紧,不发汗,因致衄者,麻黄汤主之。C56
Điều 55
Thương hàn mạch phù khẩn, bất phát hăn, nhân chí nục giả, Ma hoàng thang chủ chi.
Dịch: Thương hàn mạch phù khẩn, không phát hăn, nguyên nhân chảy máu mũi, Ma hoàng thang chủ chi.
Đoạn văn này thảo luận điều trị bệnh bằng phát hăn thay thế cho nục huyết (chảy máu mũi), cần kết hợp tham khảo với điều 47, và điều 48 ở trên là nục huyết thay cho phát hăn.
“Thương hàn mạch phù khẩn”, chỉ ra chứng Thái dương biểu thực. “Bất phát hăn”, một là chỉ bệnh nhân không có mồ hôi, hai là có ư nói bệnh nhân không được điều trị kịp thời, hoặc tuy có điều trị, nhưng không dùng thang Ma hoàng để phát hăn. Biểu chứng không được xuất hăn, dương khí bị hàn tà bế uất, nếu bệnh nhân thân thể khoẻ mạnh, sẽ có biến chuyển là bệnh tà giải theo máu mũi. Nếu sau khi chảy máu mũi, mạch bệnh nhân an tĩnh, hạ nhiệt, thân thể mát mẻ, bệnh biến chuyển tốt th́ không cần tái phát hăn. Nếu như tuy đă chảy máu mũi nhưng biểu tà không giải, có khả năng là do nục huyết không thông sướng, tương tự như phát hăn không triệt để, trọn vẹn, không đủ để giải biểu thông tà, không đạt được mức tác dụng nhiệt giảm theo huyết. V́ sao mà nục huyết (chảy máu mũi) không thông sướng? Chủ yếu là do tà khí ở trong kinh mạch quá nặng nên khó xuất ra. Nên dùng thang Ma hoàng phát hăn, để tiêu bớt tà khí trong kinh Thái dương, hăn xuất tà tán, chảy máu mũi tự đ́nh chỉ, hạ nhiệt và khỏi bệnh. V́ vẫn cần theo hăn mà giải bệnh tà, v́ thế thuộc phép “hăn dĩ đại nục”(Mồ hôi thay thế cho máu mũi).
56伤寒不大便六七日,头痛有热者,与承气汤。其小便清者,如不在里,仍在表也,当须发汗;若头痛者必衄,宜桂枝汤。C57
Điều 56
Thương hàn bất đại tiện lục thất nhật, đầu thống hữu nhiệt giả, dữ Thừa khí thang. Kỳ tiểu tiện thanh giả, như bất tại lư, nhưng tại biểu dă, đương tu phát hăn; Nhược đầu thống giả tất nục, nghi Quế chi thang.
Dịch: Bệnh Thương hàn không đại tiện 6,7 ngày, đau đầu có nhiệt, với thang Thừa khí. Nước tiểu trong, bệnh không ở trong lư, mà ở biểu, đáng nên phát hăn; Nếu đau đầu tất chảy máu mũi, nên uống thang Quế chi.
Đoạn văn này thông qua màu sắc nước tiểu trắng hoặc đỏ để phân biệt vị trí bệnh (biểu hoặc lư), đồng thời thảo luận điều trị khác nhau của biểu và lư.
“Thương hàn”, là chỉ chung ngoại cảm nhiệt bệnh. Trong quá tŕnh phát bệnh của ngoại cảm nhiệt bệnh, 6,7 ngày không đại tiện, lại xuất hiện đau đầu có nhiệt, ở đây không nói cụ thể phát nhiệt như thế nào, hoặc nóng bốc lên (chưng chưng), hoặc nóng lúc xế chiều (nhật bô), để lưu lại nếu có sự khác biệt hơn nữa trong biện chứng. Theo “Kỳ tiểu tiện thanh giả, tri bất tại lư” (Nước tiểu có sắc trong là biết bệnh không ở trong lư) một câu có thể biết bệnh vẫn ở biểu. Nếu như đau đầu chính là do dương minh lư nhiệt thiêu đốt gây ra, th́ nước tiểu tất nhiên sẽ có màu vàng đỏ, và phát nhiệt sẽ như bốc hơi nóng hoặc nóng vào xế chiều (15h- 17h) , điều trị sẽ ứng dụng thang Thừa khí để tả hạ. Hiện tại chính là màu nước tiểu trong, cho thấy bên trong không táo nhiệt, bệnh tà vẫn c̣n ở biểu, mà hội chứng tương ứng phải là đầu hạng cường thống (đầu gáy cứng đau), hấp hấp nhi nhiệt (nóng hầm hầm), sợ gió lạnh, mặc dù không đi đại tiện đă 6,7 ngày, nhưng bụng không có ǵ bất thường, v́ thế không thể sử dụng phép tả hạ, mà nên cân nhắc dùng thang Quế chi để phát hăn. “Nghi Quế chi thang” nên tiếp theo sau khi chờ phát hăn“Đương tu phát hăn”. Nếu như kinh Thái dương bệnh tà không giải, đau đầu lâu ngày, dương bị uất quá nặng, cũng có thể xuất hiện t́nh huống chảy máu mũi thay cho mồ hôi để tự giải bệnh.
