Trang Chính

  Dược Vị

  Toa Thuốc

  Diễn Đàn

  Đăng Nhập

  Đăng Ký

Diễn đàn >> Kiến Thức YHCT >> DỊCH LƯ VỚI Y LƯ

<< Đăng Chủ Đề Mới >>
DỊCH LƯ VỚI Y LƯ - posted by KHANG TƯỜNG (Hội Viên)
on May , 29 2014
KT sưu tầm được bài viết này của Tiền bối Nhân tử Nguyễn Văn Thọ
Kính gởi đến các bạn trên diễn đàn tham khảo.

DỊCH LƯ VỚI Y LƯ

Người xưa thường nhắc "Bất học dịch bất khả tri y - 不學易不可知醫" có nghĩa là: không học về kinh dịch (經易) th́ không hiểu y lư (醫理). Kinh dịch không nói đến bệnh, không nói đến thuốc, không nói đến phủ tạng của người, giống như không có quan hệ ǵ với thuốc, thế th́ học thuốc biết dịch là lẽ v́ sao?

Chúng ta biết rơ quy luật hoá sinh trong trời đất là lấy hai khí âm dương (陰陽) mà hoá sinh muôn vật, cái lẽ sống của con người là lấy hai khí âm dương mà nuôi sống mọi nơi và phủ tạng (腑臟), người ta là bẩm thụ khí âm dương của trời đất. Phát minh về sự huyền diệu của âm dương động tĩnh trong trời đất không sách nào rơ ràng bằng Kinh dịch. V́ vậy không học dịch (易) th́ sao hiểu được Y (醫).

Hải Thượng Lăn Ông, danh y nước ta thế kỷ XVIII đă nói "Hăy học Kinh dịch rồi mới nói đến chuyện làm thuốc". Theo ông th́ học Kinh dịch rồi mới nói đến chuyện làm thuốc nghĩa là học về quái (卦), tượng (象), hào tử (爻子) để nắm lấy qui luật mâu thuẫn thống nhất của âm dương, cái đầu mối tiêu hao hay phát triển của tạo hoá (造化). Đồng thời hiểu rơ quy luật ngũ hành (五行) sinh khắc chế hoá để biết được hiện tượng bĩ cực thái lai.

Trời bao bọc lấy đất, dương bao bọc lấy âm, số dương nhiều số âm ít, cho nên nói "dương thường hữu dư, âm thường bất túc " 陽常有餘,陰常不足". Trong hàng trăm chính bệnh của con người hầu hết là do chân âm kém thuỷ không chế ước được hoả rồi quân hoả, tướng hoả " bốc lên. Trong dịch lư quẻ càn (乾) khi mới sinh là thực (實), khi bị tổn thương hào giữa trở thành quẻ ly (離) (hoả) lại là hư tổn, từ đó hạn chế tính dục (姓/ - 性(情)欲), giảm sự thất t́nh uất kết, luyện tập dưỡng sinh khí công v.v" Khiến cho thuỷ thăng (水昇) hoả giáng (火降) trở thành "thuỷ hoả kư tế - 水火既濟" âm th́ tinh hoa dương th́ kín. Hoả được yên vị của nó th́ mọi biểu hiện đều tốt đẹp. Qua đó ta thấy lư luận của Kinh dịch rất phù hợp với phương pháp luận của Y học và có mối quan hệ hầu như không tách rời được.

Tôn Chân Nhân nói "Không biết Kinh dịch th́ không thể nói được là thầy thuốc giỏi" Kinh dịch luận về khí hoá (氣化), khí hoá đă tạo nên vũ trụ (宇宙) hữu h́nh. Khi tiến từ vô cực (無極) sang thái cực (太極) rồi lưỡng nghi (兩儀) " cho đến khi sự vật h́nh thành. Con người bẩm thụ được toàn khí của trời đất, tứ khí của ngũ hành (五行), con người là cái tâm của thiên địa (天地). Tâm sinh ra th́ ngôn ngữ được lập, lời nói được lập th́ mới minh. Cho nên nói con người là vạn vật chi linh (萬物之靈), con người cũng như sinh giới nói chung đều từ vũ trụ mà ra. Xuất phát từ lư thuyết "con người là một vũ trụ nhỏ" "thiên nhân hợp nhất " 天人合一", các nhà Y học thời xưa đă cho rằng những định luật chi phối vũ trụ cũng đồng thời chi phối con người. V́ vậy triết lư về dịch có mối quan hệ và ảnh hưởng sâu sắc tới Y học cổ truyền.

Dịch có thái cực(太極 )sinh ra lưỡng nghi ( 兩儀 ), lưỡng nghi sinh ra tứ tượng (四象), tứ tượng sinh ra bát quái (八卦), trời trên đất dưới định rơ càn khôn (乾坤), cao thấp đă bày th́ quư tiện (貴賤) có vị trí. Động tĩnh (動靜) có qui luật th́ phân biệt rơ cương nhu (剛柔). Nhiều chủng loại phát sinh th́ sự dữ tốt xấu cũng theo đó mà sinh.

Ở trời thành tượng, ở đất thành h́nh, càn khôn có vị trí th́ sự biến dịch vận hành ở quăng giữa (在天成象,在地成形,變易運行在中間), cho nên trời đất sinh ra thần ra vật, thánh nhân t́m hiểu sâu vào đó. Trời đất vận động thánh nhân bắt chước theo đó. Trời buông ra h́nh tượng xuất hiện sự lành dữ, thánh nhân theo vào h́nh tượng đó. Có Hà Đồ, có Lạc Thư thánh nhân theo vào đó rồi th́ t́m hiểu ở vạn vật mà vạch ra bát quái để thông cái đức của thần minh (神明), để thuận cái lẽ của tính mệnh (性命). Bát quái vạch xong là đă có h́nh tượng ở trong đó, rồi lại gấp đôi lên các hào sinh ra ở trong đó, cương nhu cọ vào nhau, bát quái lay động vào nhau sự biến hoá đă có trong đó. Tất cả đều không ra ngoài sự biến dịch.

Người ta bẩm thụ tinh hoa của âm dương ngũ hành (陰陽五行), linh nhất trong muôn vật, được khí trung hoà của trời đất hợp với sự hoá dục của càn khôn, tứ tượng ứng với trời, tứ thế (四勢) ứng với đất. Sự mở đóng của trời đất là sự mở đóng của người ta, nước thuỷ triều lên xuống tức là mạch đập của người ta. Sao bắc thần của trời là gốc của mọi sự vận động, quả tim của con người là chủ của toàn thân. Xem đó th́ biết khí của trời tức là khí của người, thể âm tức là thể của người. Triệu Khang Tiết [1] nói "sự giao tiếp với nhau giữa trời với người là rất tinh diệu, thật là đáng sợ". Thân thể người ta là một trời đất nhỏ, thật không có khoảng cách xa 1 ly, vậy th́ cái lư của trời đất có đủ ở dịch, th́ cái lư của thân tâm (身心) người ta không đầy đủ ở dịch hay sao?

Huống ǵ dịch của trời đất là dịch ở người, dịch của thân tâm người ta là dịch ở trong, trong ngoài ai thân hơn, trời người ai gần hơn. Cho nên cần phải t́m ở trời trước rồi sau mới t́m ở người, ở trong nước rồi mới đến ngoài, thế th́ dịch của vật lư c̣n có thể từ từ mà dịch của thân tâm không bỏ qua được. Làm nghề Y là dịch ở thân tâm, y mà không biết dịch th́ làm sao mà hành nghề được".

Qui luật biến hoá là vô cùng mà vạn sinh ở 1, 1 chia thành 2, 2 chia thành 4, 4 chia thành 8, 8 chia thành 16, từ 16 đến 32, 32 đến 64, cho đến 384 hào, 11 520 biến động th́ sự huyền diệu của giao cảm, cơ chế của sự hoá sinh, cái số của vạn vật đều từ đó mà ra. Nói rơ ra th́ cái gọi là 1 là thái cực của dịch. Thái cực vốn là vô cực, vô cực tức là thái cực, tướng số chưa h́nh hiện đă có đủ cái lư rồi, hư không mà hoá khí, từ khí để tạo nên h́nh đó là cái gốc ban đầu của 1 khí tiên thiên". Thầy thuốc mà biết rơ như thế, th́ biết sự sinh sinh hoá là có nguồn gốc mà tất cả ở thân thể chúng ta khi chưa có cơ sở ban đầu được xây dựng nên ở cha, mẹ, để biết mà xem ngay vào h́nh tượng của sự bẩm thụ.

Nói 1 phân chia thành 2 là sinh lưỡng nghi, thái cực động mà sinh dương, tĩnh mà sinh âm, thiên sinh ở động, địa sinh ở tĩnh, dương là phối ngẫu với âm, âm là nền móng của dương, lấy nguyên chất mà nói là trời đất, lấy công dụng mà nói là càn khôn, lấy đạo lư mà nói là âm dương (太極動生陽靜生陰,天生於動,地生於靜,陽是陰的配偶,陰是陽的基礎,元質以言是天地,功用以言是乾坤,道理以言是陰陽), một động một tĩnh làm gốc rễ lẫn nhau chia ra âm, chia ra dương là thành 2 phía đối đăi nhau thế là bắt đầu có tượng. Nhân h́nh để tụ khí, nhân khí để hoá thần (人形以聚氣,人氣以化神), mà làm nên cái gốc ban đầu của thể tượng hậu thiên (nhiên=bỏ chữ nay.Thầy thuốc mà biết điều đó, th́ biết được âm dương khí huyết đều có chỗ chung đúc nên.

Nói 2 thành 4 là lưỡng nghi sinh tứ tượng tức là bắt đầu động là dương sinh, động đến cực độ th́ âm sinh, bắt đầu tĩnh th́ nhu sinh, tĩnh đến cực độ th́ cương sinh. Thái, thiếu âm dương là tứ tượng của trời, thái thiếu cương nhu là tứ tượng của đất (動起則生陽,動到極度則生陰,靜起則柔生,靜到極點則剛生。太,少陰陽是天之四象,太少剛柔是地之四象). Tai, mắt, miệng, mũi để ứng với trời. Huyết, khí, xương, thịt để ứng với đất. Thầy thuốc mà biết rơ lẽ là trong dương có âm, trong âm có dương th́ hiểu được những trường hợp giống như dương mà không phải dương, giống như âm mà không phải âm; có thể từ đó mà biết được chân, giả, nghịch, thuận để xét ra chỗ ẩn, hiện tàng giữ lẫn nhau.

Nói 4 phân thành 8 là tứ tượng sinh ra bát quái tức là: Càn (乾) 1, Đoài (兌) 2, Ly (離) 3, Chấn (震) 4, Tốn (巽) 5, Khảm (坎) 6, Cấn (艮) 7, Khôn (坤) 8. Càn là mạnh mẽ, Khôn th́ thuận theo, Chấn là động, Tốn là vào, Khảm là sa xuống, Ly là tốt đẹp, Cấn là dừng lại, Đoài là vui vẻ. Bát quái của Phục Hy (伏羲) chia ra thể tượng của âm dương, Bát quái của Văn Vương (文王) nói lên chỗ tinh vi của ngũ hành. Thầy thuốc mà biết rơ được điều đó, mới biết được trong âm dương lại có âm dương, trong cương nhu lại có cương nhu. Vậy th́ cái thế đối đăi, cái lẽ tiêu trưởng, sự huyền diệu của giao cảm là rơ ràng đầy đủ, th́ về tính (性), lư (理), thần (神), cơ (幾), h́nh (形), tĩnh (靜), bệnh trị của người ta có thể nhân đó mà biết được, điều cốt yếu là thông suốt được nhiều cách biến hoá. Từ đó tứ tượng giao nhau thành 16 việc, bát quái lay động vào nhau mà thành 64 quái, chia ra nội ngoại quái (内外卦) để phối hợp với 6 hào, suy ô số 4 số 9 mà thành số hoá sinh. Nhân vật do đó mà đại thành, vạn tượng (萬象) nhân đó mà đầy đủ. Khi nghiên cứu Kinh dịch trước tiên hăy xem xét đồ tṛn th́ rơ được nghĩa ấy, đồ này tuy là h́nh tượng cho tất cả nhưng thiết thực nhất là ở 1 con người. Cho nên nói đồ tiên thiên là ṿng tṛn ở giữa là tượng của trời, 64 quẻ sắp đặt ở ngoài, soi rơ cái lẽ giao biến của âm dương. Thái cực vận động ở giữa, h́nh tượng tâm là chủ thể của toàn thân. Càn ở Nam (南) khôn ở Bắc (北) là h́nh tượng ở trên, bụng ở dưới, ly ở Đông (東), khảm ở Tây (西) là h́nh tượng tai mắt bên phải, bên trái .Từ quẻ Phục (復) đến quẻ Đồng nhân (同人) là nội quái ở vùng quẻ Chấn quẻ Ly, 16 quẻ này là thiếu dương ở trong âm. Ở người ta là khoảng 2x8 = 16 tuổi. Từ quẻ Lâm (臨) đến quẻ Càn, là nội quái ở vùng quẻ Đoài, quẻ Càn, 16 quẻ này là Thái dương (太陽) ở trong dương. Ở người ta là khoảng 4x8 = 32 tuổi. Từ quẻ Cấu (姤) đến quẻ Sư (師) là nội quái ở vùng quẻ Tốn quẻ Khảm. 16 quẻ này là Thiếu âm (少陰) ở trong dương ở người ta là khoảng 6x8 = 48 tuổi. Từ quẻ Độn (遯) đến quẻ Khôn, là nội quái ở vùng quẻ Cấn, quẻ Khôn 16 quẻ này là Thái âm (太陰) ở trong âm, ở người ta là khoảng 8x8 = 64 tuổi.

Dương sinh ở Tư (子) mà cực ở Ngọ (午), cho nên quẻ Phục gọi là thiên căn (天根) (gốc) đến quẻ Càn là 32 quẻ ứng với phần trước của 1 đối. Âm sinh ở Ngọ mà cực ở Tư, cho nên quẻ Cấn gọi là "nguyệt quật " 月掘" đến quẻ Khôn là 32 quẻ để ứng với phần sau của cuộc đời. Phần trước của đời bắt đầu là hào dương (爻陽) của quẻ Phục, rồi lần lượt tăng thêm dần đến quẻ Càn là dương thịnh đă cực độ, cũng giống như người ta từ thiếu niên đến tráng niên. Nửa đời phần sau bắt đầu ở một hào âm (爻陰) của quẻ Cấn rồi lần lượt sang hao dần đến quẻ Khôn là dương đến hết, cũng giống như người ta từ suy đến già.

Theo chiều dọc mà phán xét, th́ tượng ở hào thứ nhất Càn hết ở Ngọ. Khôn hết ở Tư, đúng với thời lệnh đông chí (冬至), hạ chí (夏至) là đường chính giữa của trời đất mà phân chia ra bên tả bên hữu, bên tả chủ thăng, bên hữu chủ giáng. Thăng th́ dương ở phía đông nam, chủ về sự phát sinh của mùa xuân mùa hạ để ứng với sự lớn dần của người ta. Giáng th́ âm ở phía tây bắc, chủ sự thu liễm của mùa thu, mùa đông để ứng với sự tiêu ṃn dần của người ta.

Theo chiều ngang mà xét th́ tượng ở hào thứ 2, quẻ Ly hết ở Măo (卯), quẻ Khảm hết ở Dậu (酉), đúng tiết xuân phân (春分), thu phân (秋分) là phần nửa của âm mà chia ra trên dưới. Trên là dương dưới là âm. Dương th́ mặt trời mọc ở Măo, để ứng với ban ngày thức, âm th́ mặt trời lặn ở Dậu, để ứng với ban đêm ngủ. Ở đồ tṛn này là đă đầy đủ cái lẽ vận khí (運氣), sự huyền diệu giữa người và trời đất.

Xét ở đồ vuông là h́nh tượng về đất, Càn bắt đầu ở tây bắc, Khôn tận cùng ở đông nam. Trời bắt túc ở phía tây bắc, cho nên ở đồ tṛn dương ở phía đông nam, đất không đày ở phía đông nam, cho nên ở đồ vuông dương ở phía tây bắc. Đó là ư nghĩa vạch quẻ của Phục Hy. C̣n về bát quái của Văn Vương, th́ vị trí có khác.

Phục Hy là theo ở hiện tượng tự nhiên, cho nên Càn ở trên Khôn ở dưới, Ly bên tả (左) Khảm bên hữu (右). Văn Vương là theo ở số của Hà đồ (河圖) cho nên hoả ở nam, thuỷ ở bắc mộc (木) ở đông, kim (金) ở tây. Liên hệ với mọi thứ trong người ta. Th́ trời đất là h́nh thể (形體), Càn Khôn là tính t́nh âm dương là khí huyết, 2 phía chung một gốc không tách rời nhau. Xét cho rơ nét tất cả đều như vậy.

Lấy hào, tượng (以爻象) mà xét th́ dương của trời đất, lấy số 6 làm chừng mực, 2 lần của tam tài thành ra sáu hào. 6 hào dương, 6 hào âm thành 12 hào cho nên trời có 12 tháng, người có 12 tạng phủ. Trời có 12 chỗ nhập nguyệt hội, người có 12 kinh, trời có 12 thần, người có 12 khớp biết rơ đó là h́nh tượng vinh vệ (榮衛:血是榮,氣是衛) được chu lưu kinh lạc biểu lư (經絡表裏). Lấy tạng tượng mà nói th́ từ hào sơ lục (初 六) đến hào thượng lục (上六) (6 hào ở quẻ âm) là âm, là tạng hào sơ lục ở chỗ của mệnh môn, hào lục nhị (六二) chỗ ở của tỳ (脾), hào ngũ lục (五六) chỗ ở của tâm (心), hào thượng lục chỗ ở của phế (肺). Tứ hào sơ cửu (初九) đến hào thượng cửu (上九) (6 hào ở quẻ dương) là dương, là phủ; hào sơ cửu ngang bàng quang (膀胱) hào cửu nhị (九二) ngang đại trường (大腸), hào cửu tam (九三) ngang tiểu trường (小腸), hào cửu tứ (九四) ngang đởm (胆), hào cửu ngũ (九五) ngang vị (胃), hào thượng cửu (上九) ngang tam tiêu (三焦). Biết rơ điều đó th́ âm dương của tạng phủ đă có h́nh tượng ở trong rồi.

Nguồn : Nhân tử Nguyễn Văn Thọ
 
Replied by PhoHVB (Hội Viên)
on 2014-06-02 16:18:48.0
Cám ơn Khang Tường đă chia xẻ 1 bài viết hữu ích. Có nhiều bạn hỏi về Nội Kinh và Dịch Lư nhưng diễn đàn vẫn thiếu bài viết về những đề tài này. Học y lư của Đông y nếu chưa học tới 4 bộ kinh (Nội Kinh, Nạn Kinh, Kim Quỹ Yếu Lược, Thương Hàn Luận) th́ chưa thực sự là học y lư. Có rất nhiều sách vở của Đông y nhưng nếu học thấu đáo được 4 bộ kinh này th́ tất cả các bộ sách c̣n lại chỉ là sách tham khảo mà thôi. Nhưng nhiều người đọc Nội Kinh đều nói là rất khó hiểu, đó là v́ khoảng 70% của Nội Kinh dùng kiến thức của Dịch Lư. Không học Dịch Lư trước th́ chắc chắn là không thể nào học được Nội Kinh. Các cụ thường nói, học Dịch Lư phải học từ nhỏ. Đó là v́ đầu óc càng hiện đại th́ học Dịch Lư càng khó hiểu, chỉ có học từ lúc nhỏ khi đầu óc vẫn c̣n trong trắng, đơn giản, chưa tiếp thu nhiều các bộ môn khoa học kỹ thuật nặng về h́nh tượng, về vật chất th́ mới có thể hiểu được Dịch Lư, v́ Dịch Lư là một môn khoa học rất trừu tượng. Ngày càng có nhiều người t́m cách hiện đại hóa Đông Y bằng cách sử dụng máy móc để hỗ trợ trong điều trị, tôi cho là đă đi sai đường. Càng nặng về vật chất, về khoa học hiện đại th́ càng khó tiếp thu nguyên lư Âm Dương vốn là nền tảng của Đông y.
Phó
 
Reply with a quote
Replied by Sinh Sinh Tử (Hội Viên)
on 2014-06-02 20:32:18.0
Nếu bạn nào ở trong nam, thích đọc về Dịch lư hăy tới Thư viện trung tâm Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (KP6 Linh Trung, Thủ Đức, Tp.HCM). Nơi này có rất nhiều đầu sách hay mà thị trường không có, cũng khá lư tưởng để đọc sách một ḿnh.
 
Reply with a quote
Replied by kiet (Hội Viên)
on 2014-06-02 21:42:23.0
không phải là sinh viên có vào đọc được ko?
 
Reply with a quote
Replied by Sinh Sinh Tử (Hội Viên)
on 2014-06-03 00:54:04.0
Tôi không rơ nữa, ai ở gần đấy hỏi nhân viên thư viện xem thủ tục làm thẻ như thế nào, rồi thông tin lại cho mọi người biết.
 
Reply with a quote
Replied by KHANG TƯỜNG (Hội Viên)
on 2014-06-09 04:45:36.0
Mời các bạn xem tiếp!

ĐIỂM MẤU CHỐT TRONG TƯƠNG THÔNG GIỮA Y VÀ DỊCH

Tiêu điểm trong tương thông giữa Y và Dịch biểu hiện ở chỗ cùng h́nh thức tư duy, chủ yếu tập trung thể hiện các mặt quan niệm vận động, quan niệm chỉnh thể và quan niệm cân bằng.

Tiêu điểm trong tương thông giữa Y và Dịch biểu hiện ở chỗ cùng h́nh thức tư duy, chủ yếu tập trung thể hiện các mặt quan niệm vận động, quan niệm chỉnh thể và quan niệm cân bằng.

Tương thông trong quan niệm vận động

Điều nhấn mạnh của Chu dịch là xoay vần. Hiện nay có học giả nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết quan niệm xoay vần Chu dịch với tư duy Đông Y, Lưu Trường Lâm nêu lên Chu dịch ẩn chứa quy luật xoay vần. Cái gọi là xoay vần, chỉ vũ trụ tồn tại quy luật vận động xoay tṛn, 64 quẻ Chu dịch là một ṿng tṛn lớn, 6 hào của một quẻ là một ṿng tṛn nhỏ, tất cả đều tuần hoàn theo ṿng tṛn. Như Dịch ¿ Thái quái viết: ¿ Không có bằng th́ không có dốc, không có đi th́ không có về¿. Dịch - Hệ từ viết: ¿Đi về không cùng gọi là thông¿, ¿ mặt trời lặn th́ mặt trăng mọc, mặt trăng lặn th́ mặt trời mọc, mặt trăng mặt trời có đổi vị trí cho nhau, mùa lạnh trôi qua th́ mùa hè lại đến, hết mùa nóng lại đến mùa lạnh, mùa nóng lạnh đuổi nhau mà thành năm¿¿ đều phản ánh hiện tượng xoay vần. Thái cực đồ có thể nói là bức tranh thu nhỏ của sự xoay vần hàm chứa ṿng tuần hoàn. Xoay vần Chu dịch là một loại tuần hoàn động thái, tất cả đều đi và về mang tính chu kỳ, quy luật này có ảnh hưởng quan trọng đối với lư luận Đông Y. Trước hết quan niêm xoay vần đă đặt trên cơ sở cho quan niệm chỉnh thể là chỉnh thể tṛn, quan niệm chỉnh thể thực tế là một thể hiện ṿng tṛn. Mà học thuyết Âm dương ngũ hành càng thẩm thấu quan điểm xoay vần, như tác dụng hỗ tương của âm dương, chế ước sinh khắc của Ngũ hành¿ đều là hiện tượng xoay vần. Y học thời gian Đông y cũng là sự phản ánh cụ thể của qui luật xoay vần trong tuần hoàn Chu dịch.

Tương thông trong quan niệm chỉnh thể

Y học tam duy về con người, tự nhiên và xă hội của Đông Y, bắt nguồn từ quan niệm Tam duy về con người, tự nhiên và xă hội của Chu dịch. Thực chất của quan niệm Tam duy là quan niệm chỉnh thể, quan niệm chỉnh thể là hạch tâm hệ thống luận, hệ thống luận nguyên thuỷ của Nội kinh cũng bắt nguồn từ h́nh thức hệ thống Chu dịch, hệ thống luận là lư luận nắm vững mối quan hệ chỉnh thể với một phần động thái. Chu dịch là một hệ thống mở chứa các tập tin tức, trong đó 64 quẻ là một hệ thống tin tức lớn, mỗi một quẻ là một hệ thống tin tức nhỏ, là bộ phận tổ thành của hệ thống lớn 64 quẻ. Bất kỳ một thay đổi cục bộ nào trong hệ thống đều dẫn đến sự thay đổi của toàn bộ hệ thống lớn, như 64 quẻ Chu dịch, thay đổi của mỗi hào đều ảnh hưởng đến 64 quẻ, cái gọi là ¿ khiên nhất phát nhi động toàn thân¿ nói lên hệ thống không những là chỉnh thể mà c̣n là động thái, chỉnh thể trong động thái, nhịp nhàng trong động thái.

Bát quái, 64 quẻ trong Chu dịch đều là h́nh thức hệ thống, ẩn chứa nguyên lư cơ bản của hệ thống luận hiện đại, nảy sinh ảnh hưởng sâu sắc đối với sự h́nh thành hệ thống luận của Nội kinh như lư luận Ngũ hành Đông y, lư luận Tạng tượng, quan hệ 12 kinh lạc, nguyên tắc tổ hợp về quân thần tá sứ trong phương tễ học đều dùng kết cấu và quan điểm của hệ thống để nắm vững qui luật sinh lư, bệnh lư của cơ thể. Ở trên nói rơ quan niệm chỉnh thể Đông y coi trọng tính thống nhất của bản thân cơ thể và tính thống nhất của nó đối với hoàn cảnh môi trường bên ngoài, quan niệm chỉnh thể của Đông Y chính là sự ứng dụng và phát triển trên cơ sở hệ thống luận Chu dịch.

Tương thông trong quan niệm cân bằng


Chu dịch nhấn mạnh cân bằng, trung hoà và đối xứng. Quái hào của Bát quái và 64 quẻ Chu dịch xắp xếp đều nhau, ngoài ra, như kết cấu hào quái của 8 quẻ đơn có thể chứng minh điều đó:

Càn ☰ Khảm ☵ Chấn ☳ Tốn ☴

Khôn ☷ Ly ☲ Cấn ☶ Đoài ☱

C̣n như sự sắp xếp hào quái của 12 quẻ tin tức cũng phản ánh tính đối xứng và cân bằng của sự tiêu trưởng âm dương.

Phục ☷ Lâm ☷ Thái ☷ Đại tráng ☳ Quải ☱ Càn ☰
☳ ☱ ☰ ☰ ☰ ☰

Cấu ☰ Độn ☰ Bĩ ☰ Quán ☴ Bác ☶ Khôn ☷
☴ ☶ ☷ ☷ ☷ ☷


Có thể thấy, sự tiêu trưởng thịnh suy âm dương mà Bát quái Chu dịch phản ánh là cân bằng, đối xứng và bổ sung cho nhay, đă đặt nền móng cho quan niệm cân bằng của Đông y. Quan niệm cân bằng của Đông y xây dựng tên cơ sở đối lập thống nhất, bao gồm cân bằng giới tự nhiên, cân bằng cơ thể và cân bằng giữa trong và ngoài cơ thể. Trong đó, cân bằng giới tự nhiên lấy học thuyết Vận khí làm tiêu biểu, chủ yếu chỉ thông qua quy luật ¿ Thắng, Phục, Uất, Phát¿ đạt được cân bằng trạng thái ổn định khí hậu, cân bằng nội bộ cơ thể th́ bao gồm tưong quan tạng phủ và điều tiết kinh lạc, đồng thời thông qua h́nh thức khí cơ lên xuống xuất nhập h́nh thành sự điều hoà cân bằng trong và ngoài cơ thể . Lư luận cân bằng Đông y chủ yếu khởi nguồn từ quan niệm cân bằng Âm dương của Chu dịch, quan niệm cân bằng âm dương Chu dịch là quan niệm đối lập thống nhất, cũng là quan niệm thống nhất của cân bằng, thẩm thấu trong quan niệm tự nhiên, quan niệm xă hội và sinh lư bệnh lư cơ thể của Đông y. Quan niệm cân bằng âm dương Chu dịch phản ánh các mặt kết cấu hào Bát quái, 64 quẻ và h́nh Thái cực đồ¿ Về mặt chữ viết cũng ẩn chứa lư luận cân bằng âm dương sâu sắc. Như Dịch- Hệ từ viết: ¿ Trong quẻ dương có nhiều âm, trong quẻ âm có nhiều dương, tại sao như vậy?¿ hay như Dịch ¿ Phong quái ¿ Thoán viết: ¿ Giữa trưa th́ mặt trời ngả về Tây, mặt Trăng đầy th́ sẽ làm vơi đi, trời đất đầy vơi; tăng giảm theo thời gian, huống hồ là con người¿.

Về mặt quan niệm Trung hoà: Quan niệm trung hoà là hạch tâm của quan niệm cân bằng, mục đích của trung hoà là nhằm để cân bằng. Dịch truyện chủ yếu do Nho gia sáng tác, v́ vậy đi vào đạo Trung Dung của Nho gia, đă dặt cơ sở cho thuyết Trung hoà về mặt triết học. Như Dịch- Hệ từ viết: ¿Đức ( tính cách) của âm dương hợp với nhau mà hào cương và hào nhu mới có thực thể¿, Càn cương Khôn nhu của Dịch truyện và ¿ nước lửa không gần nhau, sấm gió không ngược nhau, núi hồ thông khí¿ của Dịch - Thuyết quái, Dịch ¿ Càn quái ¿ Thoán viết: ¿ Giữ ǵn kết hợp, hoà nhau th́ măi lợi, bền¿, đều nhấn mạnh sự điều hoà âm dương, hay nói khác hơn là hài hoà, bao gồm đồng đều ngang bằng về lưọng và điều hoà thống nhất về chất. Nội kinh được thẩm thấu bởi quan niệm Trung hoà của Chu dịch, bất kể trên phương diện lư luận cơ bản hay trị liệu lâm sàng đều ngầm chứa tư tưởng ¿ hoà¿, trên thực tế cũng là sự thể hiện cân bằng luận, như phương diện lư luận cơ bản nhấn mạnh điều ḥa âm dương, cho nên Tố Vấn- Sinh khí thông thiên luận thiên viết: ¿ Then chốt của âm dương là chỗ âm khí phải yên tịnh, dưong khí phải kín chắc. Nếu âm dương thiên thắng, mất đi sự quân b́nh điều ḥa, th́ ví như trong một năm chỉ có mùa xuân mà không có mùa thu, chỉ có mùa đông mà không có mùa hè. Bởi thế phải làm cho âm dương điều hoà, đây là phương pháp dưỡng sinh tốt nhất của Thánh nhân, cho nên nếu dương khí quá thịnh không cất kín được th́ âm khí bị khuy hao. Nếu như âm khí hoà b́nh, dương khí cất kín th́ tinh thần vưọng thịnh¿, có nghĩa nói rằng âm dương hoà th́ ổn, âm dương không hoà th́ loạn. Cái gọi là hoà, cũng có nghĩa b́nh hoà, cân bằng. phưong pháp sửa sai bất hoà là điều hoà, tức ¿ lấy b́nh làm thường kỳ¿, hoà pháp trong bát pháp là một phương pháp lớn trị liệu được ứng dụng rất rộng, như hoà giải biểu lư, điều hoà doanh vệ, hoà giải can tỳ¿ đều thuộc về phạm trù ¿ Hoà¿. Ngoài ra điều chỉnh âm dương, uốn nắn thiên suy, sửa sai bù sót cân bằng ôn hàn, hoà huyết khí¿ cũng đều thuộc về phương pháp trị liệu điều hoà, mục đích của điều hoà ở chỗ cân bằng âm dương, những điều này đều chứng tỏ tư tưởng Trung hoà của Chu dịch đều có ảnh hưởng sâu sắc đối với lư luận cơ bản và trị liệu lâm sàng của Đông y.