Tục Danh Y Loại Án ghi lại Lư Sĩ Tài điều trị một bệnh nhân bị bệnh thương hàn 6 ngày, cười nói như điên, đau đầu tự hăn, đại tiện không thông, nhiều đề nghị dùng thang Thừa khí để tả hạ. Mạch hồng mà Đại, nhân nghĩ đến lời của Trọng Cảnh: Bệnh thương hàn sáu bảy ngày chưa đại tiện, đau đầu, có nóng, nước tiểu trong, biết bệnh không ở trong (lư), vẫn ở ngoài (biểu). Hiện nay là trọng đông (tháng 11, tháng thứ hai của mùa đông), nên dùng thang Quế chi, mọi người đều líu lưỡi che miệng phỉ báng thật lực, với nhận xét đây là chứng dương thịnh, uống Quế chi là chết thôi. Lư viết: Nhiều mồ hôi, tinh thần hôn ám, lại nói sàm, tuy không đại tiện, nhưng bụng không đau, nên chỉ cần điều hoà doanh vệ, tất bệnh sẽ khỏi. Liền làm ngược lại lời đề nghị của số đông, đến đêm bệnh nhân không c̣n cười nói điên cuồng, sáng hôm sau đại tiện tự thông. Đây là một bệnh án có nhiều hội chứng phù hợp với chứng dương minh lư nhiệt và có thể dùng phép tả hạ như: Nói sàm, cười như điên cuồng, đau đầu có mồ hôi, đại tiện không thông, nhưng v́ tiểu tiện không vàng đỏ và tiểu tiện dễ dàng, chính là biểu hiện của bên trong không nóng (lư vô nhiệt); Mạch không trầm thực mà Hồng Đại, chính là lư vô thực (không có thực chứng trong lư); Bụng không trướng đầy đau đớn, chính là không có chứng để có thể hạ. Lư Sĩ Tài nắm vững biện chứng nêu trên, quyết đoán sử dụng thang Quế chi điều hoà doanh vệ để giải biểu, khiến khỏi bệnh nhanh chóng, có thể nói là đă thâm hiểu được yếu lĩnh biện chứng của Trọng Cảnh, xứng đáng để chúng ta học tập và noi theo.
57 伤寒发汗,解半日许,复烦,脉浮数者,可更发汗,宜桂枝汤主之。C58
Điều 57
Thương hàn phát hăn, giải bán nhật hứa, phục phiền, mạch phù sác giả, khả canh phát hăn, nghi Quế chi thang chủ chi.
Dịch: Bệnh thương hàn phát hăn, bệnh tà giải tán nửa ngày, bệnh nhân lại phiền muộn, mạch phù sác, có thể phát hăn lần nữa, nên dùng thang Quế chi.
Đây là đoạn văn thảo luận điều trị của dư tà tụ trở lại sau khi phát hăn của bệnh thương hàn, nên tham khảo kết hợp với điều 46. Chứng Thái dương thương hàn biểu thực, dùng thang Ma hoàng phát hăn, sau khi phát hăn mạch an tĩnh, thân thể mát mẻ, cho thấy biểu chứng đă được giải, nhưng chỉ sau thời gian nửa ngày, lại xuất hiện các chứng trạng như phát nhiệt, mạch phù sác. Phiền là nhiệt, mạch phù sác, (tức là nói về mạch phù khẩn). Những chứng trạng này cho thấy bệnh tà vẫn ở bên ngoài. Thương hàn sau khi giải trừ lại xuất hiện biểu chứng, đây là biểu tà từ đâu mà đến? Thường cho rằng sau khi phát hăn đại tà đă được trừ khứ, nhưng chính là dư tà chưa hết, sau nửa ngày lại tụ tập gây bệnh, nhưng cũng không loại trừ khả năng là tái cảm thụ phong hàn. Bất luận là dư tà tái tụ tập hoặc do lại cảm thụ phong hàn, chỉ cần tái hiện biểu chứng, th́ nên lập tức tiếp tục phát hăn giải biểu, v́ thế nên viết: “khả cánh phát hăn” (可更发汗)Có thể phát hăn lần nữa. Nhưng trước mắt đă sử dụng thang Ma hoàng phát hăn, thấu lư (thớ thịt) đă mở, không thể chịu được lực phát hăn mạnh mẽ của thang Ma hoàng một lần nữa, v́ thế chỉ nên tuyển dụng thang Quế chi để điều hoà vinh vệ, giải cơ, phát hăn giải biểu, trừ khứ tà khí để không gây tổn thương cho chính khí. Đây là phép tái phát hăn sau khi phát hăn một lần mà không giải hết được bệnh.
58凡病若发汗、若吐、若下、若亡津液,阴阳自和者,必自愈。C59
Điều 58
Phàm bệnh nhược phát hăn, nhược thổ, nhược hạ, nhược vong tân dịch, âm dương tự hoà giả, tất tự dũ.
Dịch: Các bệnh nếu phát hăn, nếu thổ, nếu hạ, nếu mất tân dịch, âm dương tự hoà (thăng bằng), tất tự khỏi bệnh.
Đây là đoạn văn chỉ ra rằng phàm trị bệnh chỉ cần làm sao cho cơ thể đạt được âm dương tự hoà (âm dương thăng bằng) là sẽ khỏi bệnh.
“Phàm bệnh”, là chỉ chung mọi loại bệnh chứng, không chỉ là trúng phong hay thương hàn. Các phương pháp điều trị như hăn, thổ, hạ được sử dụng để đạt dược mục đích điều trị là trừ khứ bệnh tà và điều hoà âm dương. Nếu như sử dụng không thích đáng, lại có thể tổn thương chính khí, như tổn thương âm, tổn thương dương, huyết, khí v.v…. Nếu như bệnh tà đă được trừ khứ mà chính khí bị suy yếu, th́ không cần tái sử dụng thuốc để điều trị, có thể thông qua ăn uống để điều bổ, nghỉ ngơi, đợi cho âm dương của cơ thể tự điều tiết mà đạt được mực độ thăng bằng mới, th́ có thể tự khỏi bệnh. Đó c̣n gọi là không điều trị mà khỏi bệnh.
Năm đó trong thời gian học y ở Doanh khẩu, một vị lănh bộ họ Trương bị thương hàn, thời gian bị bệnh khá dài, trước sau trải qua một số y sinh điều trị, tốt cũng có mà kém cũng không nhiều, nhưng chỉ thấy bn nấc không ngừng, điều trị lâu không khỏi. Sau đó có một vị lăo y sinh của Tân Dân Quận đến điều trị, sau khi hỏi qua bệnh sử, ông ta dùng Cánh mễ chử thang uống chiêu bột Tây dương sâm 2,3 phân. Uống được 6,7 ngày, chứng nấc biến chuyển tốt. Các y sinh khác cảm thấy kỳ lạ, t́m hỏi xem sự việc như thế nào? Lảo y sinh nói: “Trọng Cảnh nói rằng: : Phàm bệnh, nếu phát hăn, nếu thổ, nếu hạ, nếu vong huyết, vong tân dịch, âm dương tự hoà, tất khỏi bệnh. Bệnh nhân này đă trải qua rất nhiều ngày điều trị, tà khí tuy đă được trừ khứ, nhưng khí âm trong vị đă suy, vị khí không điều hoà, cho nên bị nấc. Nếu tái dùng thuốc tổn thương vị khí, chỉ có hại mà vô ích. Dùng Mễ thang (nước cơm) điều dưỡng, mượn khí ngũ cốc để dưỡng thân thể, lợi ích hơn thuốc, lại gia thêm một ít dương sâm để phụ trợ khí âm của vị, hiệu quả càng thêm lư tưởng.” Các y sinh nghe xong đều rất thán phục. Nhận thức của vị lăo y sinh này gọi là đă có những thu hoạch từ việc học của ḿnh.
Đoạn văn này minh xác mục đích điều trị của Đông y chính là cần đạt đến âm dương tự hoà. Trên lâm sàng có thể thông qua việc dùng thuốc điều trị để đạt được mục đích đó, cũng có thể không dùng thuốc mà thông qua công năng khôi phục và điều tiết tự thân để đạt được mục đích này. Nhưng tuyệt đối không thể mù quáng lạm dụng thuốc để phá hoại việc thực hiện mục đích này, là đi ngược lại tôn chỉ của y học.
59大下之后,复发汗,小便不利者,亡津液故也,勿治之,得小便利,必自愈。 C60
Điều 59
Đại hạ chi hậu, phục phát hăn, tiểu tiện bất lợi giả. Vong tân dịch cố dă, vật trị chi, đắc tiểu tiện lợi, tất tự dũ.
Dịch: Sau khi tả hạ mạnh, lại phát hăn, tiểu tiện không thuận lợi. Là do tân dịch bị hao tổn do hai phép hạ và hăn, không điều trị, tiểu tiện thông lợi, tất khỏi bệnh.