 
Reply with a quote
Replied by KHANG TƯỜNG (Hội Viên)
on 2014-06-10 10:10:27.0
Mời các bạn tham khảo thêm bài sưu tầm sau:
LUẬT BIẾN-HÓA TRONG KINH DỊCH
Đây là phần quan-trọng trong việc tŕnh-bày về luật biến-hóa , giao-cảm trong Kinh Dịch.
Khi ứng-dụng vào y-học, người thầy thuốc đông-phương cũng phải dựa vào lẽ biến để nghiên-cứu từ sinh-lư, bệnh-lư, mạch-lư và điều-trị-lư"
Thương-hàn luận và Kim-quỹ yếu-lược là 2 tác-phẩm đầu tiên đă khai-triển lẽ biến-hóa trong Nội-kinh để ứng-dụng vào lâm-sàng về các mặt như đă nói trên. Chúng ta sẽ bàn vấn-đề này sau đây.
Trong phần này, chúng ta đi từ những định-nghĩa đại-cương trong Kinh Dịch nói về luật biến-hóa. Qua sự tŕnh-bày này, chúng ta sẽ dùng những tài-liệu trong Nôi Nan, Thương Kim"để làm nổi-bật quan-hệ biến-hóa trong Kinh Dịch đến biến-hóa trong y-học.
Chương 8 Hệ-từ hạ truyện khẳng-định:
易 之 為 書 也 不 可 遠 為 道 也 屢 遷
Dịch chi vi thư dă, bất khả viễn, vi đạo dă lũ thiên
變 動 不 居周 流 六 虛 上 下 無
biến động bất cư, chu lưu lục hư, thướng há vô
常 剛 柔 相 易 不 可 為 典 要
thường , cương nhu tương dịch, bất khả vi điển yếu,
唯 變 所 適.
duy biến sở thích.
Dịch nghĩa:
Dịch khi được viết thành sách (là nhắc cho chúng ta biết rằng) không thể sống xa với (cái lư của nó). Đạo (của Dịch) là luôn luôn dời-đổi, biến-động chớ không ở vào một chỗ. Nó lưu-hành khắp nơi trong cơi lục hư, lên xuống một cách "vô thường", lẽ cứng mềm cùng thay nhau. Không thể xem nó như một mẫu-mực nào chỉ có dựa vào lẽ biến là thích-hợp nhất.
Câu nói trên đây, tất nhiên, không thể hiểu ngay và hiểu một cách đơn-giản được . Nội-dung của nó nhắc chúng ta biết rằng khi học Dịch, không nên dựa vào phần hữu-h́nh để hiểu một cách cố-định nào đó, chúng ta phải dựa vào lẽ biến-hóa của Đạo.
Những phần trước đây, chúng ta đă biết thế nào là "khí", là Đạo. Chúng ta nên tiếp-tục những khái-niệm trên về khí để t́m hiểu những phần dưới đây.
Chương I Hệ-từ hạ truyện viết: " Cương nhu tương thôi biến tại kỳ trung hỹ.= cương nhu xô-đẩy nhau mà biến tại bên trong vậy.
Chương này viết tiếp: "Cát hung hối lận sinh ra từ trong cái động. Cương nhu là lập nên cái gốc, biến thông th́ theo đúng với thời"Cái động trong thiên-hạ được "trinh" bởi cái Nhất""
Cương nhu là sự hữu-h́nh của vạn vật ở Địa.
Chương 2 Hệ-từ thượng truyện viết:
"Cương nhu tương thôi nhi sinh biến-hóa"Biến hóa giả, tiến-thoái chi tượng dă." = Cương và nhu xô-đẩy nhau mà thành biến-hóa "Biến-hóa là cái tượng của sự tiến-thoái.
Những câu nói trên trong Kinh Dịch chứng tỏ biến-hóa là cái lư "Sinh sinh chi vị Dịch". Có biến-hóa mới có giao-cảm, có giao-cảm mới có biến-hóa; giao-cảm và biến-hóa nằm trong một cái ṿng mà Nội-kinh gọi là "chu nhi phục thỉ như hoàn vô đoan": đi hết ṿng rồi lại trở lại, như chiếc ṿng ngọc không đầu mối". Đây mới chính là điểm mà cổ-nhân thường nói "Học Dịch đi đă, rồi mới nói đến việc học y"!
Trong phạm-vi của quyển "Dịch-lư và y-lư" tôi xin tŕnh bày những nét lớn về vấn-đề này. Sau đó, chúng ta tiếp-tục dùng nó làm hành-tŕnh để đi vào "rừng y".
Trước hết tôi xin tŕnh-bày luật biến-hóa , ở phần sau sẽ nói đến luật "giao-cảm". Sau đó là phần dựng nên một con người, dĩ nhiên dưới mắt Đông-y , với thân và thể, thủ và túc, khí và huyết, kinh và mạch, ngủ và thức, buồn và vui"để chúng ta hiểu thế nào là "b́nh nhân". Từ đó, chúng ta sẽ biết được thế nào là "bệnh nhân". Công-tác của người thầy thuốc Đông-phương phải biết con đường đưa từ "bệnh nhân" trở lại với "b́nh nhân", hoặc giữ cho "b́nh nhân" tránh được trở thành "bệnh nhân".
Khổng Dĩnh-Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa đă trích dẫn sách "Dịch Vĩ Kiền-tạc độ, chia sự biến-hóa của Kinh Dịch ra làm 3 nghĩa:
a)-BIẾN-HÓA THEO DỊ-GIẢN (易簡).
(Nhất bản tán vạn thù)
Như chúng ta đă biết, sự biến-hóa của vạn vật hữu
h́nh đi từ vô-cực, thái-cực, lưỡng-nghi, tứ tượng"tức là đi từ "dị và giản" của vô-cực, của Thái-cực, để rồi tiến tới vạn vật đa thù do Âm Dương tạo nên. Dịch-lư hay là y-lư đều phải đi bằng con đường từ phức tạp, đa thù để trở về với cái "dị giản":
Thiên "Thiên nguyên kỷ đại luận" (Tố-vấn 66) viết: Cố vật sinh vị chi hóa, vật cực vị chi biến. Âm Dương bất trắc vị chi thần, thần dụng vô phương vị chi thánh: = Cho nên, vật "sinh ra" gọi là "hóa", vật đến lúc "cực" gọi là "biến". Âm Dương (biến-hóa đến chỗ) không đo-lường được gọi là "thần". Cái "dụng" của thần không bị đóng khung vào một mặt nào, người thực-hiện được việc ấy gọi là thánh-nhân.
Thiên này nói tiếp: "Ôi! Cái dụng của biến-hóa: Ở Thiên là "huyền 玄", ở nhân (người) là "道 đạo", ở Địa là "化 hóa". Hóa sẽ sinh ra ngũ "味 vị", Đạo sinh ra "智 trí", huyền sinh ra "神 thần". Thần ở Thiên là Phong, ở Địa là Mộc, ở thiên là nhiệt, ở Địa là Hỏa, ở Thiên là Thấp, ở địa là Thổ, ở Thiên là Táo, ở Địa là Kim, ở Thiên là Hàn, ở Địa là Thủy. Cho nên, ở Thiên gọi là "khí", ở Địa gọi là "h́nh".
H́nh khí cùng tương cảm mà "hóa sinh" ra vạn vật."
Thiên "Lục vi chỉ đại luận" (Tố-vấn 68) và thiên "ngũ thường chính đại luận" (Tố-vấn 70) cũng nói tương-tự như thế.
Vạn vật hữu h́nh đa dạng, tất cả đều từ "khí" để "biến" để "hóa".
Chương 1 Hệ-từ thượng truyện viết:
Kiền dĩ dị tri, thần dĩ giản năng , dị tắc dị tri, giản tắc dị tùng. = Đạo Kiền dựa vào cái "dị: dễ" mà điều-hành mọi việc. Đạo Khôn th́ dựa vào cái "giản" mà thực-hiện được vai-tṛ của ḿnh. Hễ "dị" th́ đễ điều-hành, "giản" th́ dễ làm theo.
Chương này viết tiếp:
易 簡 而 天 下 之 理 得 矣:
Dị, giản nhi thiên hạ chi lư đắc hỹ. = Nhờ vào "dị" và "giản" mà ta "đắc" được cái lư trong thiên-hạ.
Như vậy, trong thiên Địa và con người , cái "dị" cái "giản" hiểu như là cái "nhất". Chính cái đó mới là "đầu mối" quan-trọng để điều-hành cái phức-tạp, đa-thù. Cái "dị" và "giản" cũng chính là cái nguồn gốc từ đó sinh ra vạn vật đa thù.
Chương 10 Hệ-từ thượng truyện gọi nó là "cơ":
"Phù Dịch, thánh nhân chi sở dĩ cực thâm nhi nghiên "cơ". Duy thâm dă cố năng thông thiên hạ chi chí; duy cơ dă cố năng thành thiên hạ chi vụ; duy thần dă cố bất tật nhi tốc, bất hành nhi chí. = Ôi! Kinh Dịch có một nội-dung mà bậc thánh-nhân dùng để diễn tả cái chỗ cực "thâm" để nghiên-cứu cái "cơ" vậy. Duy chỉ có thâm mới thông được cái chí của thiên-hạ; duy chỉ có "cơ" mới thành được cái nhiệm-vụ trong thiên-hạ; duy chỉ có thần làm cho không vội-vàng mà được mau chóng, không đi mà đến.
Thánh-nhân ở đây, như chúng ta đă biết, là những người sống thuận với "Lư của tính mệnh", họ cũng là những tác-giả của Kinh Dịch như Phục Hy, Văn vương, Chu-công Đán, Khổng-tử. Từ những người này cho đến những thế-hệ sau nối tiếp theo, tất cả đă làm công việc giải-quyết mọi vấn-đề quan-hệ giữa Thiên Địa, vạn-vật và con người. Hoàng Đế Nội-kinh là bộ sách giải-quyết vấn-đề trên riêng về mặt con người và bệnh tật.
Nguyên-lư để giải-quyết là bắt đầu từ chỗ phức-tạp nhất của xă-hội, gia-đ́nh, thân-thể với ngũ tạng luc phủ "để t́m ra cái thâm, cái cơ, cái "thần, tức là cái dị, cái giản. Duy chỉ có dị và giản tức là cái Thái Nhất mới giải-quyết tận nguồn gốc của vạn vật hữu-h́nh phức-tạp mà thôi.
Thiên "Thượng cổ thiên chân luận" (Tố-vấn 1) viết: "Ngày xưa Hoàng Đế sinh ra là đă rất thần linh""
Ở đây, chúng ta hoàn-toàn không nên hiểu chữ "thần linh" là một vị thần rất linh-thiêng, có khả-năng siêu-việt, giúp-đở hoặc hăm-hại loài người "chúng ta lại càng không nên hiểu Hoàng Đế khi sinh ra đă là một vị thần-linh.
MN Đài chú: "Kinh Dịch viết:"Âm Dương không lường được gọi là thần.
Chữ "Linh" có nghĩa là tùy theo cảm để ứng theo. Kinh Thư cũng nói: "Duy chỉ có con người là "vạn vật chí linh", cho nên gọi là thần linh."
TCThông chú: "Thần linh có nghĩa là người có trí tuệ".
TCNhạc chú: "Thần linh có nghĩa là người "hết mực thông-minh"."
Thông qua các lời chú-giải của các nhà y-học trên, chữ "thần linh" vẫn chưa diễn-tả được ư-nghĩa sâu-sắc của nó. Thực sự, chúng ta phải chia từ này ra làm 2 tự để giải, sau đó tổng-hợp lại th́ mới hiểu rơ được sâu hơn.
Trong sách Hoàng Đế Nội-kinh, nhất là trong vấn-đề trị-liệu, chữ thần phải được hiểu theo y-học, chứ không thể hiểu chung chung được. Thiên "cửu châm thập nhị nguyên" (Linh-khu 1), Thiên "bát chính thần minh luận" (Tố-vấn 28), Thiên "Bản thần" (Linh-khu 8)"tất cả đều mô-tả "thần" như là một biểu-hiện sống-động nhất trong quá-tŕnh khí-hóa của Âm Dương, quan-hệ không rời nhau giữa "tinh" và "khí".
Chúng ta có thể tŕnh-bày một số tài-liệu rút ra từ trong Nội-kinh thật điển-h́nh về chữ "thần", sau đó sẽ có phần nhận-định quá-tŕnh đi từ "thần" đến linh.
Thiên "Tiểu châm giải" (Linh-khu 3) viết: "Thần là chính-khí vậy."
Thiên "vinh vệ sinh hội" (Linh-khu 18) viết: "Huyết là thần khí vậy." TCNhạc chú: "Khí vinh vệ tuy chia ra phần thanh và trọc, thế nhưng, tất cả đều là do phần tinh-hoa của thủy cốc mà thành. Tinh-khí là con đường tiến của huyết thành màu xích (đỏ), không thể đo-lường được sự kỳ-diệu đó . Đó là ư-nghĩa của câu nói "Huyết là thần-khí"," TCNhạc đă dẫn câu nói trong chương 5 Hệ-từ thượng truyện (Kinh Dịch): "Âm Dương bất trắc vị chi thần".
Thực vậy, chúng ta thấy sự biến-hóa từ tinh-khí của Âm Dương của cốc và vị "biến-hóa" thành huyết-khí là một quá-tŕnh biến-hóa vô cùng vi-diệu, không thể đo-lường bằng phương-tiện hữu-hạn của tai và mắt con người.
Thiên "Thiên niên" (Linh-khu 54) viết:
- Hoàng Đế hỏi: "Cái ǵ gọi là Thần?"
- Kỳ Bá đáp: " Huyết-khí đă ḥa, khí vinh vệ đă thông, ngũ tạng đă thành, thần-khí sẽ ngụ vào Tâm."
- Thiên "Kinh thủy" (Linh-khu 12) viết: "Ngũ tạng là nơi họp lại và tàng chứa thần, khí, hồn, phách."
Thiên "Cửu châm thập nhị nguyên"(Linh-khu 1) viết: "Tiết là nơi để cho thần-khí du-hành và xuất-nhập."
Thiên "Bát chính thần minh luận" (Tố-vấn 26) viết: "Huyết-khí là thần của con người"
TCThông chú đoạn chót của thiên "Giải tinh vi luận": Dương-khí là thần-khí, Hỏa-khí là Dương-khí . Ư nói bên trong "thần-khí" được giữ-ǵn bởi tinh-khí"Khí sinh ra ở thần, thần sinh ra ở tinh, tinh-khí nương theo thần-khí mà vận-hành."
Đến đây, chúng ta có thể kết-luận thành 2 điểm:
a) Bản- chất của thần chính là một dạng sinh-động của tinh mà tinh là sự kết-hợp hài-ḥa giữa "Tiên-thiên khí" và Hậu-thiên khí". Con người đầy-đủ tinh, tức là con người đầy đủ khí-huyết, sự hiện-hữu và sự biểu-hiện của nó sẽ sống-động, sẽ nhanh-nhẹn, theo kịp, theo đúng với sự biến-hóa, vận-hành của "Thiên nhân địa" ( h́nh dưới đây):
Sự biểu-hiện như trên được gọi là "thần", sự nhanh-nhẹn sống-động gọi là "linh". Vậy TINH " KHÍ " THẦN " LINH là một quá-tŕnh sinh-hóa của khí Âm Dương không ngừng-nghỉ, không tách rời, cũng như không thể bắt nó dừng lại để mà quan-sát nh́n nó như một đối-tượng nằm yên một chỗ.
b) Cho nên, ở dạng vô h́nh của khí, thần-linh là Âm Dương điều-ḥa, c̣n ở dạng hữu-h́nh của thân-thể khí huyết th́ thần linh là sự sống quan-hệ với những người xung-quanh ḿnh, với xă-hội, với vũ-trụ. Nói khác đi, thần-linh là một khả-năng tiếp-nhận, phản-ứng nhanh-nhẹn, chính-xác, không sai với nhịp vận-hành chung của Thiên Địa.
Tóm lại, câu "Hoàng Đế sinh nhi thần-linh" có nghĩa là Hoàng Đế sinh ra và lớn lên với 1 Tiên-thiên khí khỏe mạnh và một Hậu-thiên khí sung-túc, ông sống nhanh-nhẹn, thích-ứng tuyệt-vời với nhịp-điệu chung của vũ-trụ quanh ḿnh"
Qua sự nhận-định trên, chúng ta thấy rằng "thần-linh"nơi Hoàng Đế có nghĩa là ông này có một khả-năng từ tiên-thiên đến hậu-thiên để thành một người nắm được lẽ biến-hóa của vũ-trụ "dị giản" đến phức-tạp để rồi đưa nền y-học Đông-phương đi đúng vào con đường "biến-hóa" chung của Vô-cưc, Thái-nhất đến sự "biến-hóa" của Âm Dương"
THÁI-CỰC VI CHỦ (VŨ-TRỤ HỮU H̀NH.)
Chương 5 Hệ-từ hạ truyên xác-định:
機 者 動 之 微 吉 凶 之 先 見 者 也
Cơ giả, động chi vi, cát hung chi tiên hiện giả dă.
= Cơ là chỗ nhỏ (vi) nhất của mọi cái động, là sự hiện ra trước của mọi điềm lành dữ.
Bậc Thánh-nhân phải "tri cơ", "kiến cơ" để hành-động đúng thời, đúng tận nguồn của một vấn-đề.(xem phần Hà-Đồ ở SỐNG ĐẠO I) .
Chương này nói tiếp:
君 子 見 機 而 作 不 俟 終 日
Quân-tử kiến cơ nhi tác, bất sĩ chung nhật. = Người quân-tử phải kiến cơ để hành-động, không thể ngồi suốt ngày để chờ-đợi (nghĩa là phải Tu).
Vương Bật, về mặt Dịch-lư, đă giải-thích rất rơ trong thiên "Minh thoán" (Chu Dịch lược lệ):
夫 眾 不 能 治 眾 治 眾 者 至 寡 者 也
Phù ! Chúng bất năng trị chúng, trị chúng giả, chí quả giả dă. = Ôi ! "Chúng" không thể trị chúng, muốn trị chúng phải là cái chí "quả".
Ông nói tiếp: 夫 動 不 能 制 動 制 天 下 之 動 者 貞 夫 一 也 : Phù! Động bất năng chế động, chế thiên-hạ chi động giả, trinh phù nhất dă = Ôi! Động không thể chế được động, muốn chế cái động trong thiên-hạ, phải là cái "trinh nhất".
Trong hai câu nói trên: "chúng" và "động" là muốn chỉ vào vạn-vật đa-thù, "quả" th́ chỉ vào cái Nhất, cái giản, cái dị"chữ "trinh nhất" cũng thế.
Lăo tử nói trong chương 39 Đạo-đức kinh: "Vương hầu đắc nhất dĩ vi thiên hạ trinh. = Bậc Vương hầu đắc được cái nhất để làm cái trinh trong thiên hạ.
Chương 1 Hệ-từ hạ truyện cũng viết: "Thiên hạ chi động, trinh phù nhất dă. = Cái động trong thiên-hạ được trinh là do ở Nhất. Ở đây, chúng, động là sự biểu-hiện phức-tạp. Muốn giải-quyết cái phức-tạp không thể dùng đến phức-tạp mà phải trở về với cái "dị và giản".
Khổng tử nói trong chương 5 Hệ-từ hạ truyện:
"Thiên hạ đồng qui nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự, thiên hạ hà tư hà lự? = Thiên-hạ đi bằng nhiều đường khác nhau, nhưng cùng quy về một mối, (Thiên hạ) suy-nghĩ nhiều cách nhưng cùng đi đến chỗ "nhất trí". Thiên-hạ c̣n lo ǵ? Nghĩ ǵ?
Chữ "đồng quy" và "nhất trí" cũng có nghĩa là cái nguồn gốc của dị và giản. Khi nói đến nhất thống th́ phải nói đến tông (宗), khi nói đến hội th́ phải nói đến nguyên (元). Có như vậy th́ phiền mà không bị loạn, chúng mà không bị mê-hoặc.
Cho nên dù 6 hào (trong một quẻ dịch) có những ngôi vị khác nhau, nhưng ta có thể chọn một hào để làm sáng-tỏ, dù cương nhu có tương thừa nhau, nhưng ta có thể chọn một ngôi chủ để định khí.
Vương Bật đưa ra những thí-dụ trong kinh Dịch:
Trong quẻ có 5 hào Dương và 1 hào Âm, th́ hào Âm đó làm chủ:
Quẻ Đồng Nhân: "Đồng nhân, nhu đắc vị, đắc trung nhi ứng hồ Kiền viết Đồng nhân."
(Quẻ Đồng nhân : hào nhu đắc vị, đắc trung mà ứng với quẻ Kiền, gọi là Đồng nhân.)
Đại tượng truyện viết: "Thiên dữ Hỏa Đồng nhân, quân-tử dĩ tộc loại biện vật." (Thiên và hỏa là tượng của Đồng-nhân. Người quân-tử dựa vào đó mà phân-biệt được tộc loại và phân biệt được vạn vật.
Chú giải: Quẻ Đồng nhân gồm có hai quẻ đơn Kiền và Ly. Xét toàn quẻ th́ chỉ có 1 hào Âm ở giữa quẻ Ly là đắc trung ,đắc chính tức đắc vị. Hào 2 là đức sáng, là Hỏa. Đồng nhân có nghĩa là ḥa-đồng cùng người khác. Hào lục nhị ứng với hào cửu ngũ, đó là Đạo của người quân-tử: Hai quẻ Kiền và Ly hợp nhau để thành quẻ Đồng-nhân cũng nhờ có hào lục nhị. Hào này tạo thành quẻ Ly trong quá-tŕnh mà quẻ Kiền hấp-thụ được một hào Âm ở giữa thành đứa con gái (trung nữ).
Trên Trời, dưới Lửa, tính của 2 quẻ cùng giống nhau, biểu trưng của sự "thông chí" trong thiên hạ. 5 hào Dương này nhờ có một hào Âm mà được cái tượng tốt như thế.
Thoán"từ truyện viết: "Lư, nhu Lư cương dă. Duyệt nhi ứng hồ Kiền , thị dĩ lư hổ vĩ, bất điệt (咥 ) nhân, hanh.
Quẻ Lư là nói về nhu "đạp lên" cương vậy. Đây là lấy đức "vui" để ứng với quẻ Kiền, v́ thế đạp lên đuôi cọp mà cọp không cắn người, hanh.
Chú giải: Quẻ này gồm 5 hào Dương và một hào lục tam thuộc Âm. Hào từ lục tam có nói ""đạp lên đuôi cọp, cọp cắn người, hung""
Nếu chỉ nh́n riêng hào th́ hào này là hung. Nhưng theo Vương Bật th́ vai-tṛ của Thoán-từ là nhằm giải-thích điểm chủ-yếu của một quẻ, hào lục tam của quẻ Lư này tạo thành cái thể của quẻ.
Câu "đạp lên đuôi cọp" là nói về cái nguy. Hào lục tam làm chủ quẻ Lư, đó là dùng nhu "đạp lên" cương , đó là nguy. Nhưng khi nói "đạp lên đuôi cọp mà cọp không cắn" đó là lấy cái "vui" của quẻ Đoài để ứng với quẻ Kiền , Quẻ Kiền tượng-trưng cho cái đức cương chính. Ở đây cái Đức "duyệt: vui" không đem ra để thi-hành một cách cẩu-thả mà rồi đă lấy nó để ứng với quẻ Kiền, nhằm làm cho "đạp lên đuôi cọp mà cọp không cắn người".
Chu Hy nói: "Quẻ Đoài gặp quẻ Kiền, đó là vui-vẻ để tiếp nhau với sự cứng mạnh""
Nếu nh́n ở Đại-tượng của quẻ chúng ta thấy "thượng Thiên hạ Trạch", người quân-tử xem đó để định được, để thấy được vai tṛ của kẻ trên người dưới"
Thoán-từ truyện viết: "Nhu đắc vị nhi thượng hạ ứng chi, viết Tiểu-súc." :Hào nhu đắc vị mà làm cho thượng hạ ứng nhau gọi là Tiểu-súc.
Chú giải: Quẻ Tiểu-súc gồm 2 quẻ đơn là Tốn và Kiền. Xét toàn quẻ Tiểu-súc th́ quẻ Tốn có một hào Âm ẩn náo dưới 2 hào Dương, đức của nó là thuận . Tiểu-súc có nghĩa là chứa ít. Trên là quẻ Tốn, dưới là quẻ Kiền. Khí Âm ngăn khí Dương, Hào Âm duy nhất này đă làm chủ ngăn lại 5 hào Dương.. Sức chứa ít nên gọi là Tiểu-súc. Quẻ Kiền là mạnh, quẻ Tốn là thuận, hào nhị và ngũ là Dương , hào cữu nhị làm việc ở ngôi vị Âm, không đắc vị, không đắc chính nhưng vẫn thi-hành cái chí của ḿnh được, dù rằng không rộng-răi giống như mây dày đặc mà không mưa"
Thoán-từ truyện viết: "Nhu đắc tôn vị Đại trung nhi thượng hạ ứng chi viết Đại hữu."
Hào nhu được ở ngôi tôn vị, cái lớn được hợp với trung mà trên dưới đều ứng-hợp, gọi là Đại-hữu.
Chú giải: Quẻ Ly thuộc hỏa, quẻ Kiền thuộc Thiên, hỏa ở trên Trời, chiếu sáng. Trong 5 hào Dương có hào Âm ở ngôi Dương đó là hào lục ngũ. Hào này ở ngôi tôn hợp với đạo trung làm cho 5 hào Dương đều hướng về để ứng-hợp. Đó là Đại hữu (có lớn), đó là đức nguyên hanh.
Trong quẻ có 5 hào Âm và 1 hào Dương th́ hào Dương đó sẽ làm chủ:
Thoán-từ truyện viết: "Sư chúng dă . Trinh chính dă . Năng dĩ chúng chính khả dĩ vượng hỹ.= Quẻ Sư là chỉ vào số đông dân chúng. Trinh là chính. Biết đưa dân chúng vào chỗ chính sẽ thịnh vượng.
Chú giải: Quẻ Khảm ở dưới, quẻ Khôn ở trên. Người xưa xem binh lính như lực-lượng làm ruộng. Hào cửu nhị nằm trong quẻ Khảm , đắc trung là tượng của ông tướng, khiến cho 5 hào Âm trên dưới đều phải thuận theo: dân chúng, binh lính th́ phải theo tướng . Hào cửu nhị lại ứng với hào lục ngũ, trinh chính.
Thoán-từ truyện viết: ""Tỷ phụ dă, hạ thuận tùng dă. = Tỷ là giúp đỡ, kẻ dưới phải thuận tùng (trên).
Chú giải Hào cửu ngũ có đức cương đắc trung chính, do đó trên dưới 5 hào Âm đều phải theo để gần-gũi nhau.
Thoán-từ truyện viết: "Khiêm hanh, thiên đạo há tế nhi quang minh , Địa đạo ty nhi thướng hành .= Quẻ Khiêm là hanh-thông . Đạo Trời xuống thấp để cứu dân nên đức quang-minh. Đạo Đất thấp nhưng đi lên.
Chú giải Hào cửu tam ở ngôi chính; trên dưới 5 hào Âm đều quay theo. V́ hào Dương ở ngôi chính nên đức được sáng , nhún-nhường để có thể quay xuống với dân, trong lúc đó th́ quẻ cấn ở dưới quẻ Khôn nhưng nhờ ở ngôi nhún-nhường nên dù ở dưới cũng không ai vượt qua được , vừa ḷng cả trên dưới.
Thoán-từ truyên viết: "Dự cương ứng nhi chí hành, thuận dĩ động. = Quẻ Dự: cương mà được ứng nên chí được hành, đó là dưới thuận, trên động, quẻ Dự.
Chú giải: Dự là sự ḥa-thuận vui vẻ. Trên dưới ứng-hợp nên vui vẻ. Cửu tứ là hào Dương tạo cho thượng quái thành quẻ Chấn, chấn là động, trên động mà lẽ thuận ở dưới , trên dưới được ứng nhau, được ḥa nhau, Hào cửu tứ dẫn-dắt 5 hào Âm, mặt Trời, mặt trăng không đi quá, sự vận-hành của 4 mùa không sai lệch, bậc thánh-nhân thi-hành việc trị dân được trong sạch nên dân phục. Tất cả đều vui-vẻ.
Thoán-từ truyện viết: "Phục hanh cương phản"phản phục kỳ đạo"phục kỳ kiến thiên Địa chi tâm hồ" = Quẻ Phục thuộc đức hanh, hào cương đă trở lại"Đạo đă trở lại luật phản phục"Quẻ Phục cho ta thấy được cái Tâm của Thiên Địa vậy.
Chú giải: Quẻ Phục gồm 5 hào Âm và dưới cùng là 1 hào Dương , đó là Dương-khí đă "phục: trở lại". Vũ-trụ đi hết một ṿng của thuần Khôn th́ bắt đầu sống trở lại với nhất Dương sinh.
Nội quái là quẻ Chấn, ngoại quái là quẻ Khôn: khí Dương động ở dưới cùng theo lẽ tiến, từ dưới lên trên, biến-hóa theo lẽ thuận. Một ṿng phản phục đi từ quẻ Cấu (tháng 5): Một hào Âm sinh ra dưới 5 hào Dương cho đến quẻ Phục (tháng 11): 1 hào Dương sinh ra dưới 5 hào Âm. Đây là ư-nghĩa của câu nói:
"Thất nhật lai phục, thiên hành dă " .= Bảy ngày trở lại "phục" đó là sự vận-hành của Thiên.
Thoán-từ truyện viết: "Bác, bác dă. Nhu biến cương dă. = Quẻ Bác có nghĩa là bóc ra, lột ra. Nhu mà biến thành cương vậy.
Đại tượng truyện viết: "Sơn phụ ư Địa Bác, thượng dĩ hậu hạ an trạch: 山附於地剝上以厚下安宅 ( Núi dựa vào đất, là tượng của quẻ Bác. Kẻ trên nên đối-đăi hậu với kẻ dưới để giữ yên được chỗ ở.
Chú giải: Quẻ Bác là quẻ có 5 hào Âm ở dưới 1 hào Dương . Âm thịnh lên mà ngôi vị của Dương đang rất suy. Vai tṛ của một hào Dương đây rất tế-nhị, khéo léo để giữ nơi ở của ḿnh. Mọi việc theo hào Dương đến đây mà dừng lại, chỉnh đốn đúng với mệnh Trời.
Chúng ta thường theo Vương Bật đề ra một số quẻ để chứng minh vai-tṛ của "dị giản" của 1hào trong một quẻ. Cái gọi là "dị giản" này được diễn-tả bằng nhiều danh-xưng khác nhau: dị, giản, Nhất, thâm, Cơ, Thần, Vô-cực, Thái-cực, Thường Đạo"
Thực vậy, trong y-học, tức là trong Nội-kinh, tất cả điểm then-chốt đó được Tố-vấn gọi là nhất.
Trước hết chúng ta giới-thiệu thiên "Ngọc bản luận yếu" (Tố-vấn 15). Nội-dung chí của thiên này luận về phương-pháp vận-dụng điều gọi là "Quỹ đạc kỳ hằng" bằng cách chứng-minh qua mạch sắc của bệnh.
Chính v́ phương-pháp này rất bảo-quư v́ thế cho vào "Ngọc bản". Sau đó là phần tŕnh bày của Kỳ Bá rất sâu-sắc về sắc mạch. V́ thế mới có tên gọi là "Ngọc bản luận yếu".
Dưới đây chúng ta thử đưa ra đoạn luận về phương-pháp sắc mạch đa dạng mà được quy về cái Nhất, tức là quy về thần-khí của bệnh nhân.
NGŨ HÀNH: NGUỒN GỐC CỦA SỰ SỐNG
(Biểu-tượng 十 CŨNG LÀ KHÍ SANH QUANG.)
b)Sự sinh khắc chế hóa của Âm Dương Ngũ-hành:
Học thuyết Ngũ-hành coi tất cả sự vật trong vũ-trụ đều cấu thành bởi sự vận-động và biến-hóa của 5 loại vật chất: Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. "NGŨ" là chỉ vật chất không thể thiếu được trong sinh-hoạt của 5 luồng vận động. "HÀNH" là chỉ vận-động và biến-hóa.
Vạn-vật trên thế-gian đều chịu sự sinh-khắc chế hóa của Âm Dương ngũ hành. Con người đă t́m ra qui luật đó . V́ thế, trong "Hoàng-Đế nội-Kinh" có nói:
" Âm Dương là đạo của Trời-đất, là cương kỷ của muôn loài, là cha đẻ của muôn sự biến-hóa, là cái gốc của mọi sự mất c̣n".
Cái khí của Trời Đất hợp mà làm một ( tức là vũ-trụ biểu tượng là h́nh chữ "Thập"(十: tứ phương thượng hạ viết vũ; cổ văng kim lai viết trụ), phân ra âm(一: nét ngang), dương (〡: nét sổ), chia ra bốn mùa (Xuân:Thiếu âm,Hạ: Thái dương, Thu: Thiếu dương, Đông: Thái âm) bày ra năm hành:Thủy, Mộc, Hỏa, Kim, Thổ) Hành (行) là đi vậy. Cách đi không giống nhau: Di lên, đi xuống, đi thẳng, đi cong và ở một chỗ (Thổ ở trung cung) mà điều hành mọi việc cho nên gọi là ngũ-hành. Năm-hành là 5 ông quan trong một triều-đ́nh, so ra sinh lẫn nhau mà gián cách thắng lẫn nhau vậy. Tương sinh là theo thứ-tự mà sinh ra nhau như 1 sinh 2, 2 sinh 3, 3 sinh 4, 4 sinh 5.
Đồ h́nh dưới đây cho ta thấy: Theo chiều mũi tên đi theo chiều thuận là tương sinh tức là: Kim sanh Thủy; Thủy sanh Mộc; Mộc sanh Hỏa; Hỏa sanh Thổ; Thổ sanh Kim; Kim sanh Thủy.
Có tương-sinh tức có tương thân: Mộc sinh Hỏa. tức Hỏa thân Mộc"
C̣n như "gián tương thắng" là khắc chế nhau như: Kim thắng Mộc (hay kim khắc mộc) ở giữa gián cách Thủy. Thủy thắng Hỏa ở giữa gián cách mộc. Mộc thắng Thổ ở giữa gián cách Hỏa .Hỏa thắng Kim ở giữa gián cách Thổ. Thổ thắng Thủy ở giữa gián cách Kim.- Ṿng tương-khắc là Mô tả một hành có khả năng hạn-chế, kiểm-soát hay phá hủy toàn bộ sự tiến-triển của một hành khác.
Ví-dụ: Thủy dập tắt hỏa. Mộc hút nhựa sống từ Thổ. Hỏa nấu chảy Kim. Thổ xây đập ngăn Thủy"Kim dùng làm búa sắt chẻ được củi (mộc). v.v.
Bổ túc cho ṿng tương khắc là thuyết Tương-cụ (Cụ là sợ, là nể).
Thổ khắc thủy th́ thủy cụ thổ.
Người xưa đă lấy thuộc tính của 5 loại vật chất để suy diễn trừu tượng, dùng để nói lên toàn bộ thế-giới vật chất, c̣n cho rằng 5 loại vật chất không những có quan-hệ tương hổ tư sinh, tương hổ chế ước mà c̣n không ngừng vận-động và biến-hóa. Nhân-loại phát hiện sự vận-động không ngừng và tác-dụng tương hỗ của ngũ-hành là qui luật là nguyên nhân SINH DIỆT và BIẾN-HÓA của vũ-trụ.
Trong hệ-thống lớn của vũ-trụ Bát-quái có thuộc tính ngũ-hành, v́ thế bản đồ ngũ-hành là đơn-giản, nhưng vạn-vật trong trời đất có hàm chứa ở trong đó. Học thuyết ngũ-hành có tư-tưởng triết-học sâu-sắc, là một bộ-phận quan-trọng trong văn-hóa truyền thống của Trung-Quốc nói riêng và các nước Châu Á nói chung, trong đó có Việt-Nam ( y tổ là Hải-Thượng Lăn Ông ") ngày nay có tôn-giáo Cao-Đài (Ṭa-Thánh Tây-Ninh).
Hệ-từ của Chu-Dịch cũng nói: "Từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc phải biết về thuyết sinh-tử", Âm-dương giao-hợp(Thái) là bắt đầu của sự vật. Âm dương phân-ly (Bỉ)là kết-thúc của sự vật : Hợp th́ Sinh, ly th́ Tử".
Cái thể xác hữu h́nh của con người như ta đă thấy là do hai khí âm dương ngũ-hành kết tạo mới thành .
Kinh Dịch cho biết rằng: Có Trời rồi mới có Đất. Trời Đất kết hợp điều ḥa mới sanh ra vạn vật và con người, cũng như con người ai cũng phải có Cha Mẹ. (1).
Chú-giải (1):Trời là dương số, là cơ số (số lẻ). Đất là Âm số là số ngẫu (tức số chẳn). Một (Dương) + Hai (Âm) tức là Đạo mà Kinh Dịch đă bảo: (Nhất Âm, Nhất dương chi vị ĐẠO). Do theo trên, ta có thể thiết lập riêng cho ḿnh một biểu thức để làm nền tảng và mục tiêu mà chúng sanh phải tiến lên và làm cho sáng tỏ để phát triển trí tuệ của ḿnh hầu hoằng dương chánh pháp của nền chơn Đạo theo thời "Tam-Kỳ Phổ-Độ"mà Thượng-Đế đă khai mở hơn 85 năm nay. Biểu thức đó như sau:
Càn: số 1= ☰ có 3 nét dương + hay hợp với Khôn số 2 có 2 nét âm ☷ tức là :1+ 2 = 3 . Con số 3 là do một gạch dương 丨gát chồng lên gạch âm 一一 thành h́nh chữ Thập "十" .
Biểu tượng này là để chỉ cho người biết rằng: khi chưa có chi trong càn khôn thế giới, ta gọi nó là "Tiên-Thiên Hư-Vô chi khí", tức là khí Vô-Cực, cũng là khí sanh quang. Khí này c̣n trong trạng thái "tĩnh", có nghĩa là chưa có vật chi trong càn khôn thế giới này cả.
Đến khi khối Thái-cực "động" th́ mới sanh ra "lưỡng nghí", tức là hai khí Âm Dương,khí dương nhẹ thăng lên làm Trời, khí Âm nặng( trược khí) giáng xuống làm đất. Khi hai khí này phối hợp nhau th́ Trời Đất mới được sanh ra và vạn vật cũng được thành h́nh từ đó. Các tiền Thánh ( như Phục Hy") theo đó mới nghĩ ra cách khai triển thành bức Hà-Đồ gồm có 10 con số (đó là phần LƯ-Số) nên ta gọi tên nó là " ngũ-hành" hay ngũ khí mà vạn vật ắt là bẩm cái khí ấy rồi mới có h́nh. Cho nên Dịch mới nói "Các hữu Thái-cực".Trong bản Hà-đồ c̣n nói: "Thiên nhất sanh Thủy (là nước tượng bằng quẻ khảm :(☵ có 5 nét) mà Địa lục thành chi"( tức ngũ khí (là số 1) phối hợp với ngũ hành (số 5) mà thành ra thai bào vậy.Lấy theo số mà nói th́ đó là cơ " Nhị ngũ", v́ Trong ngũ hành c̣n chia ra ngũ hành dương và ngũ hành âm, tức Tiên-thiên dương ngũ hành từ số 1,2,3,4,5 và Hậu-thiên Âm ngũ-hành là các số từ 6,7,8,9,10. Số Dương là số Sanh và số Âm là số Thành.(xin xem lại tập SĐ , phần Hà-Đồ sẽ rơ hơn).
Ngũ hành là ǵ?
- Âm dương là ngưỡng cửa của sự phân-hóa biểu hiện thiên h́nh vạn trạng, tượng trưng là âm-dương Ngũ-hành, theo quá-tŕnh HAI (Âm+Dương) và NĂM (Ngũ-hành).
Trời có năm hành: Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy.
MỘC là bắt đầu của ngũ-hành, Thủy là cuối cùng của ngũ-hành.
Năm hành lấy Thổ làm giữa. Đấy là thứ-tự của trời hay thiên-nhiên.
Ngũ-hành tương sinh:
MỘC sinh ra hỏa, Hỏa sinh ra thổ, Thổ sinh ra kim, Kim sinh ra thủy, Thủy sinh ra mộc , đấy là quan-hệ cha con. Hỏa ở đàng trước, thủy ở đàng sau, Thổ ở chính giữa, đấy là thứ-tự cha con vậy, chịu nhau mà phân bố. Năm hành theo nha, mỗi cái như thứ-tự của nó . Quan của năm hành, mỗi cái trọn hết khả năng của nó .
Cho nên Mộc ở tại phương Đông mà chủ khí mùa Xuân.
Hỏa đóng ở phương Nam mà chủ khí mùa Hạ,
Kim đóng ở phương Tây mà chủ khí về mùa Thu .
Thủy đóng ở phương Bắc mà chủ khí về mùa Đông. Thế nên mộc (Mộc dục) chủ về Sinh mà Kim chủ về Sát (kim khắc mộc). Hỏa (Lửa) chủ về nóng mà Thủy ( nước) chủ về lạnh ...
Thổ đóng ở giữa gọi là thiên-nhuận, Thổ là cánh tay của Trời. Đức tính của nó tốt đẹp , không thể lấy công việc của một thời tiết mà mệnh-danh nó được. Cho nên năm hành trong bốn mùa th́ Thổ đều gồm cả kim-mộc, thủy-hỏa, tuy mỗi hành một chức-vụ, nhưng không có Thổ th́ THẾ không đứng được ( Thổ là chủ, là vua. Kim, mộc, thủy, hỏa là khách, là bầy tôi).
Ví như chua, mặn, cay, đắng không nhân có vị ngọt, béo th́ không thể thành vị. Ngọt là gốc của năm vị, Thổ là chủ của năm hành. Chủ của năm hành là Thổ khí cũng như năm vị có ngọt béo vậy, không thể không thành.
Trời đất lấy đó làm căn bản cho sự điều lư quân phân, mỗi hành đều có tác dụng lớn lao quan trọng, chiếm một địa vị thiết yếu không gian và thời gian . Mọi sự vật dù lớn nhỏ, cả đến sông núi đất đai không sao thiếu được nó mà thành tựu, mà tiến bộ, tùy theo đức tính của mỗi hành mà hiện ẩn, tương phối, tương ly.
Đại cương phương-pháp luận Đông-y dựa trên nền tảng "Duy vật biện-chứng" và có những nguyên-lư sau: Khí ( énergie) là vận-động của vật-chất qui-dịnh sự tồn-tại và phát triển của vạn vật. Trong đó các công năng của cơ thể con người khi b́nh thường là sinh-lư, khi bất thường gây ra bệnh-lư. Vạn-vật biến chuyển không ngừng theo chu-kỳ: Mầm trung-ương năy sinh biến chuyển tột-độ (phát-triển), suy-yếu rồi hủy-diệt qua 5 giai-đoạn: SINH " TRƯỞNG- HÓA " THÂU " TÀNG. Năm giai-đoạn như vậy tức nhiên có 5 khí tương ứng:
1) MỘC KHÍ: Là nguồn năng-lượng ứng với sự nảy sinh, khởi-động tượng cho Mùa xuân. Do đó, nếu Mộc khí vượng lên sẽ gây quặn thắt, nhu động khẩn trương. Mộc khí suy gây mơi yếu, nhu động yếu. Mộc ứng với Gan (can).
2) HỎA KHÍ: Là nguồn năng-lượng thể hiện cao độ sự sống, giai-đoạn trưởng. Tính của Hỏa là phát nhiệt. Do đó Hỏa khí vượng gây viêm nhiệt, nóng sốt, đau nhức. Hỏa khí suy gây ra cảm giác quá mát. Hỏa ứng với Tâm tượng cho mùa Hạ.
3) THỔ KHÍ: Là nguồn năng-lực trung-ương giữ vai-tṛ nuôi dưỡng, chủ sự luân-lưu của huyết (thống huyết). Thổ khí vượng làm cảnh vật chao-đảo, lật ngược. Thổ khí suy gây tê nặng, suy-nhược, xây-sẫm. Thổ ứng với Tỳ ( 15 ngày cuối của 4 mùa đều thuộc thổ: th́n, tuất, sửu, mùi).
4) KIM KHÍ: Là nguồn năng lực bốc lên, thâu liễm. Do đó Kim khí đầy-đủ làm nhu-nhuận, mịn-màng. Kim khí suy sẽ gây tức trướng, śnh sôi, khô táo. Kim ứng với Phế chủ mùa Thu.
5) THỦY KHÍ: Là nguồn năng-lực tàng-trữ trong người, liên-hệ đến các triệu-chứng ôn, hàn, súc giảm. Thủy khí đầy đủ làm ấm-áp linh-hoạt. Thủy khí suy khiến cho cảm giác lạnh, bài-tiết nhiều, cơ-quan co rút lại. Thủy ứng với Thận chủ mùa Đông.
Dựa trên nguyên-lư "Động và phản-đông lực" người xưa chứng-minh được sự liện-hệ của 5 luồng khí lực theo luật sinh khắc ngũ-hành.
Đặc-tính của Ngũ-hành:
Nước (Thủy) thấm xuống, Lửa (Hỏa) bốc lên, cây (Mộc) có cong có thẳng, Kim loại (Kim) co dăn đổi thay tùy sự cần dùng của tay thợ. Đất (Thổ) gieo trồng gặt hái. Người Đại nhân phải thấu hiểu lẽ sanh khắc biến hóa mà tùy thuận theo tự nhiên để áp dụng vật lư ngoại giới, chế tạo những cơ cấu vật dụng cần thiết hằng ngày, mở mang cuộc sống cho nhân quần xă hội ngày thêm thăng tiến để thuận lẽ Trời, hợp ḷng người hầu giúp Trời Đất hướng dẫn quần sanh trở lại cội nguồn tự-do, hạnh-phúc.
Lư của khí Ngũ-hành:
"Trong khoảng Trời đất có Lư có Khí. Lư là cái đạo thuộc về H́nh-nhi-thượng, cái gốc sự sinh ra vạn-vật thuộc về H́nh-nhi-hạ, cái đồ để sinh ra vật. Bởi thế người với vật sinh ra, ắt là bẩm cái khí ấy rồi mới có tính ;. Trong thiên-hạ chưa có khí nào không có lư, cũng chưa có lư nào không có khí". Vậy Lư là phần thuộc về H́nh-nhi-thượng (Cung Ly ☲ ), mà khí là phần thuộc về H́nh-nhi-hạ (cung Khảm ☵ ).Nghĩa là Lư th́ vô-h́nh, mà khí th́ có h́nh , nhưng cái nọ lẫn cái kia , chứ không bao giờ có cái nọ mà không có cái kia được . Bởi vậy ông nói rằng: "Lư khí bản vô tiên hậu chi khả ngôn. Nhiên lư hựu phi biệt vi nhất vật, tức tồn hồ thị khí chi trung ": Lư với khí vốn không nói được có cái trước cái sau. Song lư không phải là một vật đứng riêng một ḿnh, tức là ở trong khí (1)". Lư với khí (tức thủy với hỏa cũng như trời với đất, không có thủy hỏa th́ sự sống do đâu mà thành? ) lúc nào cũng đi với nhau, nhưng xem câu vấn-đáp sau này th́ ông vẫn cho lư là gốc. Hỏi rằng: "Trước khi chưa có Trời-đất , hết thảy chỉ có lư, có phải không?
- Rằng: "Trước khi chưa có Trời đất, hết thảy chỉ có Lư (Lư là vô-cực). Có lư ấy, mới có trời-đất ấy. Nếu không có lư ấy, th́ cũng không có Trời-đất, không có nhân-vật ǵ cả . Có Lư là có khí( là khí Thaí-cực) , hai cái cùng lưu-hành và phát-dục vạn-vật". " Thái-cực không phải là cái đă có trước khi có Trời-đất , không phải là cái vật hỗn (hỗn-tạp) thành ra, chỉ là cái tổng danh để gọi cái lư của trời-đất và vạn-vật, có phải không?"
- Rằng: "Thái-cực (biểu thị bằng chữ thập十 tượng trưng cho khí Thổ ở trung-ương) chỉ là cái lư của trời-đất và vạn-vật. Nói ở Trời-đất, th́ trong trời đất có cái thái-cực; nói ở vạn-vật, th́ trong vạn-vật, mỗi vật có một cái thái-cực.".(cũng như mỗi người chỉ có một cái đầu).Cho nên Dịch mới nói: "Các hữu Thái-cực".
Thái-cực là Lư. Trong vạn-vật mỗi vật có một Thái-cực, nhưng tóm cả lại là chỉ có một thái-cực, cũng như là nói trong vạn-vật, mỗi vật có một lư , nhưng tóm cả lại là chỉ một lư duy nhất mà thôi (Thầy là các con, các con là Thầy) . Cái thuyết ấy cũng tương-tự cái thuyết của Trương-hoành-Cừ nói về Thái-hư.
Lư th́ không phân-biệt ra khác nhau được, dẫu có chia ra làm ngh́n, làm vạn mối cũng chỉ là một gốc mà thôi ( gốc ở ĐẠO 道 ). Khí th́ chia ra làm nhiều loài , mà mỗi loài một khác. Sự khác nhau ấy bởi tại khí có thanh, có trọc, hậu, bạc cho nên mới thành ra có sai-biệt.
Phật-giáo có câu: "Kiến tánh thành Phật", vậy tánh là cái ǵ mà Phật nói thấy được Tánh là thành Phật?
Vạn-vật tuy có sai-biệt, nhưng vật nào cũng có cái Thái-cực. Cái thái-cực ấy ở vào bậc thánh-hiền th́ cái tia-sáng phát-hiện ra như ḥn ngọc quí nằm trong chậu nước trong, mà ở vào người ngu dại, th́ nó tối mờ đi, như ḥn ngọc nằm trong chậu nước đục vậy.
Thái-cực ở trong người ta là cái tính bản nhiên của ḿnh. Cái tính ấy theo bản nguyên của nó th́ ai cũng như ai cả. Song người ta lại bẩm thụ cái khí mà sinh ra , tất là có cái tính khí chất th́ tùy cái khí bẩm: Thanh, trọc, hậu, bạc mà thành ra khác nhau. Thí-dụ như: Theo cái thuyết Ngũ-hành, ngũ đức tương-phối th́ người nào chịu nhiều kim khí là khác người chịu nhiều mộc khí .v.v.
Chỉ có bậc Thánh-hiền th́ mới có được cái tính khí chất, không những là có thanh, trọc khác nhau mà thôi, lại có thuần hay không thuần nữa. Thí-dụ: Có người thông-minh việc ǵ cũng hiểu cả, ấy là bởi có cái khí thanh, nhưng đến việc làm th́ vị tất việc ǵ cũng trúng lư , ấy là bởi có cái khí không được thuần. Có người cẩn hậu, trung-tín, ấy là bởi có khí thuần , nhưng đến sự biết th́ vị tất việc ǵ cũng đạt được lư, ấy là bởi cái khí không thanh.
Thanh với trọc, thuần với không thuần là bởi cái thiên-mệnh định ra như vậy. nhưng ta có thể lấy nhân-lực (tu-thân) mà biến-hóa cái tính khí chất đi, làm cho sáng cái tính thuần-túy là thiên-lư ra, ấy là cái công-phu của sự tu-dưỡng vậy.
Cái tính bản-nhiên và cái tính khí chất tuy khác nhau, nhưng hai tính ấy mật tiếp với nhau, không bao giờ có tính nọ mà không có tính kia được . Bởi v́ một bên là H́nh-nhi-thượng thuộc về tinh thần, một bên là H́nh-nhi-hạ thuộc về vật-chất. Cái h́nh-nhi-thượng có cái h́nh-nhi-hạ mới phát-hiện ra được , ví như một gáo nước, không có cái gáo đựng th́ nước không chứa vào đâu. Vậy nên đă có lư là có khí, mà có khí là có lư.
QUỸ ĐẠC KỲ HẰNG
THIẾT MẠCH (Bắt mạch)
Nguyên văn:Hoàng Đế vấn viết: "Dư văn quỹ đạc kỳ hằng (1) sở chỉ bất đồng, dụng chi nại hà?" (2). Kỳ Bá đối viết : "Quỹ đạc giả, đạc bệnh chi thâm thiển dă; Kỳ hằng giả, ngôn kỳ bệnh dă. Thỉnh ngôn Đạo chi chí số, ngũ sắc mạch biến, quỹ đạc kỳ hằng Đạo tại vu Nhất (3). Thần chuyển bất hồi , hồi tắc bất chuyển năi thất kỳ cơ (4), chí số chi yếu bức cận dĩ vi (5), trứ chi Ngọc bản, mệnh viết hợp Ngọc cơ (6).
Dịch nghĩa: Hoàng Đế hỏi: "Ta nghe nói về phương-pháp "quỹ đạc kỳ hằng", nhưng sự biểu-lộ của nó lại khác nhau, vậy phải vận-dụng nó như thế nào?"
Kỳ Bá đáp: "Chữ "quỹ đạc" có nghĩa là đo-lường mức-độ sâu cạn của bệnh; chữ "kỳ hằng" ư nói đến những kỳ bệnh. Thần xin được nói về "chí số" (của mạch), nói về ngũ sắc và mạch biến, tất cả những phương-pháp đo-lường về các kỳ bệnh ấy , Đạo của nó chỉ ở Nhất. Thần-khí th́ luôn luôn vận-chuyển (vận-hành) chứ không quay trở lại, khi mà nó quay trở lại tức là đă không c̣n vận-hành nữa. Đó là nó đă mất đi cái "cơ". Sự quan-yếu của vấn-đề "chí số"ở chỗ: khi chúng ta thiết mạch là chỉ tiếp-xúc được ở mức-độ thiển-cận, nhưng chúng ta phải biết đó là sự vi-diệu (của thần và cơ). V́ thế (cổ nhân) đă ghi nó lại trong "Ngọc-bản", dùng để tham-hợp với thiên "Ngọc-cơ chân tạng luận" vậy.
LUYỆN KHÍ HÓA THẦN
Chú giải:
(1) Quỹ đạc kỳ hằng:
Sách Hoàng Đế Nội Kinh Tố-vấn dịch thích chú: "Quỹ đạc ư nói đo lường và so-sánh; kỳ là dị thường, hằng là chính thường."
Theo Mă Nguyên-Đài th́ "quỹ đac" là dùng phép thiết mạch để t́m ra mạch-lư của bệnh.
2) Sở chỉ bất đồng ": Ư nói khi đo-lường bằng sắc mạch Âm Dương , biết được độ thiển thâm, thuận nghịch, tất cả đều biểu-lộ ra khác nhau"
3) Thỉnh ngôn Đạo chi chí số "Đạo tại vu nhất; thần chuyển bất hồi"năi thất kỳ cơ:
Vương Băng chú: "Huyết-khí chính là thần-khí."
MNĐài chú: "Nhất có nghĩa là ǵ? Đó là nói về con người có thần-khí vậy."Ông trưng ra một số thiên trong Linh tố:
-Thiên "Di tinh biến khí luận" (Tố vấn 13) có nói: "Có được thần th́ khá".
- Thiên "Thang dịch lao lễ luận" (Tố vấn 14) có nói: "Khi mà thần-khí không c̣n th́ bệnh không khỏi."
- Thiên "Bát chính thần minh luận" (Tố vấn 26) nói: "Huyết-khí là thần-khí của con người, không thể không dưỡng thần một cách cẩn-thận."
- Thiên "Thượng cổ thiên chân luận"(Tố vấn 1)
Nói: "Nếu h́nh và thần c̣n đầy-đủ th́ sẽ sống trọn tuổi Trời."
Vương Băng nhấn mạnh: "Thần là chủ của con người. Khi thần-khí vận-chuyển vào ngũ tạng th́ sẽ không thể "hồi: quay trở lại", "hồi" có nghĩa là đi ngược lại mà không thể đi tới. Nếu bị hồi"tức là bị mất đi cái "cơ". Ta thấy được "cơ" ở tai thần, c̣n "yếu" ở tại "cơ"""
TCThông chú: "Mạch bắt đầu ở Túc thiếu-âm thận, "sinh" ra ở Túc Dương-minh Vị, "vận-hành" ở Túc Thái-âm Tỳ. Cho nên Thái-âm có nhiệm-vụ vận-hành khí đến tam âm, tưới nhuần cho tứ tạng . Chí số ư nói nhân mạch xuất nhập để mà đo được con số . Câu "ngũ sắc mạch biến" ư nói mạch của ngũ tạng biểu-hiện ra ở sắc mặt.
"Nhất" có nghĩa là "thần". Thần là thần-khí của huyết mạch của ngũ tạng. Tỳ là tạng trung-ương Thổ có vai tṛ tưới nhuần 5 tạng. Ngũ tạng nhận lấy khí chỉ có chuyển hành đi ra mà không được trở lại. Nếu nghịch lại chuyển qua cho cái sở thắng, đó gọi là hồi chứ không phải truyền . Đó gọi là thất đi cái vận-chuyển tương sinh của "cơ"
Qua đoạn văn trên trong Tố-vấn, chúng ta thấy rơ rằng những loại kỳ bệnh biểu-hiện bằng sắc diện khác nhau, bằng chí số của mạch khác nhau, nhưng cái "cơ" mà người thầy thuốc phải nắm, đó là thần-khí của người bệnh . Bệnh biến-hóa từ thần-khí đến những nét đa dạng về sắc, mạch, người thầy thuốc phải học Dịch-lư để biết rằng, bệnh biến theo từ "dị giản" đến đa thù. Muốn chữa bệnh , phải biết dù có bao nhiêu thay đổi về sắc mạch, nhưng điểm chính vẫn là "thần, cơ, nhất", đúng với câu trong Kinh Dịch: "Dị giản nhi thiên hạ chi lư đắc hỹ" và người thầy thuốc ví như người "quân tử kiến cơ nhi tác, bất sỉ chung nhật"
Sự thay đổi bệnh-t́nh tùy vào rất nhiều t́nh huống khác nhau, trong đó có "thời", có hoàn-cảnh của cuộc sống bên ngoài và bên trong nội tạng"Thiên "Di tinh biến khí" (Tố vấn 13) đă đưa ra sự phối-hợp trong việc chẩn-đoán: sắc, mạch, vấn. Tất cả đều phải dựa vào cái Nhất nơi người bệnh và ông thầy thuốc . Cái nhất đó cũng chính là "cơ, thâm, thần" mà chúng ta đă thấy nói ở phần trước. Riêng trong thiên này phương-pháp vấn-chẩn được thực-hiện thật chu-đáo nhằm kết-hợp với thần sắc của bệnh nhân. Sau khi mô-tả phép chẩn-trị tổng-quát xưa nay:
PHẦN VẤN CHẨN (để nắm bắt cho được cái nhất)
Đế viết: "Nguyện văn yếu đạo!". Kỳ Bá viết: "Trị chi yếu cực, vô thất sắc mạch, dụng chi bất hoặc, tri chi đại tắc (1), nghịch tùng đảo hành , tiêu bản bất đắc, vọng thần thất quốc (2), khử cố tựu tân, năi đắc chân nhân ," Đế viết: "Dư văn kỳ yếu vu phu tử hỹ. Phu tử ngôn bất ly sắc mạch, thử dư chi sở tri dă." Kỳ Bá viết: "Trị chi cực vu nhất." Đế viết: "Hà vị nhất?" Kỳ Bá viết: "Nhất giả nhân đắc chi (3)." Đế viết: "Nại Hà?" Kỳ Bá viết: "Bế hộ tắc dũ", hệ chi bệnh giả, sổ vấn kỳ t́nh dĩ tùng kỳ ư, đắc thần giả xương, thất thần giả vong (4)."Đế viết: "Thiện".
Dịch nghĩa:
Hoàng Đế nói: "Ta mong được nghe về cái "Đạo" (Lư) quan-trọng trong việc lâm chứng."