Đây là đoạn văn thí dụ về âm dương tự hoà tất khỏi bệnh.
Biểu lư cùng bệnh, điều trị nên giải biểu trước và công lư sau. Nếu như công hạ trước phát hăn sau, là điều trị không có thứ tự. Sau khi đại hạ lại phát hăn, xuất hiện tiểu tiện bất lợi, chính là v́ phát hăn, tả hạ làm cho tân dịch bị tổn thương mà ra (mất nước), đồng thời không có thuỷ ẩm đ́nh trệ bên trong. V́ thế, không thể thấy tiểu tiện bất lợi mà sử dụng nhầm các vị thuốc thấm lợi. Đối với những t́nh huống này, chủ yếu nên dùng ẩm thực thuỷ cốc để điều dưỡng, đợi tân dịch trong cơ thể dần dần hồi phục, tiểu tiện tự nhiên thông lợi. Tiểu tiện thông lợi phản ảnh âm dương đă tự hoà, v́ thế nói rằng “Đắc tiểu tiện lợi, tất tự dũ” (Tiểu tiện thuận lợi, tất bệnh tự khỏi)
Đoạn văn này nói với chúng ta, không nên thấy tiểu tiện bất lợi mà dùng thuốc thấm lợi (lợi tiểu). V́ nếu chứng tiểu tiện bất lợi là do nguồn nước tiểu không đủ v́ mất tân dịch, th́ việc dùng các phương dược thấm lợi càng làm cho tân dịch bị tổn thương nhiều hơn, tiểu tiện càng thêm bất lợi. V́ thế, có thể thông qua ẩm thực thuỷ cốc điều dưỡng (ăn uống), “tư kỳ nguyên nhi khai kỳ lưu” (滋其源而开其流) thêm cho nguồn để mở ḍng chảy, đợi tân dịch hồi sinh, nguồn sung túc, khi âm dương điều hoà, tiểu tiện tự nhiên sẽ thông lợi.
60下之后,复发汗,必振寒,脉微细。所以然者,以内外俱虚故也。C61
Điều 60
Hạ chi hậu, phục phát hăn, tất chấn hàn, mạch vi tế. Sở dĩ nhiên giả, dĩ nội ngoại câu hư cố dă.
Dịch: Sau khi dùng phép hạ, lại phát hăn, tất run rẩy, mạch vi tế. Sở dĩ như vậy, v́ bên trong bên ngoài đều hư tổn.
Đoạn văn tŕnh bày mạch chứng do điều trị nhầm làm tổn thương dương dẫn đến dương khí của Biểu và Lư (bên ngoài và bên trong) đều bị hư tổn.
Thái dương bệnh, nếu như sau khi dùng phép hạ lại phát hăn, điều trị không có tŕnh tự, tà khí tuy được trừ khứ, nhưng chính khí cũng bị tổn thương. “Chấn hàn”(Run rẩy), đúng là hàn lănh mà rét run, chính là chứng dương ở biểu không đầy đủ; “Mạch vi tế”, là mạch tượng của dương bên trong (lư) hư suy. Bệnh nhân sau khi đă trải qua tả hạ và phát hăn xuất hiện mạch chứng dương khí của biểu lư đều bị hư tổn, v́ thế Trọng Cảnh đoán là chứng “Nội ngoại câu hư” (内外俱虚)Trong ngoài đều hư tổn. Căn bản của dương khí ở tạng thận, thiếu âm điều khiển toàn bộ dương khí trên cơ thể. Dương khí của biểu và lư đều hư, trên thực tế là dương của Thiếu âm đă suy.
Ở điều trước (60) là sau khi dùng phép hạ lại phát hăn mà làm tổn thương âm.
Trong điều này (61) sau khi hạ lại phát hăn mà tổn thương dương. Hai điều trước sau phối hợp, hỗ tương sáng tạo, chứng minh được nếu việc điều trị không thích đáng có thể dẫn đến rất nhiều biến chứng như tổn thương âm, tổn thương dương và mất điều hoà âm dương.
61下之后,复发汗, 昼日烦躁,不得眠,夜而安静,不呕不渴,无表证,脉沉微, 身无大热者,干姜附子汤主之。C62
Điều 61
Hạ chi hậu, phục phát hăn, trú nhật phiền táo, bất đắc miên, dạ nhi an tĩnh, bất ẩu bất khát, vô biểu chứng, mạch trầm vi, thân vô đại nhiệt giả, Can khương phụ tử thang chủ chi.
Dịch: Sau khi công hạ, lại phát hăn, ban ngày bực bội, không thể ngủ, ban đêm an tĩnh, không ẩu thổ không khát nước, không có biểu chứng, mạch trầm vi, thân không sốt cao, thang Can khương phụ tử chủ trị bệnh này.