Kỳ Bá đáp: "Điểm quan-yếu "cực" (nhất) của việc trị-liệu là đừng nhận-định sai về sắc mạch, và khi ứng-dụng (sắc mạch vào trị-liệu) đừng có nghi-ngờ .Đây chính là nguyên-tắc lớn nhất trong việc trị-liệu, (c̣n nếu như chúng ta không nắm vững vấn-đề trên, để rồi) làm cho bệnh t́nh bị nghịch tùng , bị ngược xuôi, không nắm được gốc ngọn, (như vậy, nếu người thầy thuốc chữa bệnh) sẽ làm hại đến thần-khí của bệnh-nhân. (dùng nó để) trị quốc sẽ làm vong quốc. Hăy vứt bỏ những thói quen sai-lầm củ , thể-hiện cho được tinh-thần mới, như vậy mới có thể đắc được cái sống của bậc chân-nhân ."
Hoàng Đế hỏi: "Ta đă nghe được những điều quan-yếu của phu-tử đă nói. Phu-tử nói rằng không nên rời sắc mạch, đó là điều mà ta đă hiểu rồi (không biết c̣n có những điều nào quan-trọng nữa không?)."
Kỳ Bá đáp: "Chỗ "cực: cao nhất" của phép trị-liệu là ở chỗ nắm được cái "nhất"."
Hoàng Đế hỏi: "Thế nào gọi là Nhất?"
Kỳ Bá đáp: "Nhất có nghĩa là nhân ở (do ở) tiếp-xúc với bệnh-nhân mà biết được."
Hoàng Đế hỏi: "Phải tiếp-xúc như thế nào?"
Kỳ Bá đáp: "Đóng cửa lớn, cửa sổ, gặp-gỡ thân-mật với bệnh-nhân, hỏi-han về bệnh-t́nh một cách nhẫn-nại, làm thế nào để cho bênh-nhân theo đúng ư mà nói ra (bệnh-t́nh của ḿnh), (một mặt theo dơi thần-khí của bệnh-nhân, nếu) c̣n đắc thần th́ khá, nếu họ bị thất thần th́ nguy."
Hoàng Đế nói: "Đúng vậy!"
Chú giải:
1) Trị chi yếu cực"tri chi đại tác:
TCThông chú: "Sắc mạch là con đường biểu-hiện của Âm Dương . Chỉ cần xem sắc mạch nơi người bệnh sẽ biết được việc tử sinh. Phép trị lớn là đây."
2) Nghịch tùng đảo hành"vong thần thất quốc:
TCThông chú: "Câu nghịch tùng đảo hành" có nghĩa là làm mất đi nghịch thuận lẽ vận-hành của 4 mùa và hàn thử"Tâm tàng thần và làm chủ toàn thân, nếu chủ c̣n sáng-suốt th́ tất cả đều an"thần c̣n th́ khí c̣n, v́ thế thiên này rất trọng "thần-khí"."
3) Trị chi cực vu Nhất"Nhất giả nhân đắc chi:
TCThông chú: "Kỳ Bá thấy Hoàng Đế đă biết về vấn-đề sắc mạch, ông nói tiếp rằng con đường trị-liệu c̣n dựa vào điểm "chí cực", quy vào cái nhất mà thôi. Nhất chính là "thần" (khí) "Nếu biết được thần-khí th́ sẽ nắm được sắc mạch tinh khí"vậy."
4) Bế hộ tắc dũ"thất thần giả vong:
TCThông chú: "Khi nói đóng các cửa lớn và cửa sổ" ư muốn không để cho "chí" (cả thầy thuốc lẫn bệnh-nhân) bị thoát ra ngoài. Thần "xá: ở" Tâm. Tâm động ra ngoài gọi là t́nh. Chí và ư dùng để chế-ngự tinh-thần, để thu hồn-phách, để thích-ứng với ấm lạnh, ḥa-điệu được hỉ nộ. V́ thế không nên cho chí bị thoát ra ngoài (lo ra).
Khi nói "Hỏi-han về bệnh-t́nh một cách nhẫn-nại" đó là để theo đúng với ư-t́nh (của bệnh-nhân), như vậy sẽ đắc được sự tồn vong của thần-khí""
Qua hai đoạn văn trên trong Tố-vấn, chúng ta cũng thấy rơ được một điều là từ Kinh Dich đến Y Dịch, sự vật được biểu-hiên hữu h́nh một cách đa dạng. Nhưng muốn giải-quyết, chúng ta phải nắm cho đươc chỗ "dị và giản" tức là nắm được cái "cơ", cái thâm, cái thần. Thần sắc, mạch đao, cuộc sống từ nội Tâm đến ngoại cảnh, sự thay-đổi khí-hóa của 4 mùa, tất cả đều ảnh-hưởng nhau và cùng biểu-hiện ra thật khác nhau"và v́ thế bệnh xăy ra cũng hết sức đa dạng.
Mặc dù vậy, người thầy thuốc phải biết nắm cho được cái "NHẤT" như Tố-vấn đă nói. Cái Nhất đó thiên hạ biểu-hiện nơi con người ở thần-khí. Đây là một trong những nét độc-đáo trong việc chẩn-trị của y-thuật Đông-phương . Nó xác-định câu nói "Dị giản nhi chi lư đắc hỹ"
 
Reply with a quote
Replied by conchocun (Hội Viên)
on 2014-06-11 14:57:47.0
Quote:
Originally posted by KHANG TƯỿNG

...
Ngũ hành là ǵ?

- Âm dương là ngưỡng cửa của sự phân-hóa biểu hiện thiên h́nh vạn trạng, tượng trưng là âm-dương Ngũ-hành, theo quá-tŕnh HAI (Âm+Dương) và NĂM (Ngũ-hành).

Trời có năm hành: Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy.

MỘC là bắt đầu của ngũ-hành, Thủy là cuối cùng của ngũ-hành.

Năm hành lấy Thổ làm giữa. Đấy là thứ-tự của trời hay thiên-nhiên.

Ngũ-hành tương sinh:

MỘC sinh ra hỏa, Hỏa sinh ra thổ, Thổ sinh ra kim, Kim sinh ra thủy, Thủy sinh ra mộc , đấy là quan-hệ cha con. Hỏa ở đàng trước, thủy ở đàng sau, Thổ ở chính giữa, đấy là thứ-tự cha con vậy, chịu nhau mà phân bố. Năm hành theo nhau, mỗi cái như thứ-tự của nó . Quan của năm hành, mỗi cái trọn hết khả năng của nó .

Cho nên Mộc ở tại phương Đông mà chủ khí mùa Xuân.

Hỏa đóng ở phương Nam mà chủ khí mùa Hạ,

Kim đóng ở phương Tây mà chủ khí về mùa Thu .

Thủy đóng ở phương Bắc mà chủ khí về mùa Đông. Thế nên mộc (Mộc dục) chủ về Sinh mà Kim chủ về Sát (kim khắc mộc). Hỏa (Lửa) chủ về nóng mà Thủy ( nước) chủ về lạnh ...

Thổ đóng ở giữa gọi là thiên-nhuận, Thổ là cánh tay của Trời. Đức tính của nó tốt đẹp , không thể lấy công việc của một thời tiết mà mệnh-danh nó được. Cho nên năm hành trong bốn mùa th́ Thổ đều gồm cả kim-mộc, thủy-hỏa, tuy mỗi hành một chức-vụ, nhưng không có Thổ th́ THẾ không đứng được ( Thổ là chủ, là vua. Kim, mộc, thủy, hỏa là khách, là bầy tôi).
...

Chào bác KHANG TƯỜNG.

Có nhiều điều em đọc từ bài Dịch Lư thấy nó lấn cấn nên em muốn hỏi bác vài ba điều để em bớt thắc mắc:

- Thứ nhất, 5 hành tinh Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy là 5 hành tinh độc lập với nhau trong Thái Dương Hệ, chắc chắn chúng sinh ra cùng một lúc khi Thái Dương Hệ được tạo nên th́ tại sao Kinh Dịch lại cho là Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc...

- Thứ hai, Mặt Trăng và Mặt Trời là hai hành tinh ảnh hưởng nhiều tới khí hậu, thời tiết của trái đất và khí huyết của con người th́ lại không được dùng mà Kinh dịch lại dùng năm hành tinh (Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy) ít ảnh hưởng tới nhân tố của con người?

- Thứ ba, những cái tên Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy là những cái tên được đặt ra để phân biệt cho dễ nhớ th́ tại sao Kinh dịch lại dùng nó làm nguyên lư để suy lư, luận chứng?


 
Reply with a quote
Replied by KHANG TƯỜNG (Hội Viên)
on 2014-06-27 10:51:59.0
tiếp theo

b) - BIẾN DỊCH THEO BẤT DỊCH

SỰ HÔ-HẤP
(LƯỠNG CỰC ĐỘNG TỊNH )

Đây là phép "Luyện-Đơn hay luyện thuốc Trường sanh bất tử của Tiên gia thời Tam-Kỳ Phổ-Độ".

(Là nói về bí pháp của hai quẻ Khảm ☵ và Ly ☲).

Thông thường khi nói đến vấn-đề hô hấp th́ ai cũng biết: Hít không khí (thanh khí : dưỡng khí) vào phổi và thở ra (đưa thán khí ra ngoài), đây là một việc làm tự-động, v́ nếu chúng ta không biết, không nghĩ đến th́ cơ thể chúng ta cũng tự-đông làm việc đó. C̣n vấn đề hô-hấp mà tôi muốn nói ở đây, nó bao gồm vấn đề tu-luyện và phụng sự của người TU theo "Tân-pháp Cao-Đài : hấp thu cho tường tận cái lư lẽ chân thật, tức đạo pháp nhiệm mầu để rồi truyền bá cái đạo-lư ấy cho đồng loại với ḿnh được hiểu biết như ḿnh th́ việc hô-hấp này mới thực sự có ư nghĩa "phụng-sự vạn linh tức là phụng sự Thượng-Đế đó vậy." (sự hô hấp theo Y-lư phương Đông Đó là trách nhiệm của Phế và Thận vậy).

" Theo các nhà Yoga Ấn-Độ, hơi thở là sự thể hiện khía cạnh vật chất của nội lực tiềm tàng trong con người. Chúng ta thở trung b́nh 21.600 lần mỗi ngày đêm. Nhịp thở mau sẽ làm con người suy yếu, giảm thọ, chế ngự được hơi thở làm chủ được nhịp thở theo hướng điều ḥa, sự sống được kéo dài và những công năng sẽ bộc phát tuyệt diệu hay c̣n non nớt tùy bản lĩnh khổ luyện của mỗi người. Theo t́m hiểu, một đời người dùng không hết một triệu tế bào Đại năo trong tổng số 14 tỷ tế bào này. Tập luyện khí công chính là đánh thức, khai thác các tế bào c̣n say ngũ đó."

Động cực th́ trở lại tĩnh. Tịnh cực th́ trở lại động, giống như con người hô hấp vậy. Hô hấp ở đây muốn nói là có sự vận-hành của tư tưởng , tức là dùng tư tưởng hiểu biết tận tường (cùng lư tận tính) của ḿnh về hai khí âm dương (giống như hít thở vào thuộc phạm vi của Thận vậy) để làm cho sự sống của ḿnh được thăng hoa , khỏe mạnh và dùng sự hiểu biết về đạo lư của ḿnh để phụng sự cho vạn linh ( giống như hơi thở ra : "Hô" thuộc Phế) Đây là thuật chuyển di "tư-tưởng".

HÀN NHIỆT
HÀN là cực của hấp ( thuộc quẻ Khảm ☵), là trầm của khí. NHIỆT là cực của hô ( là phù của khí. ÔN là vi của hô, là thăng của khí (thuộc quẻ Ly ☲). LƯƠNG là vi của hấp là giáng của khí. Một hô, một hấp cái "Cơ" theo lên có trật tự của nó. Nó có những quan hệ tương đẳng để khỏi tiêu hại lẫn nhau ( chiết khảm điền ly là quẻ Thủy Hỏa Kư-tế). Đây là nói về mặt dụng của việc lưu hành, c̣n trước đây là nói về đại và tiểu, hư và thực, tất cả đều nằm ở cái thể đối đăi nhau.

Có người nói: Xa th́ lấy gương ở Trời Đất, ở mặt Trời mặt Trăng, gần th́ lấy gương ở thân thể của trai gái, có cái bất túc, có cái hữu dư. Điều này chúng ta đă biết rồi. C̣n nếu như nói rằng con người ở giữa nơi giao khí của Trời Đất, nay nếu muốn thuận với cái lư của âm dương để mà thực hiện cái phép nhiếp sinh và dưỡng sinh, phải như thế nào mới là đúng?

Ta đáp: Thận chủ bế tàng, Can chủ về sơ tiết. Hai tạng này đều có "Tướng hoả" và đều liên hệ với bên trên, với Tâm Tâm thuộc về "Quân hoả", cho nên con người khi bị ngoại vật làm cảm th́ dễ động đến tâm. Tâm động th́ Tướng hoả dễ bị động theo"v́ thế các bậc Thánh Hiền chỉ dạy cho con người ta "TU TÂM DƯỠNG TÁNH" . Ư chỉ của cổ nhân thật là sâu xa vậy.


SỐNG VÀ CHẾT (vấn đề sanh tử).

TÁC-ĐỘNG CỦA 2 KHÍ NGŨ-HÀNH
a) Nguồn gốc phát sinh bệnh tật:(Phong khí)

Thiên "Tạng phủ kinh lạc tiên hậu bệnh" (Kim quỹ yếu lược) viết: "Ôi! Con người bẩm thụ khí "五常 : ngũ thường" do ở "Phong-khí" mà có sinh trưởng. Phong khí tuy có thể sinh ra vạn vật, mà nó cũng có thể hại vạn vật, ví như nước có thể làm nổi cho chiếc thuyền và cũng có thể làm lật úp chiếc thuyền. Nếu ngũ tạng được ḥa, khí nguyên và chân được thông sướng th́ con người sẽ được an ḥa""

Ngũ thường đây chính là ngũ khí, ngũ hành, ngũ tạng trong con người . Tất cả đều vận-hành đồng-nhịp với Thiên Địa. Phong ở đây là khí giao-cảm giữa Thiên Địa, Âm Dương để con người thành người. Quá-tŕnh này là quá-tŕnh "Thiên-mệnh chi vị tính" của sách Trung-dung đă nói.)

Con người "sống" có nghĩa là thực-hiện quá-tŕnh khí-hóa hợp với Thiên Địa, Âm Dương ngũ hành qua từng "thời" của đời ḿnh. Bất cứ một lư do nào đó do nội thương hay ngoại cảm làm mất đi sự "thăng bằng" của khí-hóa th́ con người sẽ bệnh.

Nền Y-học hiện-đại cũng đă nhận-thức được rằng: Con người sở-dĩ sinh bệnh , dẫn đến tử-vong, hoặc bị những thương-tổn khác,, những tai-họa khác, đều do sự sinh khắc chế hóa của khí âm dương ngũ hành có tác-dụng quyết-định.

Lăo tử đă nói "Tổn hữu dư, bổ bất túc" (tức là làm cho âm dương được quân b́nh và điều-ḥa). Theo nguyên-lư đó, người xưa, nhất là Thần Nông đă "dùng dược trị bệnh". Nói khác đi, Thần nông đă dùng dược để "bổ tả", để "điều-ḥa" sự thịnh suy trong con người.

TÍNH THIỆN.

Chương V Hệ-từ thượng truyện viết: "Nhất Âm, nhất Dương chi vị Đạo, kế chi giả, thiện dă. Thành chi giả, tính dă". = ( Sự vận-hành giao cảm giữa)1 Âm, 1 Dương, gọi là Đạo ( là ư-nghĩa của Đạo).( Thiên Địa giao-cảm hoặc con người hành-động làm sao để) kế-tục được theo cái lẽ của (Đạo) gọi là thiện. Khi nào thực hiện (hoặc hoàn thành) cái đạo ấy nơi người (hay vật) gọi là Tính.

Câu nói trên có vài ư cần được nói rơ thêm.

Đạo là con đường vận-hành, biến-hóa từ khí vô-cực, đến Thái-cực, đến Lưỡng-nghi"đến vạn-vật hữu h́nh . Đạo tự nó có quy-luật biến-hóa của nó . Thiên-đạo biến-hóa có b́nh khí, có thái-quá, có bất-cập, tất cả đều biểu-hiện bằng một Âm và một Dương .Con người sống trong sự giao-biến của Thiên Địa, phải ứng theo đúng với Thiên Đạo, đó gọi là thiện. Rơ-ràng thiện ở đây không phải là tính thương người, hay làm lành lánh dữ một cách chung chung . Vận-hành đúng nhịp với Thiên Đạo để thực-hiện Thiên Đạo nơi mỗi vật trong đó con người là quan-trọng nhất, đó gọi là "Tính".

Đạo của Thiên làm mẫu mực cho Đạo của người. Mỗi giai-đoạn biến-hóa đúng với thời gọi là "thiện, là bất dịch, là trung trinh, là thường."

Đạo là một, nhưng biểu-hiện khác nhau, đó là hóa, là biến, nhưng đi tới cùng nó là một : "Vô-cực và Thái cực". Thiên-khí có thường, có bất thường, con người trong cuộc sống phải biết để ứng theo, đó là ư-nghĩa của bất dịch, Trung-dung.

Ngay ở phần mở đầu, sách Trung-dung viết:

Thiên mệnh chi vị Tính, 天命之謂性

Suất tính chi vị Đạo, 率 性之謂道

Tu Đạo chi vị giáo. 修之謂教道

= (Cái mà ta) bẩm thụ được ở Trời (Trời cho) gọi là "tính". Hành-động thuận theo đúng với tính gọi là (nhân) Đạo. Sửa đổi cái Đạo ấy (để ứng với Thiên Đạo) gọi là "giáo".

Con người bẩm-thụ được Thiên Địa khí để thành h́nh với ngũ tạng lục phủ, khí huyết"phải luôn luôn ứng với sự thay đổi của Thiên Đạo với từng thời, ta phải "linh: nhanh-nhẹn" để xoay trở với thái-quá, với bất cập. Bởi v́ khí của Thiên Địa sinh ra con người nhưng nếu con người sống nghịch lại với Thiên Đạo tức là không "giáo", không "suất tính" th́ chúng ta sẽ bị "bệnh" và "chết"..

Khi nói là "thiên mệnh chi", tức là nói, "Trời đă ban cho", tức là nói chúng ta "bẩm-thụ khí Âm Dương". Âm Dương của Trời Đất có tiêu trưởng th́ Âm Dương nơi người chúng ta cũng có tiêu trưởng theo đúng từng nhịp thay đổi đó. Theo đúng đồng nhịp gọi là thiện .

Chúng ta nhắc lại chương I Hệ-từ hạ truyện:
Thiên hạ chi động trinh phù Nhất dă. (Cái động trong thiên hạ được trinh bền chính là ở cái nhất vậy.

(Nhất ở đây là Thái-nhất, là Thường đạo, là bất-dịch, trung trinh..)

Chương này viết tiếp: "Cương nhu giả, lập bản giả dă. Biến thông giả,, thú thời giả dă" = Cương và nhu là để lập nên cái"gốc". Biến và thông là để theo đúng với thời vậy.

Đạo vận-hành theo lẽ bất dịch, lẽ thường, cho nên mọi hành-động của con người không lúc nào được đi xa, đi sai với Đạo.

Sách Trung-dung (thiên I) viết: "Đạo giả bất khả tu du ly dă, khả ly phi Đạo dă."= Đối với Đạo con người không thể xa rời dù trong thoáng chốc . Nếu đă xa rời th́ hành động ấy không hợp với Đạo.

Sách Trung-dung (xuất-hiện trước Nội-kinh) luôn luôn nhắc-nhở con người trong hành-động thuộc luân-lư hay y-học trong cuộc sống hàng ngày phải cẩn-thận từng giây phút. Con người không thể sống nghịch lại với Đạo (thường).

SỐNG ĐẠO TỨC LÀ TRƯỜNG SINH.
Thiên "Tứ khí điều thần luận" (Tố vấn 2) đă nhấn mạnh: ""bốn mùa trong trời đất không c̣n giữ được điều-ḥa sẽ làm thất đi cái Đạo. Như vậy cuộc sống chưa được nửa đường đă bị tuyệt-diệt. Duy chỉ có bậc Thánh-nhân là theo đúng với Thiên Đạo, v́ thế họ giữ được thân ḿnh không bị bệnh lạ, vạn vật sẽ không mất đi lẽ sống, sinh-khí không bị kiệt."

Sống gần với Đạo cũng có nghĩa là biết trước tất cả những sự thay đổi của tứ thời để dự-trù khi chưa bị bệnh . Thiên này nói tiếp: " Cho nên, bậc Thánh-nhân không "trị: (để ư, nghiên-cứu") cái đă bệnh mà lo "trị" cái chưa bệnh, không trị cái đă loạn mà lo trị cái chưa loạn".Ôi! Đợi khi bệnh đă thành rồi mới dùng thuốc, đợi khi loạn đă thành rồi mới trị loạn, cũng ví như đợi khát nước rồi mới đào giếng, đợi lúc đánh nhau rồi mới đúc binh-khí. Như vậy, cũng chẳng muộn lắm ư?"

Lư âm dương của trời đất là kỷ cương , là đầu mối của sự sống vạn vật, âm dương không thể rời nhau mà có sinh có thành được (giống như hai đầu của một thanh nam châm , giống như điện khí ( nếu không có cái hai nầy hiệp một lại th́ sẽ không có sự sống bao giờ. Cho nên DỊCH nói tuy hai mà một). V́ vậy mà vợ chồng phối hợp nhau muốn trường cửu phải biết Đạo, làm theo đạo lư mới gọi là có đạo). Đạo của trời đất dù có phân chia đến cùng vẫn không mất được lưỡng tính, và đấy là quan niệm ĐẠO TRỜI tức là tịnh hành (並行) hữu hợp (有合):

ĐẠO TRỜI KHÔNG HAI" (Phồn-lộ .q12))
Nói Đạo Trời không hai có nghĩa là chỉ có một, là Duy nhất bản thể. Dù là người phương đông hay phương tây cho chí đến cả vạn vật có được sự sống này đều là do đạo mà ra cả. Khi nghe người ta nói; Anh là đạo Công giáo, người kia là đạo Phật, người nọ là đạo Lăo" Nói như vậy không có nghĩa là có nhiều Đạo mà thực ra đó chỉ là h́nh thức của tôn giáo chứ chưa phải là đạo. Tôn giáo chỉ là phương tiện mà đạo mới thật là cứu cánh chung cho tất cả loài người Thế nên Đạo là duy nhất, là vĩnh tồn không bao giờ hư hoại..

"Đạo trường cửu của trời là vật tương phản vậy, không nổi lên cùng một lúc được, cho nên gọi là một (Nhất trí). Một mà không hai là vận-hành của trời .Âm với dương là vật tương phản vậy. Cho nên hoặc đi ra, hoặc trở về , hoặc bên phải, hoặc bên trái. Mùa xuân đều ở phương Nam , Mùa Thu đều ở phương Bắc, mùa Hạ giao ở trước mặt, mùa Đông giao ở sau lưng . Cùng vận-hành một lúc mà không cùng một đường, giao nhau gặp gỡ mà mỗi đàng đều đại-biểu cho một lư, đấy văn vẻ biểu thị của nó chăng !

. Có cái bản thể đồng nhất (Đạo = 道) bên trong th́ mới duy-tŕ được sự "Tịnh hành bất đồng độ", "Giao hội các đại-lư" đấy là phần bản thể học vậy. Vạn vật đều có chỗ bắt đầu, cái chỗ bắt đầu ấy gọi là Nguyên 元: "Gọi là nhất nguyên ấy là cái bắt đầu đại yếu" (Vị nhất nguyên giả đại thủy dă 謂一元者大始也)".

"Chỉ có bậc Thánh trí mới có thể liên thuộc muôn vật vào một mối mà hệ-thống vào nguyên 元. Cuối cùng không tới gốc do đấy xuất ra để theo, không có thể măn nguyện công tŕnh. Thế nên lấy mùa xuân, mùa Thu biến đổi mà nhất trí gọi là nguyên . (Nguyên cũng như nguồn vậy. Nghĩa của nó là tùy vào Trời đất từ đầu đến cuối" cho nên nguyên là muôn vật , và ở tại đấy là nguồn gốc loài người. Ở tại chỗ nào như thế nào? Nó ở tại trước khi có Trời đất".)

TIÊN-THIÊN: Có trước Trời đất tức là có trước thiên-nhiên theo nghĩa hữu h́nh vật lư, tức là ở trên thiên-nhiên , ở trên thiên-địa c̣n có một nguyên-lư siêu nhiên. Cái nguyên-lư siêu-nhiên ấy là THIÊN (tức Thượng Đế là đấng Tạo-hóa) có cái đức sáng tạo như là một Duy-nhất viên măn:(Thiên là tổ của muôn vật (gọi là Trời hay Thượng-Đế). Muôn vật không có Thiên (1) không sinh ra được.

( Một ḿnh khí âm không sinh, một ḿnh khí dương không sinh. Âm dương với Trời Đất tham-hợp rồi sau mới sinh.(Thiên Thuận-mệnh 70- q7 phồn lộ )

(.H́nh thập tự giá 十 là tương chữ Khí hay quẻ Khảm ☵ , đúng với câu "thiên nhứt sanh thủy"., là lư âm dương ngũ-hành thể hiện trên bức HÀ-ĐỒ gồm có 10 con số đó vậy).

GHI CHÚ (1): TRỜI LÀ AI ?
Trời cũng là Tằng Tổ-phụ của người. Do đấy nhân-loại mới bắt chước giống với Trời ở trên. H́nh thể của người là hóa thiên số mà nên, huyết khí nghị-lực của người là hóa thiên chí làm đức nhân ái. Đức hạnh của người là hóa Thiên-lư thành ra chính nghĩa.

" Nếu tham-gia với Trời đất th́ ấy là hóa vậy"

Cái khả năng "Tham thiên-địa" ấy là đặc-biệt của tính người mới có vậy. Bởi v́ người với trời đất cũng một thể .Trời: Càn ☰ ; Đất: Khôn ☷ (vũ trụ).

Người: Đầu tṛn cung Khôn ☷ ; Phía dưới cung khôn có 3 nét dương là miệng, bộ sinh dục, hậu môn hợp thành quẻ Càn ☰ . như vậy th́ câu nói " Trời người đồng thể" thật là chí-lư.

THÁI-CỰC VÀ LƯỠNG NGHI
Hệ-từ nói: " Dịch hữu Thái-cực, thị sinh Lưỡng-nghi" Trương hoành Cừ cũng nói: "Cái lưỡng" không lập được th́ cái "Nhất" cũng không hiện ra được.

Nhất không hiện ra được th́ cái "dụng của lưỡng" sẽ mất. Cái thể của "lưỡng" là " Hư thực", là "Động tĩnh", là Tụ tán", là "Thanh trọc", cuối cùng nó vẫn là cái "nhất"(Thiên Thái-hoà/chính mông").

Chữ "Nhất" mà Trương hoành Cừ nói ở đây chính là Thái-cực. Ông nói: "Có Lưỡng ắt có Nhất, đó là Thái-cực"(Dịch thuyết).

Thái-cực là Nhất, là Thái hoà, là cái khí toàn chân. Cái khí đó trong lúc toả rộng mà chưa tụ lại, trạng thái đó được gọi là "Thái-hư".

Ông nói: "Khí Thái-hư vô h́nh, đó là bản thể của khí"" (Thái-hoà/Chính-mông).

Cũng như Kinh Dịch đă nói, Ông đă diễn tả chữ Thái-hư tuy không trông thấy, nhưng không phải là không có ǵ, không thể gọi là "hư-vô".

Ông nói: "Biết Thái-hư là khí th́ không phải là không có ǵ"Khí Thái-hư khi thăng khi giáng, bay rộng ra, chưa bao giờ ngừng lại, Kinh Dịch gọi là "絪 縕 nhân-uẩn: un-đúc dầy đặc""đó là cái "cơ" của hư thực, động tĩnh, là cái bắt đầu của cương nhu, Âm dương. Cái nổi và bay lên thuộc khí thanh của Dương , cái ch́m và giáng xuống thuộc khí trọc của Âm. Khi chúng ngộ và cảm, tụ và tán th́ sẽ thành mưa gió, sương tuyết, thành vạn vật hữu h́nh, núi sông, con người"" (Tham-lưỡng/Chính-mông).

Theo ông, trong khí Thái-cực có hai khí Âm dương tương-cảm nhau, do đó mà khí Thái-cực không thể dừng lại ở trạng-thái Thái-hư: khí tụ th́ vật sẽ thành, khí tán th́ vật sẽ tán. ( Thuỷ hoả, Hoả thuỷ).

Ông nói: "Do đó, ta biết rằng vạn vật tuy đa dạng, nhưng không vật nào không có Âm Dương ." (Thái-hoà/Chính-mông).

Sách Tính-lư tiết yếu chú: " Ở tầng trên thượng thiên vốn vô thanh, vô xú, nhưng đó chính thực là cái gốc, cái then chốt của Tạo-hóa đă tạo ra mọi phẩm và vật trong Trời Đất. Cho nên, khi nói rằng "Vô cực chuyển sang Thái-cực" không có nghĩa là ngoài cái Thái-cực ra c̣n có thêm cái vô-cực nữa". Sách Dịch chỉ nói "Dịch hữu Thái-cực" mà thôi, nhưng Chu-liêm-Khê lại nói: "nếu không nói đến Thái-cực th́ vô-cực sẽ ch́m đắm vào một trạng thái hư không, tịch-mịch, không đủ làm cái gốc cho vạn-vật . Trái lại nếu không nói đến vô-cực th́ Thái-cực cũng sẽ giống với một vật nào đó thôi, không đủ làm cái cái gốc của muôn vạn sự biến-hóa."

Thái-cực động mà sinh ra Dương , động cực th́ tĩnh, tĩnh sẽ sinh âm, tĩnh cực th́ động trở lại. Một động, một tĩnh cùng làm gốc cho nhau, phân ra làm Âm, phân ra làm Dương . Thế là "Lưỡng-nghi" được lập rồi vậy.

Vấn đề Mây mưa sấm sét:

Trương Hoành Cừ giải-thích: "Âm tính là ngưng tụ, Dương tính là phát tán. Khi Âm tụ th́ Dương ắt phải tán, nhờ đó cái thế quân-b́nh mới thành. Khi Dương tán th́ làm luỵ đến Âm, hai khí giữ chặt nhau thành mưa, rơi xuống. Khí-Âm làm cho Khí-Dương đắc-khí, bấy giờ dương-khí sẽ bay bổng lên thành mây. Cho nên nói rằng mây ban bố rộng ra từ Thái-hư , đó là Âm-khí bị gió đuổi, thu-liễm, tụ lại chưa tán vậy. Phàm khi Âm-khí ngưng tụ, Dương khí bị bao vây ở giữa không ra được (là quẻ ☵),do đó phấn-kích mà nổ ra thành sấm sét (lôi-đ́nh). Khi Âm khí ngưng tụ, Dương khí ở bên ngoài không vào được, cho nên nó sẽ quay quanh Âm-khí không ngừng thành ra gió (quẻ ☴)"Khi Âm Dương hoà mà tán th́ sẽ thành sương tuyết, mưa móc. Khi Âm Dương bất hoà mà tán th́ sẽ thành khí độc tràn lan. Âm khí thường mà tán ra chậm sẽ giao hợp với Dương-khí và mưa gió sẽ điều hoà, nóng lạnh được chính." (Tham-lưỡng/Chính-mông).

CHÍNH KHÍ NƠI CON NGƯỜI

(112)- VĂN THIÊN TƯỜNG VỚI BÀI "CHÍNH KHÍ CA"

Con người một khi đă luyện được nhị khí âm dương hợp nhất rồi (tức là Tinh khí Thần hợp nhất hay "Tam-huê tụ đảnh") th́ đâu c̣n sợ ǵ bệnh tật đến với ḿnh nữa, âm dương hợp thành nhất khí chính là chiếc áo giáp che chở cho thân ḿnh chống lại với tà khí bên ngoài không thể nào xâm nhập vào ḿnh được. Đó mới thật là chính khí.

Văn Thiên-Tường khi bị nạn ngồi tù đă viết bài "Chính khí ca" để diễn tả con người bẩm thụ được chính-khí của Trời Đất, cho nên dù bị nhiều gian lao đầy khí độc mà ông vẫn không bị bệnh.

Bài Chính khí ca gồm có bài "tự" và bài "ca". Trong phạm vi của quyển sách này, tôi chỉ giới thiệu bài "Tự" và một đoạn đầu có liên-quan đến vấn đề chính khí, đến Âm Dương nơi con người mà thôi .

Bài "Tự của bài Chính-khí ca":

"Tôi bị bắt ngồi tù tại Yên-kinh. Tôi bị giam tại một nhà tù xây bằng đất . Chiều dài của pḥng giam chỉ có hơn 30 xích. Một cánh cửa duy nhất vừa thấp vừa nhỏ. Cửa sổ th́ vừa ngắn vừa hẹp. Pḥng giam vừa tối tăm vừa ẩm ướt . Khi mùa Hạ đến, các mùi hôi thúi tập trung vào pḥng giam nhỏ bé này. Nước mưa làm cho bàn ghế trôi"Đây là thuỷ khí. Bùn đất từ trên vách, dưới đất phần lớn bị ẩm ướt , nổi bọt lên mặt nước. Đây là thổ khí. Khí hậu đột nhiên thay đổi , trời tạnh, cơn nóng bức toả ra khắp nơi . Khí trong pḥng như bị bế tắc , bốn bề khí không thông được. Đây là nhật khí. Ngoài hiên nhà, bên dưới người ta dùng củi nấu cơm làm tăng thêm cho sức nóng của mặt Trời. Đây là hoả khí . Kho thực phẩm chứa đầy các thức ăn hôi thúi, theo gió từng cơn hôi nồng nặc làm cho mọi người ngộp thở. Đây là mễ khí. Người xếp sát người, vai sát vai, vừa bẩn vừa hôi mùi mồ hôi. Đây là nhân khí"

Nói tóm lại, các mùi hôi thúi kể trên làm cho mọi người khi ngửi phải không thể nào không bị bệnh.

Tôi, con người nhỏ bé, gầy c̣m, suốt ngày đêm nằm ngồi, ăn uống trong hoàn cảnh như thế đến nay đă được gần trót hai năm. May mà tôi không bị bệnh ǵ cả.

Nói chung, có lẽ tôi nhờ vào công phu tu dưỡng của bản thân. Thế nhưng chính tôi, tôi cũng không biết thế nào là tu-dưỡng . Mạnh-tử đă nói: "Ta khéo nuôi cái khí hạo-nhiên của ta. Những khí xấu, hôi gồm có gần 7 loại . Đem cái khí một loại của tôi để chống lại 7 loại khí độc hại kia , tôi c̣n sợ ǵ nữa ? Huống chi Khí hạo-nhiên là chính khí trong Trời Đất. V́ thế tôi viết ra bài "Chính-khí ca".

Trên đây là bài Tự của bài "Chính khí ca". Dưới đây tôi xin trích ra 6 câu đầu của bài ca này. Tôi nghĩ rằng trong phạm vi của quyển sách "Y-đạo", một số câu như vậy cũng đủ để làm tiêu biểu cho vấn đề gọi là "Chính khí" trong thân thể con người:

Thiên Địa hữu chính khí, 天 地 有 正 氣

Tạp nhiên phú lưu h́nh. 雜 然 賦 流 形

Hạ tắc vi hà nhạc, 下 則 為 河 嶽

Thượng tắc vi nhật tinh. 上 則 為 日 星

Ư nhân viết Hạo nhiên, 於 人 曰 浩 然

Bái hồ tắc thương minh 沛 乎 塞 蒼 冥

Dịch nghĩa:Trời Đất có chính-khí. Vạn-vật muôn màu, muôn vẻ thành h́nh là nhờ bẩm thụ được (khí) của Trời Đất. Ở dưới Đất th́ thành sông núi , ở trên Trời th́ thành mặt trời, các v́ sao. Ở người gọi là khí hạo nhiên. Như vậy, chính-khí đă tràn đầy một cách sung măn ( trên Trời, dưới Đất và trong con người).

Chú giải: Câu 2 " Tạp nhiên phú lưu h́nh: Chữ "tạp nhiên" ư nói vạn vật hiện hữu với muôn h́nh vạn trạng. Chữ "phú" có nghĩa là ban cho, bẩm thụ được. Chữ "lưu h́nh" ư nói vạn vật nhờ bẩm thụ khí mà hữu h́nh.

Câu 6 " Bái hồ tắc thương minh: Chữ "bái" chỉ trạng thái sung-măn của chính-khí ở khắp nơi. Chữ "thương" là chỉ Trời. Chữ "minh" chỉ đất. Chữ "tắc" là tràn đầy.(114)


HẠO NHIÊN CHI KHÍ
浩 然 之 氣

Cùng quan niệm của Kinh Dịch, Mạnh-tử cho rằng: "Tính, Khí" là cái mà con người bẩm thụ được của Trời, Đất, của "Đạo". Sự vận hành của "khí" là "tốt", là tự nhiên, không tốt xấu với riêng ai, cho nên con người trong phép dưỡng sinh , trong cuộc sống phải giữ ǵn, tuân thủ theo sự vận hành của Thiên Đạo mới được.

Về mặt luân lư, nó là cái ǵ làm cho "con người thành người", làm cho " con người khác với cầm thú".

Về mặt vận hành của khí hoá trong thân thể , nó là cái khí chu lưu trong thân thể không ngừng.

Thiên "Công-tôn Sửu"có ghi cuộc vấn-đáp giữa Mạnh-Tử và Công-tôn Sửu như sau:

Mạnh-tử nói: Chí khí chi soái dă. Khí thể chi sung dă (Ôi! Chí làm chủ-soái của khí. Khí th́ tràn đầy trong con người vậy).

Mạnh-tử nói tiếp: " Ta khéo dưỡng cái khí hạo nhiên của ta".

Công-tôn Sửu hỏi: Dám thưa thầy, khí hạo nhiên là ǵ?

Mạnh-tử đáp: " Khó diễn tả! Khí ấy là chí đại, chí cương. Nếu chúng ta biết nuôi nó một cách thuận lợi, đừng làm thương hại đến nó, nó sẽ tràn đầy trong khoảng Trời Đất".

Tuy nhiên theo Mạnh-tử, trong quá tŕnh nuôi dưỡng khí ấy trong con người chúng ta, chúng ta không thể nóng nảy , chúng ta phải điềm đạm, nhẫn nại, dừng bắt chước theo người nước Tống (1).

Mạnh-tử kết luận: "Hiện nay người trong thiên hạ dù làm việc ngoài đời hay trong khi "dưỡng khí", số người không giống với người nước Tống đă giúp cho lúa chóng lớn, thật là ít vậy".

Thiên "Tận tâm thượng" viết:

Vạn-vật bị ư ngă, phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên. (Vạn vật có đầy đủ trong ta, nếu ta quay về với ta để "Thành", không c̣n niềm vui nào hơn.

Ghi chú (1): Mạnh-tử kể: "Nước Tống có một người, ông này cứ măi lo lắng về lúa của ḿnh lâu lớn. Ông bèn đi ra ruộng để nhổ cho lúa được mọc lên cao hơn . Công việc xong rồi ông hăm hở chạy về nhà khoe với người nhà rằng: "Hôm nay ta mệt quá, v́ ta đă giúp cho lúa mau lớn.

Con ông nghe vậy, vội vàng chạy ra ruộng để xem, th́ ra lúa ở ruộng đă khô hết cả." ( Trích sách Dịch lư y lư của Huỳnh minh Đức ).

Đây là một quan niêm của Kinh Dịch: Nối tiếp giữa con người và Thiên Địa. "Vạn vật có đầy đủ trong ta" ư nói ta là "Tiểu vũ trụ". Nhân đạo từ thiên đạo mà ra. Do đó ta phải luôn luôn hành động cho đúng và cho được với cái Đạo tự nhiên ấy.

"Phản thân" là lời kêu gọi của Mạnh-tử để con người quay về với "nguyên khí" với cái "Đạo"道 để chúng ta hành động đúng với Đạo.