Phương thang Can khương Phụ tử
Can khương 1 lạng.
Phụ tử 1 củ dùng sống, bỏ vỏ, bổ làm 8 mảnh hai vị thuốc trên dùng 3 thăng nước, đun cạn c̣n 1 thăng, bỏ bă, uống hết thật nhanh (đốn phục).
Đây là đoạn văn thảo luận điều trị chứng phiền táo (khó chịu bực bội) do dương hư âm thịnh.
Phàm các chứng biểu lư đồng bệnh, điều trị nên phát hăn trước tả hạ sau (tiên hăn hậu hạ). Nếu hạ trước phát hăn sau, th́ gọi là điều trị sai lầm, bệnh không chỉ là không tốt, ngược lại c̣n khiến cho dương khí của Biểu và Lư (trong ngoài) đều bị tổn thương. Dương hư khiến cho âm thịnh, thịnh âm ảnh hưởng đến nhược dương (âm mạnh mẽ ảnh hưởng đến dương yếu nhược), nên xuất hiện phiền táo không yên tĩnh, dương vượng vào ban ngày, âm vượng vào ban đêm. Ban ngày nhược dương (dương yếu nhược) của cơ thể được dương của ngày tương trợ, nên có thể tương tranh với âm, v́ thế xuất hiện phiền táo (bực bội) mà không ngủ được; Ban đêm là lúc âm khí nắm quyền nên dương yếu không thể đối kháng với âm thịnh, v́ thế ban đêm bệnh nhân an tĩnh, chứng trạng phiền táo (khó chịu) thường gặp ở chứng dương nhiệt, như Thái dương bệnh có chứng phiền táo mà không xuất hăn hoặc phản phiền bất giải (uống thuốc không giải mà lại phiền táo), Dương minh bệnh có chứng rất phiền khát mà không giải, Thiếu dương bệnh có chứng tâm phiền ẩu thổ. Ở đây tuy thấy ban ngày phiền táo, nhưng không ẩu thổ, th́ biết là không phải Thiếu dương bệnh; “Bất khát” là không có bệnh ở Dương minh; “Vô biểu chứng” là không có bệnh ở thái dương. Có thể nói ba kinh dương không có bệnh tà, mà lại thấy mạch “trầm vi”, mạch trầm chủ bệnh ở lư, vi chủ dương suy, chính là dương của Thiếu âm suy vi, trạng thái của âm hàn độc thịnh (âm mạnh một ḿnh), cho thấy không c̣n nghi ngờ chứng ban ngày phiền táo không ngủ là thuộc về âm chứng. Tạng thận là gốc của âm dương, nếu âm thịnh dương suy quá độ, dương khí khó tàng trữ, sẽ có nguy cơ rời bỏ gốc rễ, hư dương vượt ra ngoài, bị bức lên trên gọi là “Đái dương” (đái = đội); bị đẩy ra ngoài, gọi là “Cách dương”, cả hai đều là triệu chứng báo trước của vong dương. Đái dương ở trên, mặt hồng như trang điểm; Cách dương ra ngoài, thân thể rất nóng mà thích mặc quần áo. Câu văn viết: “Thân vô đại nhiệt”, ẩn ư là c̣n một chút nhiệt, cho thấy c̣n lại một chút tàn dương may mà chưa hoàn toàn vượt ra ngoài. V́ thế, với thang tễ thuần cay nóng sắc gấp uống hết ngay (đốn phục), hết sức để có thể kéo lại tàn dương trong muôn một.
Thang Can khương Phụ tử gồm Can khương và Phụ tử, đều là hai vị thuốc rất cay nóng, có khả năng phục hồi dương tiên thiên và hậu thiên của tạng tỳ và thận. Vị phụ tử khi dùng sống tác dụng càng thêm mạnh mẽ. Một lần đốn phục (uống hết), khiến cho sức thuốc tập trung, thu được hiệu quả nhanh chóng. Phương này gia thêm Cam thảo có tên là thang Tứ nghịch. Gia thêm Thông bạch là Bạch thông thang, nếu không có triệu chứng âm thịnh dương uất, v́ thế không dùng Bạch thông thang. Chứng này dương khí bạo hư (hư quá nhiều quá nhanh), âm hàn độc thịnh, hàn cực độ phát táo, tàn dương dục vong (Tàn dương muốn hết), nên không dùng Cam thảo ngại làm cho sức thuốc hoà hoăn, mà chỉ dùng Khương Phụ có tác dụng tấn mănh (nhanh và mạnh) cấp tốc phù trợ dương để ức (chế) âm là ưu tiên quan trọng nhất.