CHỮ "THÀNH"
Thái-cực là lẽ vi-diệu của bản nhiên. Động tĩnh là cơ cấu vận-hành của "Cơ". Thái-cực là đạo của H́nh-nhi thượng. Âm dương là khí (器) của h́nh-nhi-hạ. Nếu Đạo không có khí th́ Đạo sẽ không thành h́nh thể . Nếu khí mà không có Đạo th́ khí sẽ "bất lập": (không thể thành và tồn-tại được)" (Tŕnh tử nói rằng: Động tĩnh th́ "vô-đoan", tức là không có đầu mối. Âm Dương th́ "vô thỉ", tức là không có bắt đầu .Sách TLTY nói tiếp: " Thái-cực tùy theo Âm Dương mà thành động tĩnh . Âm Dương th́ dựa vào động tĩnh mà sự "sinh-hóa" sẽ hiện ra" Thử (nóng)đi th́ Hàn (lạnh) lại , nhật đi th́ nguyệt lại. Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng"Vạn cổ cũng theo lẽ thường đó mà thôi.")

Con người có được cái "ĐẠO" cũng chỉ là được cái thành (誠) . Thành chính là Thái-cực.( Trong Kinh có câu: "Đạo gốc bởi ḷng thành tín hiệp). Xưa nay chưa một vật nào, dù nhỏ bằng sợi lông mà thoát khỏi cái lư đó." (trong phần tượng số ở bức Hà-đồ, nơi giao-điểm của trục tung (Dương) và trục hoành (Âm) thuộc hành Thổ là hai con số 5 và 10 là tượng-trưng cho chữ "thành" vậy)

Sách Trung-dung nói: " Thành giả, Thiên chi đạo dă":(誠者天之道也) Thành là Đạo của Trời.

Thành chi giả, nhân chi Đạo dă: Thực hiện được (Đạo Trời) đó là Đạo của người.

Như vậy "Thành giả" chính là Thái-cực c̣n quá tŕnh thực-hiện đầy đủ Thái-cực nơi con người gọi là "thành chi giả".


CHƠN-THẦN (1)CỦA CON NGƯỜI
Con người có 3 thể : Tinh, khí, thần, khi nói đến khí là nói đến "chơn thần" tức là "Đệ nhị xác thân", v́ nó do khí "hậu-thiên" tạo thành thuộc bán hữu h́nh , có thể thấy được; người tôn-giáo Cao-Đài gọi tên là cái "Vía" hay phách v́ nó có sự rung động ( Vibration).

Các nhà nghiên cứu sinh học nhận thấy rằng : chung quanh cơ thể sống mỗi sinh vật đều có năng lượng điện. Năng lượng này có thể đo được bằng cách đặt 1 điện kế ở gần hoặc trên da. Cường độ năng lượng điện này thay đổi hàng giờ, hàng ngày (xem thêm phần 'Giờ Vượng Suy Của Các Kinh Lạc' trong chương 'Học Thuyết Kinh Lạc'). Thời gian mà 1 người cảm thấy khỏe mạnh hoặc nhọc mệt đều có thể đo được bằng cách đo năng lượng điện. (Đây là 1 phương cách chủ yếu trong việc áp dụng đo các Nguyên huyệt của các đường kinh).

Giải-thích (1):

Ngay từ năm 1940, Kirlian, trong khi chụp h́nh các sinh vật, đă t́nh cờ khám phá thấy năng lượng điện này và gọi nó là chất Plasma sinh học (c̣n gọi là hào quang).

. Kirlian đă chụp được ở chung quanh các sinh vật có 1 giải ánh sáng đỏ, xanh trắng và vàng. Những lá cây vừa bị bứt ra khỏi cành cũng có biểu hiện đó, nhưng để lâu th́ không c̣n. Lá của những cây khỏe mạnh th́ tỏa sáng, trong khi đó, lá của những cây bị bệnh biểu hiện bằng những màu sắc khác hẳn. Một hôm, 1 người khách nhờ Kirlian chụp h́nh 2 chiếc lá giống hệt nhau, Kirlian cố gắng chụp suốt cả đêm nhưng vẫn không làm sao 2 lá giống nhau được. Kirlian nghĩ rằng ông đă thất bại. Ngày hôm sau, khi đưa những tấm ảnh ông đă chụp và giải thích sự cố gắng vô vọng của ông cho người khách th́ người khách lại hết sức hài ḷng và giải thích rằng : sự khác nhau giữa 2 lá cây trên là do 1 chiếc lá được bứt ra ở 1 cây có bệnh và chiếc c̣n lại ở cây không bệnh. Tại Liên Xô, khi nghiên cứu các tấm ảnh chụp cơ thể con người, các nhà nghiên cứu tại đại học Kiep nhận thấy rằng có những chấm ánh sáng mạnh hơn ở 1 số cơ thể. Những bộ phận phát ra ánh sáng đều giống nhau ở mọi người. Khi đem so sánh các tấm ảnh với những huyệt của khoa châm cứu th́ thấy 700 huyệt của khoa châm cứu hoàn toàn trùng với những điểm có ánh sáng mạnh mà Kirlian đă chụp được.

Hiện nay có 1 cách chụp ảnh bằng cách đổi nhiệt ra các màu sắc khác nhau. Những bức ảnh nhiệt đó cũng thể hiện 1 thứ hào quang chung quanh cơ thể : những bộ phận "chết" như móng tay, tóc... thể hiện ra màu đen c̣n các màu khác hiện ra màu xanh lục, đỏ da cam... Nếu bộ phận nào của cơ thể bị bệnh th́ màu sắc thay đổi, căn cứ vào sự thay đổi màu sắc, có thể phần nào biết được t́nh trạng của sự rối loạn cơ thể.

Ngoài những biểu hiện về nhiệt lượng, màu sắc, ngày nay, các nhà nghiên cứu c̣n t́m thấy nhiều sự thay đổi khác như thay đổi điện trở (Điện trở vùng huyệt bệnh xuống thấp hơn vùng khác) thay đổi trạng thái (trở nên mềm, hoặc cứng hoặc đau đớn hơn chỗ khác), hoặc xuất hiện 1 số dấu hiệu riêng biệt (tàn nhang, mụn ruồi, vết ban...) những dấu hiệu báo bệnh này đang được các nhà nghiên cứu chú ư đến và trong 1 ngày gần đây cơ chế của những lư thuyết này sẽ được loan báo 1 cách rơ ràng và hoàn hảo hơn.

Tuy nhiên, cho đến nay, những nhà nghiên cứu chỉ mới có thể cho biết rằng : các vùng ánh sáng thể hiện trong cơ thể chính là những bộ phận trong con người chúng ta biết được những thay đổi, thí dụ : thay đổi về điện trong không khí, về từ trường của trái đất, về sự xáo trộn của các bộ phận, cơ quan tương ứng vùng phát điện...

Những thay đổi này nhiều khi quá nhỏ bé đến nỗi ta không cảm nhận hết tất cả những thay đổi đó, mà chỉ cảm nhận được 1 phần nào thôi. Thế nhưng, nếu ta rèn luyện và nắm được 1 số những nguyên tắc kỹ thuật, ta có thể nhận được những thông tin đó, có thể biết và cũng có thể diễn đạt được.


THỜI BIẾN HÓA
Kinh Dịch là quyển sách giải thích và chứng minh rằng vạn vật hữu h́nh đều do khí âm dương giao hợp nhau mà thành. Vạn vật hữu h́nh không dừng lại ở một giai đoạn nào, dù đó là núi sông, cây cỏ, thú vật hay con người. Nói khác đi, vạn vật đều có sự "sống" mà nói đến sống là nói đến biến hóa, biến hóa trong một chu kỳ không đầu mối tùy theo khí và h́nh mà nó bẩm thụ được:( Sinh sinh chi vị Dịch 生生之謂易: Nguồn sống liên tục là ư nghĩa của Dịch.

Âm Dương giao nhau gọi là giao dịch. Giao dịch không phải là biến-đổi một cách tùy-tiện, đột-ngột. Hết mùa Đông rồi mới đến Xuân, đóa hoa tàn sẽ biến thành trái.

Khổng Tử khi nh́n nước chảy nói: "Thệ giả như tư phù! Bất xả trú dạ" (Trôi măi thế này ư! Ngày đêm không ngừng).

Mùa đông cực hàn, đông chí th́ nhất dương sinh, nhất dương sinh sẽ không dừng lại mà tiếp tục biến. Mỗi giai-đoạn biến đều phải đúng với "Thời", thời mà được "Trung" nữa th́ sẽ được "Hóa". (Chữ Trung ở đây là ư nghĩa của chữ TÍN ).Trung là cái lư để cho một vật giữ được sự hiện diện của ḿnh qua nhiều lần giao dịch.

SáchTrung-dungviết:君子之中庸君子而時中(Quân tử chi trung dung, quân tử nhi trời trung): Đạo trung-dung của người quân-tử, đó là người quân-tử hành-động "trung" theo đúng với "thời". Đó là đúng với đức "trinh" vậy.

=Trung + thời = Trinh

動靜有常剛柔斷矣 (Động tĩnh hữu thường, cương nhu đoán hỹ)= Lẽ động và tĩnh có theo đúng lẽ thường th́ khí cương nhu mới định được.

Chữ 常 "thường" này chính là chữ "thường đạo" mà Lăo-tử đă nói. Thường không phải là chỉ vào một vật "ở" trong t́nh trạng măi măi như nó đang hiện-hữu. Thường có nghĩa là một vật nào đó đang "biến và hóa" theo đúng như thời mà bản thân nó đang "có".

Thiên-khí tùy thời mà có "b́nh-khí", có "thái-quá", có "bất cập", đó là khí tùy thời mà hóa, trong hóa có thường có biến.

Thiên " thuận khí nhất nhật phân vi tứ thời"(Linh-khu 44) có ghi một đoạn đối thoại:

Hoàng Đế hỏi: "Ta mong được nghe nói về khí của tứ thời (bốn mũa).

Kỳ Bá đáp: "Mùa xuân th́ sinh, mùa hạ th́ trưởng, mùa thu th́ thâu, mùa đông th́ tàng. Đây là lẽ thường của khí. Con người phải ứng theo".

Mỗi năm, tiết xuân-phân th́ khí trời ấm áp, đông-chí th́ khí trời lạnh-lẽo.

Ví-dụ: Mỗi năm theo chủ vận th́ từ tiết Đại-hàn đến tiết Xuân-phân là sơ-khí "Quyết-âm Phong Mộc. Nếu khí-vận và thời cùng đến đúng lúc nhau th́ gọi là chính-hóa, trái lại đến sớm hơn hay muộn hơn th́ gọi là tà-hóa (đối-hóa).

Chính là thường, là trinh. Cương nhu làm tṛn được nhiệm-vụ của nó. Trái lại là thất thường.

Trinh là bền. Con đường biến-hóa chính là con đường của Âm Dương Thiên Địa giao nhau, của cương nhu xô đẩy nhau. Đó là Thiên Đạo, nhân Đạo cũng thế.. Thiên Đạo có thường th́ Nhân Đạo cũng có thường .Đó là ư nghĩa của Trung-dung.

TÍNH THIỆN: Tính là ǵ? Thế nào là thiện.?

Chương V Hệ-từ thượng truyện viết: Nhất Âm, nhất Dương chi vị Đạo, kế chi giả, thiện dă. Thành chi giả, tính dă. = ( Sự vận-hành giao cảm giữa)1 Âm, 1 Dương, gọi là Đạo ( là ư-nghĩa của Đạo).( Thiên Địa giao-cảm hoặc con người hành-động làm sao để) kế-tục được theo cái lẽ của (Đạo) gọi là thiện. Khi nào thực hiện (hoặc hoàn thành) cái đạo ấy nơi người (hay vật) gọi là Tính.

Câu nói trên có vài ư cần được nói rơ thêm.

Đạo là con đường vận-hành, biến-hóa từ khí vô-cực, đến Thái-cực, đến Lưỡng-nghi"đến vạn-vật hữu h́nh . Đạo tự nó có quy-luật biến-hóa của nó . Thiên-đạo biến-hóa có b́nh khí, có thái-quá, có bất-cập, tất cả đều biểu-hiện bằng một Âm và một Dương .Con người sống trong sự giao-biến của Thiên Địa, phải ứng theo đúng với Thiên Đạo, đó gọi là thiện. Rơ-ràng thiện ở đây không phải là tính thương người, hay làm lành lánh dữ một cách chung chung . Vận-hành đúng nhịp với Thiên Đạo để thực-hiện Thiên Đạo nơi mỗi vật trong đó con người là quan-trọng nhất, đó gọi là "Tính".

Đạo của Thiên làm mẫu mực cho Đạo của người. Mỗi giai-đoạn biến-hóa đúng với thời gọi là "thiện, là bất dịch, là trung trinh, là thường."

Đạo là một, nhưng biểu-hiện khác nhau, đó là hóa, là biến, nhưng đi tới cùng nó là một : Vô-cực và Thái cực. Thiên-khí có thường, có bất thường, con người trong cuộc sống phải biết để ứng theo, đó là ư-nghĩa của bất dịch, Trung-dung.

Ngay ở phần mở đầu, sách Trung-dung viết:

Thiên mệnh chi vị Tính, 天命之謂性

Suất tính chi vị Đạo, 率 性之謂道

Tu Đạo chi vị giáo. 修之謂教道

= (Cái mà ta) bẩm thụ được ở Trời (Trời cho) gọi là "tính". Hành-động thuận theo đúng với tính gọi là (nhân) Đạo. Sửa đổi cái Đạo ấy (để ứng với Thiên Đạo) gọi là "giáo".

Con người bẩm-thụ được Thiên Địa khí để thành h́nh với ngũ tạng lục phủ, khí huyết"phải luôn luôn ứng với sự thay đổi của Thiên Đạo với từng thời, ta phải "linh: nhanh-nhẹn" để xoay trở với thái-quá, với bất cập. Bởi v́ khí của Thiên Địa sinh ra con người nhưng nếu con người sống nghịch lại với Thiên Đạo tức là không "giáo", không "suất tính" th́ chúng ta sẽ bị "bệnh" và "chết"..

Khi nói là "thiên mệnh chi", tức là nói, "Trời đă ban cho", tức là nói chúng ta "bẩm-thụ khí Âm Dương". Âm Dương của Trời Đất có tiêu trưởng th́ Âm Dương nơi người chúng ta cũng có tiêu trưởng theo đúng từng nhịp thay đổi đó. Theo đúng đồng nhịp gọi là thiện .

Thiên "Tạng phủ kinh lạc tiên hậu bệnh" (kim quỹ yếu lược) viết: "Ôi! Con người bẩm-thụ khí "五常 ngũ thường" do ở phong-khí mà có sinh trưởng . Phong-khí tuy có thể sinh ra vạn vật, mà nó cũng có thể hại vạn vật, ví như nước có thể làm nổi cho chiếc thuyền và cũng có thể làm lật úp chiếc thuyền. Nếu ngũ tạng được ḥa, khí nguyên và chân được thông sướng th́ con người sẽ được an ḥa""

Ngũ thường đây chính là ngũ khí, ngũ hành, ngũ tạng trong con người, tất cả đều vận-hành đồng nhịp với Thiên Địa. Phong ở đây là khí giao-cảm giữa Thiên Địa, Âm Dương để con người thành người. Quá tŕnh này là quá-tŕnh "Thiên mệnh chi vị tính" của sách Trung-dung đă nói.



BỆNH BIẾN THEO TỨ THỜI
Chúng ta nhắc lại chương I Hệ-từ hạ truyện:

"Thiên hạ chi động trinh phù Nhất dă. (Cái động trong thiên hạ được trinh bền chính là ở cái nhất vậy.

Nhất ở đây là Thái-nhất, là Thường đạo, là bất-dịch, trung trinh..

Chương này viết tiếp: "Cương nhu giả, lập bản giả dă. Biến thông giả,, thú thời giả dă" = Cương và nhu là để lập nên cái"gốc". Biến và thông là để theo đúng với thời vậy.

Đạo vận-hành theo lẽ bất dịch, lẽ thường, cho nên mọi hành-động của con người không lúc nào được đi xa, đi sai với Đạo.

Sách Trung-dung (thiên I) viết: "Đạo giả bất khả tu du ly dă, khả ly phi Đạo dă."= Đối với Đạo con người không thể xa rời dù trong thoáng chốc . Nếu đă xa rời th́ hành động ấy không hợp với Đạo.

Sách Trung-dung (xuất-hiện trước Nội-kinh) luôn luôn nhắc-nhở con người trong hành-động thuộc luân-lư hay y-học trong cuộc sống hàng ngày phải cẩn-thận từng giây phút. Con người không thể sống nghịch lại với Đạo (thường).

Thiên "Tạng-phủ kinh-lạc tiên hậu bệnh" (Kim-quỹ yếu lược) đă cho rằng khi tà khí trúng vào người, thường gây ra việc chết-chóc, không ngoài 3 lư do mà trong đó có hai lư do chính bởi con người không sống thuận với thiên-nhiên:

+ Kinh lạc thọ tà-khí, nhập vào tạng phủ, đó là nguyên nhân bên trong gây nên .

+ Tứ chi, cửu khiếu là nơi để huyết mạch truyền nhau. Khi nó bị ủng-tắc bất-thông, đó là trúng vào phần bên ngoài b́ phu"

Như vậy dù cho là tà-khí bên ngoài vào để gây ra bệnh th́ nguyên nhân một phần cũng do nội tạng chúng ta sống không hợp với khí của Đạo.

Khí của nội tạng "ứng" được với Thiên khí th́ con người an-ḥa, ngược lại nếu không c̣n ứng th́ bệnh.


BỆNH CÓ LÚC NẶNG LÚC NHẸ
Thiên"Thuận khí nhất nhật phân vi tứ thời" (Linh-khu 44) thuật lại lời Hoàng-Đế hỏi Kỳ-Bá: "theo ông th́ trong trăm bệnh, phần lớn là "đán huệ, trú an, tịch gia, dạ thậm: sáng khỏe, trưa an, chiều thêm, đêm nặng", nhưng cũng có những trường-hợp xăy ra một cách ngược lại. Tại sao như vậy?

Theo Kỳ Bá th́ mỗi nhật chia làm bốn thời: buổi sáng (triêu) thuộc mùa xuân; buổi trưa (trú) thuộc mùa hạ buổi chiều (nhật nhập) thuộc mùa thu; ban đêm (dạ) thuộc mùa đông.

Buổi sáng là lúc khí của con người mới sinh ra c̣n bệnh-khí đang suy, cho nên "đán huệ".

Buổi trưa (nhật trung) là lúc khí của con người trưởng, mà trưởng th́ thắng tà, v́ thế được "an".

Buổi chiều, khí của con người bắt đầu suy, tà khí bắt đầu sinh, v́ thế phải "gia" (nặng thêm).

Buổi tối, khí của con người nhập vào trong để giấu kín, tà-khí ở một ḿnh ở thân-thể , v́ thế nên bị "thậm" (nặng hơn).

Kỳ Bá cũng nói rằng khi nào tạng khí không thể thắng được thời th́ bệnh nặng, khi nào thắng được thời th́ bệnh khỏi.

Mă Nguyên-Đài đă dẫn giải thêm: "Hoàng Đế cũng thấy rằng có những trường-hợp mà sáng và trưa th́ bệnh hoặc gia hoặc thậm, trái lại có khi huệ có khi an. V́ thế Kỳ Bá nói rằng đây là tạng-khí một ḿnh làm chủ bệnh, mà không ứng được với tứ thời trong một nhật.

Ví-dụ: Tỳ bệnh không thắng được mộc-khí của buổi sáng; Phế bệnh không thắng được Hỏa-khí của buổi trưa; Can bệnh không thắng được Kim-khí của buổi chiều, Tâm bệnh không thắng được Thủy-khí của buổi tối, v́ thế bệnh gia và thậm.

Nếu như tạng-khí của con người thắng được khí của thời như: Phế thắng được Mộc-khí của buổi sáng ; Thận-khí thắng được Hỏa khí của buổi trưa; Tâm-khí thắng được kim-khí của buổi chiều ; Tỳ-khí thắng được Thủy-khí của buổi tối, v́ thế trú huệ, đán an.

Trong phép trị cũng vậy, phải thuận với thời. Ví-dụ: Tỳ bệnh không thắng được mộc-khí của buổi sáng, phép trị phải bổ Tỳ mà tả Can; Phế bệnh không thắng được Hỏa-khí của buổi trưa, nên bổ Phế mà tả Tâm; Can bệnh không thắng được Kim-khí của buổi chiều , nên bổ Can mà tả Phế; Tâm bệnh không thắng được Thủy-khí của buổi tối, nên tả Tâm bổ Thận""

Thiên "Tứ khí điều thần luận" (Tố vấn 2) đă nhấn mạnh: ""bốn mùa trong trời đất không c̣n giữ được điều-ḥa sẽ làm thất đi cái Đạo. Như vậy cuộc sống chưa được nửa đường đă bị tuyệt-diệt. Duy chỉ có bậc Thánh-nhân là theo đúng với Thiên Đạo, v́ thế họ giữ được thân ḿnh không bị bệnh lạ, vạn vật sẽ không mất đi lẽ sống, sinh-khí không bị kiệt."

Sống gần với Đạo cũng có nghĩa là biết trước tất cả những sự thay đổi của tứ thời để dự-trù khi chưa bị bệnh . Thiên này nói tiếp: " Cho nên, bậc Thánh-nhân không "trị: (để ư, nghiên-cứu") cái đă bệnh mà lo "trị" cái chưa bệnh, không trị cái đă loạn mà lo trị cái chưa loạn".Ôi! Đợi khi bệnh đă thành rồi mới dùng thuốc, đợi khi loạn đă thành rồi mới trị loạn, cũng ví như đợi khát nước rồi mới đào giếng, đợi lúc đánh nhau rồi mới đúc binh-khí. Như vậy, cũng chẳng muộn lắm ư?"



PH̉NG BỆNH
Chương I sách Trung-dung viết tiếp:

"Thị cố quân-tử giới thận hồ kỳ sở bất đổ, khủng cụ hồ kỳ sở bất văn, mạc hiện hồ ẩn, mạc hiện hồ vi, cố quân-tử thận kỳ độc. = Cho nên, người quân-tử phải cẩn-thận ngay ở những lúc chưa thấy, lo sợ ngay những lúc chưa nghe , bởi v́ không có cái ǵ hiện rơ nhất bằng lúc nó c̣n ẩn? Không có cái ǵ rực-rỡ ra bằng lúc nó c̣n rất nhỏ. Cho nên, người quân-tử phải cẩn-thận ngay khi hành-động riêng ḿnh.

"Thận kỳ độc" tức là thái-độ phản tỉnh, biết rơ về ḿnh, cẩn-thận với chính ḿnh.

Thiên "Sinh-khí thông-thiên luận" (Tố-vấn 3) viết: "Cho nên, bậc Thánh-nhân sống thuận với Âm Dương, nhờ vậy mà cân và mạch được ḥa-đồng, cốt-tủy được vững chắc, khí và huyết vận-hành theo đúng chiều của ḿnh. Được vậy th́ bên trong và bên ngoài được điều-ḥa, tà-khí không làm hại được ta, tai mắt ta được thông-minh, chân-khí của ta đứng vững theo lẽ thường của nó"Nếu Âm được b́nh, Dương dược bí (kín, vững) th́ tinh-thần mới được chính-thường. Khi nào Âm Dương phân ly th́ tinh-khí mới tuyệt."


CÓ MẤY THỨ BỆNH

BỆNH ÔN
Thiên này nhấn mạnh: "Mùa đông bị thương bởi hàn th́ mùa xuân ắt bị bệnh ôn."

Theo Nội-kinh, mùa đông lạnh giá vạn vật phải ẩn tàng nơi kín đáo mà ta lại không biết giữ-ǵn phép dưỡng-sinh , hoặc lao lực quá độ, hoặc ăn chơi phóng-túng làm thương đến nguyên-Âm và nguyên Dương , sự bế-tàng bị lỏng-lẻo : nội hư và ngoại cũng hư , vệ-khí không c̣n bảo-vệ được bên ngoài , tà-khí của mùa xuân sẽ tấn-công vào b́-phu, cơ-nhục, tấu-lư đến cốt tủy, rồi ở lại nơi mảnh đất của Thiếu-âm Thận, lâu ngày hóa thành nhiệt. Mùa xuân đến, Dương-khí sinh ra và lớn lên, nội ngoại nhiệt sẽ gặp nhau gây nên bệnh"ôn".

Sách Thương hàn luận nói về chứng bệnh này rất rơ

TRUNG H̉A.
Sách Trung-dung chương trên viết tiếp:

"Hỉ nộ ai lạc lúc chưa phát ra gọi là Trung; phát ra mà đều trúng tiết gọi là Ḥa. Trung là cái gốc lớn trong thiên-hạ; Ḥa là con đường đạt đạo trong thiên-hạ. Đạt được đến mức Trung và Ḥa th́ thiên địa sẽ vận-hành đúng ngôi vị của ḿnh và vạn vật sẽ được sinh hóa đúng như (cái tính) của nó."

Câu nói trên đă diễn-tả rơ thêm cái lẽ biến-hóa từ gốc đến ngọn.

Nếu Trung là cái gốc lớn, cái dị giản, cái nguyên-khí, từ đó vạn vật bẩm-thụ để sinh sinh, hóa hóa th́ sự biểu-lộ (phát ra) của nó là t́nh. T̀NH được ḥa có nghĩa là tính đă phát (trúng tiết).

Trúng tiết là TRUNG, là đúng thời, có như vậy mới "trinh: bền".


TRUNG + THỜI + TRINH "" H̉A

Ḥa có nghĩa là sự hài- ḥa của 2 khí Dương Âm vận-hành theo đúng với Đạo. Có trúng tiết th́ mới Ḥa. Ḥa bao trùm vũ-trụ là thái-ḥa.(XEM PHẦN VẬN KHÍ)

Thoán-từ truyện quẻ Kiền viết:

"Kiền Đạo biến-hóa, các chính tính mệnh, bảo hợp Thái ḥa , năi lợi, trinh . = Đạo của Kiền biến-hóa là nhằm chính lại cái tính mệnh, bảo hợp được lẽ Thái-ḥa, được vậy sẽ lợi trinh .

Ngay trong nội tạng của con người, mạch-khí nếu không giữ được b́nh, tức là đă xa với lẽ thường .

Thiên "Căn kết" (Linh-khu 6) viết:

"Một ngày một đêm (mạch đi) 50 "doanh" (ṿng) nhằm "doanh: cung ứng" tinh khí đến cho ngũ tạng. Nếu có t́nh-trạng (sự cung-ứng này) không ứng đúng với con số đă định th́ gọi là "cuồng sinh"."