62发汗后,身疼痛,脉沉迟者,桂枝加芍药生姜各一两人参三两新加汤主之。 C63
Điều 62
Phát hăn hậu, thân đông thống, mạch trầm tŕ giả, Quế chi gia Thược dược sinh khương các nhất lạng Nhân sâm tam lạng tân gia thang chủ chi.
Dịch: Sau khi phát hăn, thân thể đau nhức, mạch trầm tŕ, Quế chi gia Thược dược Sinh khương đều 1 lạng Nhân sâm 3 lạng tân gia thang chủ trị bệnh này.
Phương Quế chi gia Thược dược Sinh khương Nhân sâm tân gia thang:
Trong phương thang Quế chi, gia thêm thược dược, Sinh khương đều 1 lạng, Nhân sâm 3 lạng, theo phép uống của thang Quế chi.
Đoạn văn này tŕnh bày mạch chứng và trị pháp của trường hợp sau khi phát hăn doanh khí bất túc (không đầy đủ).
Phép phát hăn ban đầu chính là để điều trị biểu chứng. Biểu chứng thường thấy thân thể đau nhức, sau khi xuất hăn biểu tà được giải, thân thể đau nhức đúng ra là phải hết. Nếu như sau khi phát hăn mà thân thể vẫn đau, vậy nguyên nhân là ǵ? Cần dựa theo mạch để biện chứng. Nếu như mạch phù, chính là biểu chứng không giải, có thể tái phát hăn. Nếu như mạch trầm và tŕ, trầm chủ bệnh trong lư, tŕ là huyết hư, cho thấy thân thể đau nhức không do biểu chứng, mà do phát hăn thái quá, doanh khí bị tổn thương, làm cho tứ chi và các khớp xương không được nuôi dưỡng mà dẫn đến đau nhức. Cần phải điều bổ doanh vệ, dùng Quế chi gia Thược dược Sinh khương đều 1 lạng Nhân sâm 3 lạng tân gia thang. Gọi là “tân gia thang”, chính là Trọng Cảnh tiên sinh sáng tạo dựa trên cơ sở thang Quế chi, trọng dụng Thược dược, Sinh khương, lại gia thêm Nhân sâm mà thành. Do đó có thể biết 113 phương trong {Thương Hàn Luận}, tuyệt đại đa số là do sưu tập mà được, không phải do cá nhân sáng tạo. Phương này với thang Quế chi điều hoà doanh vệ, gia nhiều Bạch thược để dưỡng doanh huyết, gia nhiều Sinh khương để khiến thuốc ra đến biểu, chuyên trị doanh vệ khí huyết không đầy đủ dẫn đến thân thể đau nhức. Hoàng kỳ ngũ vật thang trong (Kim Quỹ Yếu Lược) trị chứng **“Huyết tí”, chính là Quế chi thang khứ Cam thảo gia Hoàng kỳ mà thành Hoàng kỳ ngũ vật thang. Phương này dùng lượng Sinh khương lớn nhất, nguyên nhân chính là vị cay thông ra ngoài, có thể dẫn dắt sức thuốc ra ngoài biểu để trị chứng thân thể đau nhức;Tái gia thêm Nhân sâm, có thể bổ hư tổn sau khi phát hăn, ích khí sinh tân dịch, dưỡng doanh là những nhiệm vụ cần thiết.
Phương này trị chứng thân thể đau nhức do doanh vệ khí huyết bất túc có hiệu quả rất tốt. Người viết từng trị bệnh một phụ nữ, sau khi sanh con được nửa tháng, thân thể đau nhức không ngừng, uống Sinh hoá thang vô hiệu. Học sinh thực tập cho cô ta uống thang Bát trân, tuy hữu hiệu, nhưng chứng đau người không hết hẳn, Người viết chẩn bệnh lần 1, thấy cô ta sáu mạch đều vô lực, liền dùng nguyên phương Quế chi tân gia thang, sau 3 thang khỏi hẳn chứng đau người.
(**Huyết tí là bệnh lư mạch máu xảy ra ở tứ chi, nguyên nhân phần lớn là do co thắt kịch phát các động mạch ở đầu tứ chi, làm da tái xanh do thiếu máu cục bộ hoặc tím tái do thiếu oxy cục bộ.)
63发汗后,不可更行桂枝汤。汗出而喘,无大热者,可与麻黄杏仁甘草石膏汤主之。C64
Điều 63
Phát hăn hậu, bất khả canh hành Quế chi thang. Hăn xuất nhi suyễn, vô đại nhiệt giả, khả dữ Ma hoàng Hạnh nhân Cam thảo Thạch cao thang chủ chi.
Dịch: Sau khi phát hăn, không thể dùng lại thang Quế chi. Xuất mồ hôi mà suyễn, không nóng nhiều, có thể dùng Ma hoàng Hạnh nhân Cam thảo Thạch cao trị bệnh này.
Phương thang Ma hoàng Hạnh nhân Cam thảo Thạch cao :
Ma hoàng 4 lạng, bỏ đốt hạnh nhân 50 hạt, bỏ vỏ, đầu nhọn Cam thảo 2 lạng Thạch cao ½ cân, giă nhỏ bọc bằng bông tơ.
Bốn vị thuốc trên, dùng 7 thăng nước, đầu tiên đun vị Ma hoàng, cạn bớt 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho hết thuốc vào, đun lấy 2 thăng, bỏ băm uống lúc thuốc c̣n ấm 1 thăng. Bản gốc; Hoàng nhĩ bôi (một loại chén uống thuốc có hai tay cầm màu vàng)
Đoạn văn này thảo luận điều trị chứng suyễn do tà nhiệt tắc nghẽn ở tạng phế gây ra.
Phong hàn ở biểu, có thể dùng phép phát hăn. Nhưng nay ngoại tà bế uất, khi nhiệt tích chứa trong phế, nếu dùng các vị thuốc cay ấm để phát hăn, thường làm cho phế nhiệt tăng nặng. Tà nhiệt bức bách phế, phế không thanh túc (trong sáng nghiêm túc), nên xuất hiện chứng suyễn. Phế nhiệt bốc hơi, bức bách tân dịch tiết ra ngoài, nên thấy mồ hôi. V́ thế, xuất mồ hôi mà suyễn chính là một minh chứng của phế nhiệt. Xuất mồ hôi mà suyễn, nhưng không sợ gió lạnh, chính là biểu không có hàn tà, v́ thế “bất khả canh hành Quế chi thang”(không thể dùng lại thang Quế chi); Hăn xuất mà suyễn, đồng thời không phải vô hăn mà suyễn, v́ thế không thể dùng thang Ma hoàng. Như vậy là đem chứng suyễn của Thái dương biểu chứng loại bỏ ra ngoài. Xuất hăn mà suyễn, thân “vô đại nhiệt”, cũng không có chứng phiền khát, lại đem chứng suyễn của Dương minh nội nhiệt bức bách lên phế loại bỏ ra ngoài. Chẳng qua, cũng có những nhà chú thích đem “ vô đại nhiệt” coi như không có Thái dương biểu chứng để giải thích, cũng thông. Căn cứ vào quan sát trên lâm sàng, tà nhiệt tại phế gây suyễn, do phế hợp vệ mà chủ da lông, thường thường có thể thấy phát nhiệt, thậm chí sốt cao không hạ, v́ thế không nên để câu “vô đại nhiệt” làm cho mê muội. Không có mồ hôi mà suyễn của Ma hoàng thang chứng đều chính là tà của Thái dương ảnh hưởng phế khí tuyên giáng gây ra (suyễn), mà chứng suyễn ở đây chính là tà nhiệt nghẹt tắc phế, phế không thanh túc (trong sạch nghiêm túc) mà thành suyễn, không có quan hệ với phong hàn. Trọng điểm của điều trị là ở thanh phế nhiệt, không ở phát hăn giải biểu, v́ vậy phải dùng Ma Hạnh Cam Cao thang để điều trị bệnh.
Ma Hạnh Cam Cao thang gồm 4 thành phần: Ma hoàng, Hạnh nhân, Cam thảo, Thạch cao, chủ yếu để thanh phế nhiệt, trị suyễn. Trong phương Ma hoàng không phối với Khương Quế, chính là do không để phát hăn, mà chính là tuyên phế b́nh suyễn. Vô luận là hàn suyễn, nhiệt suyễn, chỉ cần phối ngẫu thoả đáng, Ma hoàng đều có thể sử dụng. Ma hoàng phối Thạch cao, thanh tuyên uất nhiệt trong phế, có thể trị chứng nhiệt suyễn. Lượng Thạch cao sử dụng đến nửa cân, nhiều hơn nhiều lần so với Ma hoàng, hiệu lực thanh phế nhiệt rơ rệt và rất dễ nhận ra; Hạnh nhân có tác dụng giáng phế khí, tá trợ Ma hoàng để trị ho suyễn; Cam thảo điều hoà chư dược, bổ trung ích khí.