Khi nói rằng mạch hành "ngũ thập doanh" tức là nói rằng ngũ tạng đều được thọ khí . Chúng ta chỉ cần nắm được mạch-khẩu để đếm "số chí" tức là mạch đến 50 động mà không có một lần "代 đại", đó là ngũ tạng đều được thọ khí . Mạch đến 40 động th́ có một lần "đại", đó là có một tạng "không được thọ khí ". Mạch đến 30 động th́ có một lần đại, đó là có 2 tạng không thọ được khí. Mạch đến 20 động th́ có một lần đại, đó là có 3 tạng không thọ được khí . Mạch đến 10 động th́ có một lần đại, đó là 4 tạng không thọ được khí . Chưa đầy 10 động th́ đă có một đại, đó là cả 5 tạng không thọ được khí. Như vậy là sắp tới thời-kỳ chết rồi.". Khi ta nói rằng mạch đến 50 động mà không có một lần "đại", ta xem đó là thường. Chúng ta sở-dĩ biết được ngũ tạng đang "sống" hay đang gần tới chỗ "chết", là nhờ vào mạch động khi đến một cách "thường" hay "biến", thất thương."

Theo Trương Cảnh-Nhạc th́ "doanh" có nghĩa là vận-hành. Kinh mạch của con người vận-hành trong thân-thể cứ một nhật một dạ gồm 50 chu nhằm vận-hành tinh-khí đến cho ngũ tạng.

Điều 11 Nan viết: "Kinh nói rằng: Mạch chưa đầy 50 động mà đă một lần "chỉ:止", đó là một tạng không thọ được khí , đó là tạng nào?

Thật vậy:Con người "hấp: hít vào" khí vào trong theo đường Âm, "hô: thở ra" khí theo đường Dương đi ra. Nay con người "hít vào" mà khí không xuống được đến Thận, chỉ đến Can rồi trở ra . Do đó ta biết được rằng có một tạng không thọ được khí. Đó là Thận-khí bị "tận" trước nhất ."

Theo sách "Đồ chú Nan kinh mạch quyết" th́ động có nghĩa là "至 chí". 50 động hợp với số đại diễn của Kinh Dịch"hô và hấp định tức mạch đi theo ngũ động: 1 đến Phế, 2 đến Tâm, 3 đến Tỳ, 4 đến Can, 5 đến Thận. Như vậy, con người một tức ngũ động, khí đi khắp ngũ tạng.

Theo Trương Cảnh-Nhạc th́ chữ "代 đại" có nghĩa là có sự thay-đổi nào đó, ư nói trong lúc mạch đang b́nh đột-nhiên thấy yếu đi, hoặc lúc nhặt, lúc thưa hoăc lúc đứt đoạn., lúc liên-tục. Đó là có một tạng nào đó đang bị tổn, cho nên khí bị hụt và biến ra như thế"

Như vậy, mạch-khí thọ khí cũng phải ứng với khí của Thiên Địa. Khi nói rằng Thận-khí bị tuyệt hay Tỳ khí bi tuyệt có nghĩa là ngũ tạng khí đang trong t́nh-trạng tách rời với Đạo tức là với Thiên Địa.

Thoán-từ truyện quẻ Tiết viết:

"Thiên Địa có "tiết" th́ tứ thời mới thành.

"Tứ thời thành là chứng-minh rơ-ràng nhất của trung và ḥa của "vạn vật dục yên" của lẽ "thường" ở Thiên Đạo.

Thế nào là hành-động trúng tiết?

Thiên 20 sách Trung-dung viết:

Thành giả Thiên chi Đạo dă , thành chi giả Nhân chi Đạo dă. = Thành là Đạo của Trời, "thực-hiện" được Đạo Trời là đạo của người.

Hành-động đúng với Thường Đạo gọi là thành "chi", là làm trúng tiết.

Kinh Dịch viết ra là để nhắc-nhở cho con người phải hành-động cho "trúng tiết", tức là thực-hiện cái quá-tŕnh "thành chi" ấy.

Quá-tŕnh thực-hiện này được đánh dấu qua những chặng đường :

Cát """"..Hung

Hối"""""Lận

Lợi"""""hại

Đắc"""""thất"


T̀NH CHÂN VÀ T̀NH NGỤY.
Chương 12 Hệ-từ hạ truyện viết:

" T́nh ngụy tương cảm nhi lợi hại sinh. Phàm Dịch chi t́nh cận nhi bất tương đắc tắc hung hoặc hại chi hối thả lận. = Cái t́nh chân và ngụy cùng cảm nhau sẽ sinh ra lợi hoặc hại. Phàm cái t́nh mà Kinh Dịch muốn diễn tả, đó là, nếu có gần nhau mà không tương đắc với nhau th́ sẽ đưa đến kết-quả hung hoặc hại đến mức phải hối và lận.

Như vậy: Tính phát ra trúng tiết T́nh. Tính phát ra không trúng tiết ""..ngụy.

Hành-động của con người quan-trọng trong quá-tŕnh phát ra cái tính. Hành động th́ muôn h́nh vạn trạng, nhưng trong đó có một cái ǵ làm thăng bằng gọi là trung và trinh . Có trung trinh mới có ḥa. Có ḥa mới gọi là đạt được nhân đạo. Đạt được nhân Đạo tức là đă biến-hóa đúng theo Thiên Đạo.

Chương 12 Hệ-từ thượng viết: "Thiết quái dĩ tận t́nh ngụy". Kinh Dịch lập ra quái là để diễn-tả hết cái lẽ gọi là t́nh và ngụy.

Tất cả chỉ làm một nổ-lực: Giữ được lẽ thường.

Phùng Hữu-Lan nói: "Động trung kiến thường = Trong cái động hiện ra được lẽ thường ."(Tân nguyên đạo.)

Tóm lại, lẽ biến-hóa theo "bất dịch, trung trinh" có nghĩa là Thiên Địa và con người luôn luôn vận-hành theo đúng lẽ "thường" của nó. Con người không thể không biết đến sự ứng-hợp giữa con người và lẽ "biến và thường" của Trời Đất.

Tuy nhiên, trong vũ-trụ cũng như trong con người sự biến-hóa lại phải tùy thuộc vào Âm và Dương, tức là khi Âm Dương hữu h́nh th́ nó biến-hóa theo động tĩnh khác nhau. Riêng về con người, ít ra chúng ta cũng phải biết rằng biến hóa theo "bât dịch"hay là "thường", có nghĩa là phải không xa rời với Đạo , ngay cả trong lúc thời-khí biến-động "thất thường".


TỪ NGOẠI CẢM ĐẾN NỘI THƯƠNG

NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH
Thiên "Tạng-phủ kinh-lạc tiên hậu bệnh" (Kim-quỹ yếu lược) đă cho rằng khi tà khí trúng vào người, thường gây ra việc chết-chóc, không ngoài 3 lư do mà trong đó có hai lư do chính bởi con người không sống thuận với thiên-nhiên:

+ Kinh lạc thọ tà-khí, nhập vào tạng phủ, đó là nguyên nhân bên trong gây nên .

+ Tứ chi, cửu khiếu là nơi để huyết mạch truyền nhau. Khi nó bị ủng-tắc bất-thông, đó là trúng vào phần bên ngoài b́ phu"

Như vậy dù cho là tà-khí bên ngoài vào để gây ra bệnh th́ nguyên nhân một phần cũng do nội tạng chúng ta sống không hợp với khí của Đạo.

(Khí của nội tạng "ứng" được với Thiên khí th́ con người an-ḥa, ngược lại nếu không c̣n ứng th́ bệnh.


BỆNH NGOẠI CẢM
Sách Tố vấn có những thiên mô-tả con đường tà-khí xâm-nhập vào b́ phu, kinh lạc, tạng phủ để gây bệnh. Một trong những biểu-hiện của bệnh là do màu sắc của bệnh hiện ra nơi kinh-mạch hoặc lạc mạch một cách "thường" và "thất thường". Người thầy thuốc phải nắm rơ điều này.

Thiên "B́ bộ luận" (Tố vấn 56) viết: "Cho nên trăm bệnh bắt đầu sinh ra , ắt trước hết là ở b́ mao. Khi tà khí trúng vào người th́ sẽ làm cho tấu-lư khai, tấu-lư khai th́ (tà khí) nhập vào trong ở khách nơi lạc-mạch. Nếu nó (lưu lại) mà không bị đuổi ra nó sẽ truyền nhập vào kinh. Nếu nó lưu lại mà không (bị đuổi) ra nó sẽ truyền nhập vào phủ, chất-chứa nơi Trường vị.

Lúc tà-khí vừa mới nhập vào b́ mao nó sẽ làm cho ớn vùng da và lông bị dựng lên, làm khai tấu-lư. Khi nó nhập vào đến lạc th́ sẽ làm cho lạc mạch bị thịnh, sắc bị biến . Khi nó nhập vào đến kinh để ở-khách nơi này nó sẽ làm cho mạch bị cảm hư và hăm xuống. Khi nó lưu lại ở trong khoảng cân và cốt, nếu hàn đa th́ cân bị vặn, cốt bị thống, nếu nhiệt đa th́ cân bị buông lơi, cốt bị tiêu khô, nhục bị đốt nóng mềm lỡ , lông bị đứng thẳng cô bại""

Đoạn này cho ta thấy khi tà-khí vào đến vùng "lạc" sẽ có hiện-tượng biến thành các màu thanh hoàng xích hắc bạch"Sự biến sắc này lại phân thành Âm Dương .

BỆNH Ở KINH LẠC

Thiên "kinh-lạc luận" (Tố vấn 57) nói tiếp:

Hoàng Đế hỏi: "Lạc-mạch khi hiện ra ngũ sắc của nó đều có những điểm khác nhau như thanh, hoàng, xích, bạch, hắc. Nguyên-nhân nào khiến như vậy?"

Kỳ Bá đáp: "Kinh th́ có "thường (常) sắc", c̣n diện lạc th́ không có "thường biến"."

Hoàng Đế hỏi: "Thế nào là thường sắc của kinh?"

Kỳ Bá đáp: "Tâm th́ màu xích, Phế th́ màu bạch, Can th́ màu thanh, Tỳ th́ màu hoàng, Thận th́ màu hắc, tất cả đều ứng với màu sắc của kinh mạch ."

Hoàng Đế hỏi: "Âm Dương của lạc đều ứng với kinh của nó không?"

Kỳ Bá đáp: "Sắc của Âm lạc th́ ứng với kinh, sắc của Dương lạc th́ biến "vô thường". Nó tùy theo tứ thời mà vận-hành vậy."

TCThông chú: "Đây nói về kinh mạch ứng với ngũ tạng biểu-hiện ra bằng "thường sắc" như thanh hắc hoàng bạch xích"Âm-lạc ứng với kinh-mạch để biến thành ngũ sắc , nhưng Dương lạc phải tùy theo lẽ biến của tứ thời để thành ngũ sắc. Âm-lạc là nói về lạc của các Âm-kinh ứng với kinh của ngũ tạng, nó có các "thường sắc" mà không biến. Riêng Dương-lạc là những lạc thuộc Dương-kinh, nó hợp với Dương-khí của lục phủ tùy theo tứ thời mà: Xuân thanh, hạ xích, thu bạch, đông hắc, tất cả đều biến-dịch theo tứ thời . Đó cũng là "thường sắc" của tứ thời ngũ hành.

Được xem là vô bệnh, nếu trong 4 mùa lạc của ngũ tạng hiện lên màu thanh hắc thuộc hàn, hiện lên màu hoàng xích thuộc nhiệt."

Vương Phương-Hầu chú: "Dương thuộc Thiên-khí, chủ ngoại, Âm thuộc Địa-khí chủ nội . Lục phủ thuộc Dương bên ngoài ứng với khí của tam Dương . Ngũ tạng thuộc Âm bên trong hợp với ngũ hành của Địa. V́ thế Dương lạc tùy theo tứ thời của Thiên mà sắc của nó biến một cách "vô thường", trong lúc đó bên trong nó thông với ngũ tạng, ngũ tạng ứng với ngũ hành bên trong c̣n bên ngoài hợp với tam Dương . Thế là tạng phủ Âm Dương lại hổ tương giao-hợp nhau."

Như vậy, chúng ta thấy chữ "thường" ở đây phải hiểu một cách thật uyển-chuyển . Âm Dương th́ biểu-hiện ra bằng ngũ hành của tứ thời và mạch-khí th́ Âm luôn luôn biến-hóa thích-ứng với màu sắc của ngũ tạng ra lạc-mạch mà không lệ-thuộc vào tứ thời. Trong lúc đó, Dương lạc th́ biến-hóa thuận theo tứ thời. V́ thế, nói cho cùng, lẽ biến-hóa vẫn "thuận" chứ không "nghịch", không xa rời với Đạo tức là với Âm Dương.

Thiên Địa biến-hóa có b́nh-khí, có thái-quá, có bất-cập, vai-tṛ của con người là phải thông được thiên văn, phải đạt được địa-lư , phải quán được với nhân-sự để sống một cách hài-ḥa , giữ được lẽ trung-ḥa , đó mới là ư-nghĩa của "bất dịch trung trinh".

Thiên "Khí giao biến luận" (Tố vấn 69) nhấn mạnh: "Phù! Đạo giả, thượng tri thiên văn, hạ tri địa-lư, trung tri nhân sự, khả dĩ thường cửu. = Ôi! Đạo có nghĩa là trên biết thiên-văn, dưới biết địa-lư, giữa biết nhân-sự. Đó gọi là ( đạt đến lẽ) thường cửu.

"Thường cửu" ở đây chính là ư-nghĩa của lẽ biến-hóa theo "bất-dịch, trung trinh", theo lẽ "thường".

Chúng ta có thể đọc tiếp các thiên tố vấn từ 66, 67, đến 71 để nắm bắt lẽ biến-hóa nói trên.
 
Reply with a quote
Replied by KHANG TƯỜNG (Hội Viên)
on 2014-06-27 11:26:09.0
c) -BIẾN HÓA (變化) THEO BIẾN DỊCH (185)

là phần nói về biến hóa trong các quẻ dịch

Chữ "biến-dịch" ở đây ư nói sự biến-hóa của vũ-trụ là bao trùm vạn vật. 64 quái và 384 hào tượng-trưng cho lẽ biến-hóa phổ-biến, bao-quát hết các nguyên-lư biến-hóa của vạn vật.

Chương 6 Hệ-từ hạ truyện viết: "Sách Dịch cho chúng ta biết rằng chúng ta không thể rời xa với Đạo. Đạo thường thay đổi, biến-động chứ không ở yên một chỗ, chu-lưu khắp cơi lục hư, lên xuống vô thường, cương nhu cùng đổi nhau, không thể đóng khung vào một khuôn-khổ nào. Chỉ có dựa vào lẽ biến mới có thể thích-ứng được."

Chương 4 Hệ-từ thượng truyện viết: "Dịch dữ Thiên Địa chuẩn, cố năng di luân Thiên Địa chi Đạo = Dịch đóng vai-tṛ chuẩn-đích với Trời Đất, cho nên kết-hợp được với Đạo của Trời Đất.

Chữ "chuẩn" ở đây có nghĩa là cùng mực thước với, ngang với, phổ-biến rộng-răi với nhau. Chữ "di luân" có nghĩa là kết lại, dệt thành.

Con người thực-hiện được nhân Đạo tức là đă theo đúng với Thiên Đạo. V̀ Phương ngôn có câu "Dục tu thiên Đạo, tiên tu nhân-đạo, nhân đạo bất tu, thiên Đạo viễn hỹ ( Con người không thể xa rời với Đạo, cũng không thể làm ngược lại với Đạo. Con người có thể sai-sót trong hành-động v́ xa rời Đạo, nhưng Thiên Đạo vận-hành theo lẽ thường của nó một cách rộng-răi, không sai sót được.)

Chương 4 Hệ-từ thượng truyện viết tiếp: "Dữ Thiên Địa tương tự cố bất vi. Tri chu hồ vạn vật nhi Đạo tế thiên hạ cố bất quá"Phạm vi Thiên Địa chi hóa nhi bất quá, khúc thành vạn-vật nhi bất di, thông hồ trú dạ chi Đạo nhi tri, cố thần vô phương nhi Dịch vô thể." = (Đạo) nằm trong khuôn-mẫu của sự biến hóa của Trời Đất mà không vượt quá, uốn-nắn nên vạn vật mà không để sơ-sót, thông-suốt sự vận-hành của ngày đêm mà điều-hành nó. Cho nên gọi nó là "thần" mà không (hạn-chế) vào phương (không-gian) Dịch không h́nh-thể.

Sự vận-hành chính là sự biến-dịch phổ-biến đó. Bởi v́ nếu không c̣n biến-dịch Thiên-Địa sẽ không c̣n giao-nhau như quẻ BĨ nói:

"Thiên Địa bất giao nhi vạn vật bất thông dă"= Trời Đất không giao nhau th́ vạn vật không thông.

Thoán-từ truyện quẻ Qui-muội viết:

"Thiên Địa bất giao vạn vật bất hưng = Trời Đất không giao th́ vạn vật không hưng khởi."

Trái lại, nếu vạn vật giao th́ sẽ thông .


Thoán-từ truyện quẻ Thái viết: "Thiên Địa giao nhi vạn vật thông" = Trời đất giao th́ vạn vật được thông.

Thoán-từ truyện quẻ Cấu viết: "Thiên Địa tương ngộ phẩm vật hàm chương" = Thiên Địa gặp nhau đó là lúc mà các "phẩm" và "vật" được cảm nhau để sáng-tỏ ra.

Trong câu nói trên, chữ "phẩm" và "vật" là những ǵ hữu-h́nh cụ-thể, tất cả đều được cảm nhau và làm sáng-tỏ nhau.

Thoán-từ truyện quẻ Hàm viết: "Khí nhu trên và khí cương đưới, hai khí cảm-ứng nhau để sánh đôi nhau"

Trời Đất cảm nhau th́ vạn vật hóa sinh"cứ nh́n xem cái cách cảm ấy th́ ta thấy được cái "t́nh" của Trời Đất và vạn vật đă hiện rơ ra rồi vậy."

Nhờ cảm nhau mà khí mới giao-dịch, biến-dịch một cách phổ-biến. Sự biến-dịch đúng với Thiên Đạo th́ vạn vật và con người mới "sinh-hóa". Quá -tŕnh hóa sinh đúng với "tính" của mỗi vật gọi là "育: dục", là "t́nh". V́ "t́nh" là sự biểu-lộ chính trinh của tính. Như vậy rơ ràng "t́nh" không phải chỉ là sự vui buồn thông thường nơi con người mà thôi. Nó c̣n là sự biểu-lộ của mưa thuận gió ḥa, núi xanh, sông sâu"trong thiên-nhiên nữa.

Sự giao-dịch chính-trinh không phải là con đường biến-dịch duy-nhất của việc giao-cảm . Thực sự, giữa Thiên Địa với nhau, hoặc Thiên Địa với con người có những lúc ở vào cảnh đối-nghịch, nhưng là thứ đối-nghich cần-thiết chuẩn-bị cho sự giao-cảm được hanh-thông hơn.

Thoán-từ truyện quẻ Khuê viết: "Nhị nữ đồng cư kỳ chí bất đồng = Hai cô gái cùng ở chung nhau, chí trái nhau.

Dù là như vậy, nhưng về mặt Trời Đất với con người, sự bất-đồng này không mâu-thuẫn, v́ nó chỉ khác nhau ở bề ngoài . Nói là khác nhau th́ Trời Đất khác nhau, trai gái khác nhau, nóng lạnh khác nhau. Nhưng tất cả đều có một giống nhau: phải cảm nhau để làm một nhiệm-vụ chung: Tạo ra nguồn sống liên-tục "Sinh sinh chi vị Dịch".

Thoán-từ truyện quẻ Khuê viết: "Thiên địa khuê nhi kỳ sự đồng dă . Nam nữ khuê nhi kỳ chí đồng dă . Vạn-vật khuê nhi kỳ sự loại dă .Khuê chi thời dụng đại hỹ tai! = Thiên Địa trái nhau nhưng nhiệm-vụ giống nhau. Trai gái trái nhau nhưng chí của họ giống nhau. Vạn vật trái nhau nhưng nhiệm-vụ cùng loại nhau. Vấn-đề "thời" trong cái lư "trái nhau" ấy có cái "dụng" rất lớn vậy .

ở đây, chữ "用: dụng" có ư-nghĩa thật quan-trọng. Dụng không phải "dùng" hay là một thứ "công-dụng" theo ư-nghĩa thông thường.

chữ "Dụng" trong quẻ Khuê này chỉ vào sự "thích-hợp", sự "ăn khớp", đúng với "thời" trong từng vai tṛ một.

chúng ta thử lấy một thí-dụ trong hoc-thuyết về ngũ vận lục khí. Ví-dụ: Năm Bính thuộc Dương Thủy , vận của nó thuộc Thái-vũ "dụng-sự".

Trời Đất biểu-hiện ra khác nhau nhưng có chung nhiệm-vụ tạo ra tứ thời"

Tóm lại, Thiên Địa Âm Dương biến-hóa một cách phổ-biến, sự biến-hóa này, nói cho cùng, dựa vào luật "giao-cảm" giữa Âm Dương . V́ thế để khai-triển vấn-đề này , tôi xin nói rơ ở phần "giao cảm" tiếp sau.

189) ÂM DƯƠNG GIAO-CẢM và THIÊN"NHÂN" ĐỊA.

Như chúng ta đă thấy ở phần trên, Kinh Dịch là nói về biến-hóa , biến-dịch: biến-hóa theo "dị giản", theo "bất dịch" và theo "biến dịch". Tất cả các luật biến-hóa ấy chính là nguồn sống "sinh sinh". Nguồn sống ấy đều do từ giao-cảm mà thành Thiên Nhân Địa hữu h́nh. Y-học đông phương đă chứng-minh qua lư-luận và thực-tiễn lâm-sàng từ cái lư giao-cảm ấy.

Toàn bộ Hoàng Đế Nội-kinh và Thương-hàn luận, Kim-quỹ yếu-lược"và tất cả các sách về y-học đông-phương . Dĩ nhiên trước khi có sự kết-hợp đông tây đều dựa vào luật biến-hóa và giao-cảm mà xây-dựng nên con đường của ḿnh.

Khi bàn về sự giao-cảm Thiên nhân Địa trong Dịch-lư cũng như ứng-dụng trong y-lư, chúng ta phải dùng phương-pháp từ phân-tích đến tổng-hợp, tức là phải chia làm những chương-mục thật rơ-ràng, nhưng trong lúc đọc xong chúng ta phải tức thời nối những chương mục ấy lại thành một chuổi ṿng tṛn "bất-khả-phân" mà Nội-kinh gọi là "chu nhi phục thỉ như hoàn vô đoan". Nói khác đi chúng ta phải đi từ cái lư thật tổng-quát của Kinh Dịch, tiến tới chứng-minh bằng nội-dung thật "người" trong Nội-kinh, sau cùng là chú-ư đến bệnh-lư để kết-thúc ở điều-trị-lư. Tất cả sự nối tiếp đó giúp chúng ta tránh được bệnh tật và giúp cho người thầy thuốc biết "đạo: con đường" đưa bệnh-nhân trở lại với "b́nh nhân".

ÂM DƯƠNG (LƯỠNG NGHI) GIAO-CẢM theo "THIÊN ĐỊA CHI ĐẠI ĐỨC VIẾT SINH"

ĐỨC HÁO SINH CỦA THƯỢNG-ĐẾ

Âm Dương trong Trời Đất biến-hóa, giao-cảm không phải lúc nào cũng được điều-ḥa, có lúc gọi là "hữu dư", có lúc "bất-cập". Về sau khi nói về ngũ vận lục khí, các nhà nghiên-cứu gọi là "tà-khí"hay là "chính khí""dù là chính-khí hay tà-khí, dù xăy ra trong Trời Đất hay xăy ra trong con người, tất cả đều có những quan-hệ chặt-chẽ.

Dù như vậy, kinh Dịch vẫn xem Thiên - nhân - Địa có một nguồn quan-hệ "hằng cữu" nhờ dựa vào cái "德: Đức": "Thiên Địa chi đại đức viết sinh": Cái đức lớn trong. Trời Đất chính là ư-nghĩa của sự "sống".

Cụ Lê hữu-Trác viết: "Đạo làm thuốc là một nhân-thuật chuyên bảo-vệ sinh-mạng con người, phải lo cái lo của người, và vui cái vui của người , chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm-vụ của ḿnh, không nên cầu lợi kể công , tuy không có sự báo-ứng ngay nhưng để lại Âm Đức về sau""

Thiên "Lục nguyên chính kỷ đại luận" (Tố vấn 71) viết:

報 德 以 德 報 化 以 化報 正 以 正 報 令 以 令.

Báo đức dĩ đức, báo hóa dĩ hóa, báo chính dĩ chính, báo lệnh dĩ lệnh.= (Vạn vật bẩm-thụ) cái đức của (khí Thái-cực) th́ phải (biểu-lộ) ra bằng Đức; (bẩm-thụ) hóa th́ biểu-lộ bằng hóa; (bẩm-thụ) chính th́ biểu-lộ bằng chính; (bẩm-thụ) lệnh th́ biểu-lộ bằng lệnh"

Trương Chí-Thông nói rằng tứ thời có ngũ vận lục-khí , có Đức, có Hóa, Có chính, có lệnh, có biến cố bệnh"Như vậy có nghĩa là mỗi mùa có sự biểu-lộ ra bằng sự nóng lạnh, mát"theo đúng với "thời". Sự biểu-lộ ra phải giữ đúng cái mà vạn vật phải "biến-hóa" đúng "thời".

Thiên "Sơ ngũ quá luận" (Tố vấn 77) có thuật lại lời của Hoàng Đế than-thở với Lôi-Công. Ông nói rằng Trời Đất mênh-mông. Khi nh́n mây nổi bay, khi nh́n xuống vực sâu, trời đất bao-la quá , không biết đâu bến bờ. Riêng cái "thuật" của "thánh nhân" được đem ra làm mẫu-mực cho người dân, ngay cả trong y-học cũng thế. Ông nêu ra "ngũ quá: năm điều sai lầm", "tứ đức: bốn điều về đức" mà người thầy thuốc phải biết .Nếu làm sai "tứ đức", nó sẽ thành "tứ thất: tức là 4 điều sai-sót".