Lâm sàng sử dụng phương này trị chứng phế nhiệt suyễn có hiệu quả rất tốt, nhất là đối với trẻ bị bệnh sởi biến chứng viêm phổi thuộc chứng phế nhiệt th́ càng có thể tin vào hiệu quả điều trị. Căn cứ kinh nghiệm lâm sàng, với phế nhiệt nặng, có thể gia Linh dương giác phấn; Nhiều đàm nhiệt nghẹt tắc, thở gấp có tiếng rít của đàm, có thể gia Đại cáp tán, hoặc T́ bà diệp tươi; Suyễn mà đại tiện khó xuống, có thể gia Qua lâu b́, Tang b́ nướng; Đại tiện phân khô cứng, có thể gia Đại hoàng, làm cho hạ khiếu thông th́ thượng khiếu thuận lợi mà chứng suyễn tự khỏi; Phế khí không thuận lợi, ngột ngạt lồng ngực phiền muộn, có thể gia Đ́nh lịch (ngọt) để trừ đàm nhiệt, nếu sởi không lộ ra, chẩn độc hăm ở trong, đến nỗi suyễn súc bất an, cánh mũi phập phồng, môi móng tím tái, có thể dùng thang Ngũ hổ, chính là Ma hạnh Cam thang gia trà lá thượng đẳng, đồng thời dùng kim tam lăng châm vào mạch máu màu tím phía sau tai cho xuất huyết, luôn luôn hữu hiệu. Tóm lại, chỉ cần theo chứng mà biến hoá gia giảm, có nhiều khả năng thu hoặch được kết quả điều trị tốt.
64发汗过多,其人叉手自冒心,心下悸,欲得按者,桂枝甘草汤主之。C65
Điều 64
Phát hăn quá đa, kỳ nhân thoa thủ tự mạo tâm, tâm hạ quư, dục đắc án giả, Quế chi Cam thảo thang chủ chi.
Dịch: Phát hăn quá nhiều, bệnh nhân hai tay ôm lấy tim, tim hồi hộp, thích ấn nắn, thang Quế chi Cam thảo trị bệnh này.
Phương thang Quế chi Cam thảo : Quế chi 4 lạng bỏ vỏ, Cam thảo 2 lạng, hai vị thuốc trên dùng 3 thăng nước, nấu c̣n 1 thăng, bỏ bă, uống hết (đốn phục).
Đoạn văn này thảo luận điều trị chứng sợ hăi do tâm dương bất túc gây ra.
“Dương gia vu âm vị chi hăn” (阳加于阴谓之汗)Dương thêm vào âm gọi là hăn, mồ hôi là chất dịch của tâm, do dương khí chưng hoá mà thành. V́ thế, xuất quá nhiều mồ hôi tất nhiên tâm dương sẽ bị tổn háo, tâm dương bị tổn thương, tạng tâm mất đi sự che chở của dương khí, trống rỗng không vững vàng, nên trong tim hồi hộp và thích đè giữ, để an định chứng hồi hộp, chính là “Ngoại hữu sở hộ, tắc nội hữu sở thị” (外有所护,则内有所恃)bên ngoài có bảo hộ, bên trong có nương dựa, cũng chính là câu :“Kỳ nhân thoa thủ tự mạo tâm, tâm hạ quư, dục đắc án”(Dùng tay ôm lấy vùng tim, tim đập nhanh muốn được ấn giữ ). Căn cứ vào những quan sát trên lâm sàng, bệnh nhân c̣n có những hội chứng như phiền muộn không thoải mái ở tâm tiền khu (vùng ngực trái phía trước tim). Thang Quế chi Cam thảo do hai vị Quế chi và Cam thảo hợp thành, Vị Quế chi cay ngọt có tác dụng bổ tâm dương, Cam thảo ngọt ấm tư bổ tâm dịch, hai vị thuốc hợp lại, cay và ngọt hợp lại hoá thành dương, để chủ yếu bổ dương, dương sinh âm hoá cung cấp cho tâm. Tâm dương sung măn th́ chứng hồi hộp tự an. Thang Quế chi khứ Thược dược điều trị chứng Thái dương bệnh sau khi dùng phép hạ bị đầy ngực, mạch súc, ngoại trừ hai vị thuốc trên c̣n có Sinh khương, Đại táo, có ư điều hoà vinh vệ; Thang Quế chi Cam thảo dùng đơn độc cay ngọt hợp lại hoá trợ dương (tân cam hoá dương), không dùng Sinh khương, Đại táo, chính là có ư muốn sức thuốc truyền nhanh đến thẳng vị trí bệnh. Tuy nhiên chứng này trên lâm sàng cũng có thể xuất hiện chứng trạng tức ngực, đây là do dương hư không kiện vận gây nên không phải do tà khí gây trở ngại, v́ thế trong điều trị chỉ nên ôn bổ tâm dương.
 
Reply with a quote

<< Trang trước 1 2 3 4 5 6 7 Trang kế >>

<< Trả Lời >>

Nội Quy | Góp Ý | © 2009 - 2024 yhoccotruyen.org