Trương Chí-Thông nói rằng: "Cái đạo chẩn bệnh" cũng phải hợp với Thiên Đạo. Khí của con người thuộc Dương, c̣n tinh thủy thuộc Âm. Vệ-khí thuộc Dương, doanh huyết thuộc Âm. Âm Dương có b́nh-ḥa th́ sau đó huyết-khí mới vận-hành, kinh-mạch mới quân-b́nh. V́ thế nên giữ-ǵn chí-ư, phải cẩn-thận trong ẩm-thực cư-xử, Âm Dương hỉ nộ, sau đó mới "sát" đến sắc mạch. Như vậy mới được vẹn toàn, không sợ bị sa vào cái "cữu 咎" của "quá và thất". Người thầy thuốc như bậc thánh-nhân, phải giữ thái-độ "thung-dung" trong việc thi-hành cái "nhân thuật 仁術", truyền cái đức lại cho đời sau"Vậy tứ Đức chính là tứ thời "sinh, trưởng, thâu, tàng" được "đức hóa". C̣n nếu như không biết đến cái lư Âm Dương nghịch tùng của tứ thời th́ gọi là "tứ thất 四失". Tố vấn 78 là thiên "Trương Tứ thất luận" bàn rất rơ về vấn-đề trên.

Như chúng ta đă nói trong bài "Tự"qua bài nguyên đạo sách Văn tâm điêu long, Đức chính là sự biểu-lộ rơ nhất của khí-hóa vũ-trụ, sự hài-ḥa của đức ở mỗi vật gọi là "văn""Người thầy thuốc có đức , tức là thực-hiện được, thi-hành được một cách thông-suốt sự quan-hệ Thiên Nhân Địa một cách "thường" dù bốn mùa có "thất thường".

Kinh Dịch đă nhờ vào hào và quẻ để nói lên được cái đức của vũ-trụ: Cát, hung, hối, lận"

Cụ-thể hơn, rơ hơn, chúng ta phải tŕnh-bày 9 quẻ nói về Đức trong chương 7 Hệ-từ hạ truyên:

CÓ 9 QUÁI NÓI VỀ ĐỨC

Chương 1 Hệ-từ hạ truyện viết:

Cát hung hối lận giả, sinh hồ động giả dă. :

"Cát hung hối lận sinh ra từ cái "động" vậy".

Chương 3 Hệ-từ hạ truyện viết:

"Hào dă giả, hiệu thiên hạ chi động giả dă, thị cố cát hung sinh nhi hối lận trứ dă".= Hào là mô-phỏng theo cái"động" trong thiên hạ, cho nên cát hung sinh ra từ hối lận cũng sáng tỏ.

Âm Dương biến-hóa theo động th́ cát hung hối lận cũng không rời sự biến-hóa, giao cảm ấy.

Chương 11 Hệ-từ thượng truyện viết:

Thị cố Dịch hữu Thái-cực thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tương sinh Bát-quái. Bát-quái định cát hung, cát hung sinh đại-nghiệp.Thị cố pháp tượng mạc đại hồ Thiên Địa, biến thông mạc đại hồ tứ thời, huyền tượng trứ minh mạc đại hồ nhật nguyệt.

= cho nên Dịch có Thái-cực, từ đó sinh ra lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái. Bát quái định được cát hung , cát hung sẽ sinh ra đại nghiệp. Cho nên muốn "pháp: bắt chước" theo tượng th́ không ǵ lớn hơn Thiên Địa, muốn (pháp) theo lẽ biến thông th́ không ǵ lớn hơn tứ thời, nêu lên cái tượng để làm sáng tỏ không ǵ bằng mặt Trời mặt trăng .

Vạn-vật vận-hành theo nguyên-lư "chu nhi phục thỉ như hoàn vô đoan", nhờ vậy mà lẽ cát hung thay nhau cùng làm cho vạn vật ngày được "nhật tân: ngày càng mới hơn". Nhật tân sẽ tạo nên "đại-nghiệp".

"ĐỨC THỊNH."Làm sao biết lúc nào th́ đức thịnh?

Chương 5 Hệ-từ hạ truyện viết:

Cùng thần tri hóa, đức chi thịnh dă. = Nắm được rốt-ráo cái thần, điều hành được cái hóa, đó là lúc cái Đức đang thịnh.

Chữ "nghiệp" ở đây không thể hiểu là "sự nghiệp" một cách thông thường như chúng ta hiểu hằng ngày: làm quan lớn, tiền bạc nhiều.

"Đại nghiệp" là kết-quả của quá-tŕnh hành-động tương-ứng với sự biến-hóa, giao-cảm của Thiên Địa, vạn vật trên con đường trưởng thành hợp với "thời": " sinh sinh chi vị Dịch"

Nguyễn Công-Trứ đă viết:

Nhập thế cục bất khả vô công-nghiệp,

Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân.

Ḍng sống của Thiên Địa vạn vật được liên-tục đúng với "thời" chính là ư-nghĩa của chữ Đức trong câu: "Thiên Địa chi đại Đức viết sinh".

Đức đi đôi với "nghiệp" theo một ṿng tiến-triển sinh-động.

Văn-ngôn quẻ Kiền viết: "Quân tử tiến đức tu nghiệp" = Người quân-tử phải tiến cái đức, tu sửa cái nghiệp.

Người quân-tử tu sửa cái đức, tức là phải hành-động hợp với cái Đức của tứ thời, tức là sống hợp với "Xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàng". Nếu sống nghịch lại sẽ bị "bệnh". Ṿng biến-hóa sinh-động tức là ṿng của Đức và nghiệp.

Chương 7 Hệ-từ hạ truyện viết:

Thánh nhân sở dĩ sùng Đức nhi quảng nghiệp. = Bậc thánh-nhân nhờ đó để nâng cao cái Đức, để làm cho cái nghiệp được rộng hơn.

Chương 5 Hệ-từ thượng truyện viết:

"Thịnh Đức đại nghiệp. = Làm cho cái Đức được thịnh, nghiệp được lớn.

Con người sống trong cuộc sống cũng giống như sự biến-hóa của tứ thời, có lúc thăng, lúc trầm, nhờ vậy mà hiểu ḿnh hơn, hiểu người hơn, hiểu vật hơn. Nhất là trong phạm-vi y-học, sự thăng trầm của khí-hóa cho ta biết lúc nào khí thái-quá, lúc nào khí bất cập, lúc nào b́nh khí, biết để mà sống thế nào cho hợp, đừng làm nghịch lại Thiên-khí : bệnh, chết.

Tất cả sự sống sát với lẽ biến đó là Đức, kết quả gọi là "nghiệp".

Quá-tŕnh thực-hiện Đức hạnh và Nghiệp được thực-hiện qua 9 giai-đoạn của 9 quẻ, biến-hóa rất chặc-chẽ. Đây là một điều-kiện giúp cho chúng ta thấy rơ con đường vận-hành đúng của vấn-đề "giao-cảm" giữa Thiên-nhân-Địa qua các quy-luật của Kinh Dịch mà chúng ta sẽ tŕnh bày tiếp theo sau:

Chương 7 Hệ-từ hạ truyện viết:

1) Quẻ Lư: a) Đức chi cơ: Quẻ Lư là nền tảng của Đức.
Đại-tượng truyện viết: "Thượng thiên hạ trạch, lư. Quân-tử dĩ biện thượng hạ, định dân chí. = Trên là Trời dưới là ao đầm, đó là tượng của quẻ Lư. Người quân-tử xem đó để phân-biện kẻ trên người dưới, định lại được cái chí của người dân

Quẻ Lư tượng-trưng cho nền-tảng của Đức. Nó giúp cho người quân-tử định rơ được cái phận trên dưới . Được vậy, chí của dân, ḷng của dân mới định và trật-tự xă-hội mới rơ-ràng. Trời cao, Đất thấp, cha lớn, con nhỏ, xuân hạ rồi mới thu đông. Sự sắp-xếp này rút ra từ quy-luật trật-tự của vũ-trụ. Nếu làm ngược lại sẽ loạn. Sở dĩ mỗi người phải làm đúng vai-tṛ của ḿnh là v́ họ dựa vào cái "nền tảng" của Đức, ư-nghĩa của nó cũng chính là Lễ.

b) Ḥa nhi chí: Giữ điều ḥa-mục mà đạt được kết-quả tốt.
Dựa trên lư của quẻ Lư mà đi, mà hành-động để tiến xa hơn, ḷng ḿnh sẽ được vui.Ḥa là nhờ giữ được cái gốc của Đức, do đó kết-quả sẽ đến một cách tự-nhiên, không miễn-cưỡng.

Nhờ như vậy nên Thoán-từ viết: "Đạp lên đuôi hổ mà hổ không cắn người . Từ nền tảng của Đức mà có được Lễ, Lễ hợp với vận-hành điều-ḥa của Trời Đất."

Đức của quẻ, tài của quẻ đưa đến dụng của quẻ:

c) Dĩ ḥa hành: Nhờ vào đó mà được hài-ḥa và được hành.

Quẻ Khiêm: a) Đức chi bính: Quẻ Khiêm là cái cán của Đức.

Bính có nghĩa là cái cán, là nơi mà người ta nắm cho chặt-chẽ , nắm cho vững. Nắm cái cán của Đức để biết rằng ḿnh đang đứng giữa Thiên Địa, mỗi người phải một vai tṛ nào đó. Vai-tṛ dù khác nhau, khác với người khác, khác với vạn vật nhưng tất cả đều có chung một nhiệm-vụ "tán Thiên Địa chi hóa dục" = Giúp đở cho sự hóa dục của Trời Đất".

Sách Trung-dung viết: "Duy có bậc chí thành trong thiên-hạ mới có thể biết rơ cái "tính" của ḿnh; biết rơ cái tính của ḿnh th́ mới có thể biết rơ cái tính của người khác; biết rơ cái tính của người khác th́ biết rơ cái tính của vạn cật ; biết rơ được cái tính của vạn vật th́ có thể giúp đở cho sự hóa dục của Trời Đất,, có giúp đỡ được cho sự hóa dục của Trời Đất th́ mới có thể cùng "tham" vào được với Trời Đất.

Thiên-nhân-Địa tham-hợp nhau chính là lư -tưởng cao nhất trong y-học Đông-phương mà tôi sẽ tŕnh-bày tiếp sau phần này.

Đại-tượng truyện quẻ Khiêm viết: "Địa trung hữu sơn, Khiêm. Quân-tử dĩ biều đa ích quả , xứng vật b́nh thí. = Trong đất có núi, đó là tượng của quẻ Khiêm. Người quân-tử xem đó để biết bớt chỗ nhiều, thêm vào chỗ ít để cân-nhắc mọi vật, để thực-hiện mọi việc công-bằng.

b) Tôn nhi quang: "Tôn kính mà sáng-sủa.

Hành-động của một người càng "khiêm" th́ càng tôn quư và càng được nhiều người biết đến , giống như tự ḿnh tỏa ra ánh sáng, làm cho mọi người kính-trọng. Khiêm đó nghĩa là "nhún-nhường", nhưng nhún-nhường không có nghĩa là hạ ḿnh thấp xuống để rồi bị mọi người khinh-rẻ hay vượt qua ḿnh.

Thoán-từ truyện viết: "Khiêm, tôn nhi quang, ty nhi bất khả du. = Khiêm (nhún-nhường) có nghĩa là ở ngôi vị tôn cao mà sáng-sủa, cúi xuống thấp mà không ai có thể vượt qua được.

c) Dĩ chế lễ: tự chế để hợp với Lễ.

Tiểu tượng-truyện hào Sơ lục viết: "Khiêm khiêm, quân-tử ty dĩ tự mục dă.= Nhún-nhường rồi lại nhún-nhường , người quân-tử dựa vào thái-độ nhún-nhường để có thể đứng dưới thấp mà tự dẫn-dắt cho hành-động của ḿnh.

Người quân-tử càng nhún-nhường th́ càng dưỡng được cái Đức của ḿnh , tự "chế" theo cái lễ bên trong ḷng ḿnh và cả bên ngoài xă-hội, tạo cho ḿnh có những hành-động luôn luôn đúng: không tự hạ ḿnh mà cũng không quá kiêu-căng.

Quẻ Phục: a) Đức chi bản: Quẻ Phục cái gốc của Đức.
Thoán-từ truyện viết: "Phục kỳ kiến Thiên Địa chi tâm hồ = Quẻ Phục cho ta thấy được cái Tâm của Trời Đất rồi vậy!

Trong sự vận-hành của một tuế theo 12 thiên-tử quái th́ quẻ Phục nằm ở tiết Đông-chí. Đông-chí cực Âm, nhất Dương sinh: sự sống đă trở lại. Nhất Dương ở đây chính là ư-nghĩa của chữ "明德 minh đức" mà sách ĐẠi-học đă nói: "Đại-học chi đạo tại minh minh Đức". = Cái học về sách Đại-học là nhằm làm sáng được cái đức sáng nơi ḿnh..

Đại-học là sách nói về cái học của người lớn, người trưởng thành, giai-đoạn lập thân hành-đạo. Thấy được cái đức sáng của ḿnh là thấy được cái đức sáng của Trời Đất. Đức sáng đó là Tâm. Thiên Địa chi Tâm cũng là nhân Tâm.

b) Tiểu nhi biện ư vật: (Hào Dương của) quẻ Phục tuy c̣n nhỏ mà đủ để phân-biệt được sức sống của vạn vật.

Tiểu-tượng truyện hào lục tứ viết: "Trung hành độc phục, dĩ tùng đạo dă. = Đi chung với vạn vật mà tự ḿnh biết quay lại với ḿnh, đó là nhờ ḿnh biết đi đúng với Thiên Đạo.

c) Dĩ tự trị: Nhờ quẻ Phục mà ḿnh tự điều-khiển ḿnh.

Chữ "tri" ở đây không phải chỉ là sự "hiểu biết" mà thôi, mà nó c̣n có nghĩa là "điều-khiển, hoặc quản-lư". Dương-khí của hào Dương sẽ vận-hành lớn dần hướng dẫn ta tự điều-khiển lấy ḿnh để có những hành-động đúng với Thiên Đạo.

Thoán-từ truyện viết: "Động nhi dĩ thuận hành, thị dĩ xuất nhập vô tật = "Động" để mà vận-hành cho thuận với Thiên Đạo, do đó lúc ra vào không bị hại.

Quẻ Hằng: a) Đức chi cố: Quẻ Hằng biểu-lộ sự bền vững của Đức.

Ư-nghĩa của Hằng là bền "cửu 久". Có thể nói rất nhiều trường-hợp người ta hiểu chữ "cửu"là bền lâu, nói khác đi một việc nào đó, một vật nào đó, một hành-động nào đó nếu kéo dài được trong thời gian không thay-đổi bản-chất th́ gọi là cửu là Hằng. Hiểu như vậy là chưa đúng lắm với ư-nghĩa của Kinh Dịch. V́ như chúng ta đă nói ở phần trước, không một vật nào, theo nguyên-lư biến-hóa của Dịch có thể tồn-tại măi măi đúng như "nguyên-trạng của nó" được.

Tất cả đều biến- dịch, cũng như vũ-trụ đang biến-dịch. "Thường" hoặc "cửu" hoặc "hằng" nói lên một vật vận-hành tương-ứng với "thời mà nó đang "có" trong một giai-đoạn nào đó. Nó tương-ứng và phải tương-ứng với sự vận-hành của vũ-trụ.

Đó là "thường, cửu, hằng""
Cuộc sống xă-hội cũng như sinh-lư con người có nhiều lúc phải thăng-trầm, thay-đổi nhưng chúng ta phải kịp thời xoay theo đúng với sự thay-đổi của vũ-trụ. Chúng ta không quá cao-hứng trong lúc thăng, lại càng không chán-nản trong lúc trầm, lúc nào cũng giữ lấy cái Đức, cái đại Đức của sự "sống liên-tục" để được bền vững.

Đó cũng là ư-nghĩa của Nội-kinh Linh-khu:

Đại-tượng truyện viết: "Lôi phong, Hằng. Quân-tử dĩ lập bất dịch phương. = Lôi và Phong cùng đi với nhau, đó là tượng của quẻ Hằng. Người quân-tử xem đó để đứng vững không thay đổi phương hướng.

Sách Trung-dung viết: "Quân-tử tố kỳ vị nhi hành, bất nguyện hồ kỳ ngoại. = Người quân-tử dựa vào vai tṛ ḿnh đang có mà hành-động, không mong vào hoàn-cảnh bên ngoài.

Như vậy chữ " bất dịch phương"không phải là ở "yên" một chỗ, ở "lỳ" một chỗ mà chỉ có nghĩa là vẫn đứng vững tùy theo hoàn-cảnh của một giai-đoạn thay đổi nào đó. Đó là ư-nghĩa của "tố kỳ vị" để dựa vào hoàn-cảnh mà ḿnh đang có để hành-động.

b) Tạp nhi bất yễm: Tạp vào nhau mà không chán.

Đặc-biệt trong triết-học của Kinh Dịch, chữ"tạp" không mang ư-nghĩa "lộn-xộn, không đầu mối", nó chỉ vào những sự vật hiện-hữu hài-ḥa với nhau, thành những màu sắc khác nhau mà thành rực-rỡ"Thực sự cái ǵ đều đều nhau mới "yếm: chán", chữ "tạp" của quẻ Hằng ở đây không mang ư-nghĩa đều-đặn, sự vận-hành của Thiên Địa có "sinh trưởng thu tàng": đó mới là biểu-tượng của lẽ biến-dịch "hằng thường".

c) Dĩ Đức nhất: Lấy cái đức Hằng để làm lẽ hằng.

Nên nh́n cái Đức hằng thường để hiểu được cái Nhất của vũ-trụ, để hiểu được lẽ biến-dịch mà không lộn-xộn, xáo-trộn bất-thường trong cái hằng của nó.

Quẻ Tổn: a) Đức chi tu: Quẻ Tổn là tu-sửa cái Đức, là giảm bớt.

Đại tượng truyện viết: "Sơn hạ hữu Trạch, Tổn. Quân-tử dĩ trừng-phẫn, trất dục. = Dưới núi có ao đầm, đó là tượng của quẻ Tổn. Người quân-tử xem đó để ngăn-ngừa sự phẫn-nộ, cấm chỉ ḷng ham muốn.

Hành-động của người quân-tử ví như ta bớt cái ở dưới để thêm vào cho cái ở trên, bớt chỗ đáng bớt, để thêm vào chỗ đáng thêm

b) Tiên nan nhi hậu dị: Trước khó nhưng sau dễ.

Sự khó-khăn là do ḷng tư dục, nhưng nếu biết lúc nào nên "bỏ bớt" chỗ đáng bỏ để trau dồi cái Đức th́ sẽ dễ- dàng về sau.

Tiểu-tượng truyện viết: "Tổn kỳ tật diệc khả hỉ dă" = Giảm bớt cái khuyết-điểm của ḿnh, cũng đáng mừng.

c) Dũ viễn hại: Làm cho cái hại xa ra. Cố gắng bỏ bớt, giảm bớt cái hại của ḿnh, làm cho đức của ḿnh ngày tốt hơn.

Thoán-từ truyện viết: " Tổn tổn hạ ích thượng, kỳ đạo thướng hành. = Tổn có nghĩa là giảm bớt cái dưới để thêm cho ở trên, đạo của ḿnh ngày càng đi lên.

Quẻ Ích:
a) Đức chi dụ: Quẻ Ích là sự dồi-dào, tốt lành.

Ích có nghĩa là làm tăng thêm, cho dồi-dào thêm. Trong quẻ, bớt Dương của quẻ trên để thêm cho Âm của quẻ dưới: biến từ trên xuống. Hào lục nhị và hào cửu ngũ được đắc trung đắc chính. Thoán-từ truyện viết: Ích, tổn thượng ích hạ, dân duyệt vô cương, tự thượng há hạ, kỳ đạo đại quang.= Quẻ Ích có nghĩa là bớt phần ở trên để thêm cho phần ở dưới.Dân vui không bờ-bến, đó là nhờ từ trên đi xuống dưới . Đạo làm người được vậy nên rất sáng.

b) Trường dụ nhi bất thiết: Dồi-dào lâu bền mà không phải bày đặt thêm ra.

Quẻ Ích là làm cho đức được tốt, tiến măi, v́ nó dựa vào tự-nhiên chứ không phải tự bày-đặt ra mà được. Đại-tượng truyện viết: "Phong Lôi Ích, Quân-tử dĩ kiến thiện tắc thiên, hữu quá tắc cải.= Gió và sấm cùng hợp nhau, đó là tượng của quẻ Ích. Người quân-tử xem đó, hễ thấy điều thiện th́ dời hướng theo điều thiện, thấy điều quấy th́ nên sửa đổi lại.

c) Dĩ hưng lợi: Ích là làm hưng khởi điều lợi.

chữ "lợi" là công-dụng tốt, kết-quả tốt, hành-động được đến nơi đến chốn. Nhờ vào Đức dồi-dào và nhờ hướng đức vào lẽ thiện một cách tự-nhiên cho nên quẻ Ích làm hưng-khởi được sự thông lợi. Hào Sơ cửu viết: "Lợi dụng vi đại tác" = Nhờ điều lợi mà có thể dùng làm những việc lớn.

Hào sơ cửu ở ngôi vị làm lợi cho kẻ dưới nhưng cũng chịụ sự nâng đở của bề trên: trên dưới được lẽ hanh-thông, do đó làm nên được việc lớn.


Quẻ Khốn:
a) Đức chi biện: Quẻ Khốn là giai-đoạn phân-biện của Đức.
Chữ "Khốn" có nghĩa là bị lâm vào cảnh khốn-đốn không lối thoát. Quẻ Khảm ở dưới bị quẻ Đoài ở trên che lấp. Hào cửu nhị bị hai hào âm hăm bên dưới. Bên trên th́ hào thượng lục che lấp hai hào cửu tứ và cửu ngũ.

Tuy nhiên, nếu nh́n toàn quẻ th́ tuy Khảm bị khốn bên dưới, nhưng bên trên Đoài là đức cao của sự vui-vẻ. Thân dù bị hăm, nhưng ḷng vẫn giữ được niềm vui. Hào cửu nhị ở ngôi đắc trung, dù bị hai Âm che lại nhưng vẫn giữ được vai tṛ cương của ḿnh, đó là h́nh-ảnh của bậc đai-nhân bị khốn. Tuy vậy họ vẫn chịu đựng được để xứng-đáng với hào cửu ngũ bên trên.

Nhờ ở vào hoàn-cảnh "Khốn" mà người quân-tử mới có dịp nhận được đâu là điều hợp với Đức và đâu là điều sai với đức. Văn Vương nhờ khốn mà viết ra quái-từ. Văn Thiên-Tường nhờ "khốn" mà viết được bài "chính-khí ca".

b) Cùng nhi thông:Nhờ cùng mà được thông .Thái-độ thông thường của con người khi gặp cảnh bước đường cùng họ thường than-thở cho là bế-tắc; danh không đạt, lợi không thỏa"có khi họ lại c̣n tự-tử chết đi. Họ chết là v́ không hiểu lẽ biến thông, là v́ sống theo bất động.

Bậc thánh-nhân sống không bất-động, v́ họ biết được cái lư của Dịch: cùng th́ thông. Thoán-từ viết: "Khốn, hanh trinh, Đại-nhân cát, vô cữu. Hữu ngôn bất tín = Quẻ Khốn chỉ vào sự hanh-thông và trinh. Phải giữ thái-độ chính, cát như bậc đại-nhân th́ vô cữu. Nếu dùng lời nói để nói nhiều , vô-ích , (thêm khốn).

Trinh là giữ đúng lẽ trung-dung hợp với lẽ tự-nhiên. Người quân-tử giữ được hanh-thông và trinh là nhờ vào cương trung. Cương trung chính là cái đức của Thiên Địa hợp với người, giúp cho con người đứng vững được trước khó-khăn.
Thoán-từ truyện viết: "Trinh đại nhân cát dĩ cương trung dă." = Phải trinh chính như bậc đại-nhân th́ cát, là v́ hào cương đắc trung vậy.

Trong ḷng giữ đúng được điều "cương", đó là cái Đức, nó sẽ sáng ra mặc dù đang bị hăm, nhưng nó vô cữu chỉ v́ đó là giai-đoạn vận-hành phải có cùng th́ mới đến thông được.

Như vậy, người quân-tử giũ vững cái Đức của ḿnh trong lúc bị khốn, chịu đựng. V́ nói nhiều sẽ bị hại vả lại cũng không ai tin. Thoán-từ truyện viết tiếp:

"Thượng khẩu năi cùng dă" = Chuộng vào lời nói càng làm cho khốn-cùng hơn". Câu này khuyên con người trong lúc bị khó-khăn, cố mà giữ cái Đức sáng trong ḷng, không nên nói nhiều. Thoán-từ truyện viết tiếp: "Hiểm dĩ duyệt, khốn nhi bất thất kỳ sở hanh, kỳ duy quân-tử hồ: Gặp điều hiểm-nguy mà vẫn vui, gặp cảnh khốn mà không mất đi sự hanh-thông, chỉ có người quân-tử mới được như vậy."

Đại-tượng truyện viết: "Trạch vô thủy, khốn, quân-tử dĩ trí mệnh toại chí. = Trong ao không có nước, đó là tượng của quẻ khốn.. Người quân-tử xem đó để vẫn làm hết sức ḿnh theo với Thiên-mệnh và cũng để toại được cái chí của ḿnh.

Câu này ư nói dù trong cảnh khốn-cùng, người quân-tử vẫn một ḷng tin vào sự vận-hành của Thiên Địa , chí của ḿnh đă ôm-ấp như thế nào từ trước, cũng tin là sẽ làm được. Văn Vương khi bị cầm tù ông vẫn học Dịch, v́ từ trước ông đă có ư muốn t́m hiểu lẽ vận-hành tự-nhiên của Trời Đất. Phan Bội Châu trong cảnh khốn vẫn viết được "Khổng học đăng". Như vậy ta có thể gọi trường-hợp 2 ông này là đă "trí mệnh toại chí": Theo với mệnh Trời để toại chí ḿnh". Hai ông đă "thuận tính-mệnh chi lư".

c) Dĩ quả oán: Nhờ quẻ Khốn mà bớt được oán.
Quẻ Khốn cho ta thấy được lẽ cùng thông của vú-trụ, cho nên ta không nên oán hoàn-cảnh hay kẻ khác. Sự khó-khăn chỉ giúp cho chúng ta tự "phản tỉnh" để nhận rơ đâu là cát hung hối lận. Hào thượng lục viết: "Động hối, hữu hối chinh cát. = Nói rằng: Động sẽ bị hối, có hối th́ con đường đi tới mới cát.

Tự ḿnh trong khi bị khốn, có thời gian để tự vấn lấy ḿnh về những hành-động đă qua, hiện-tại và sắp tới. Nếu có chỗ nào phải "hối" th́ hối, nhờ có hối mới quay về được với Đạo. Nhờ vậy mới tiến xa hơn, mới cát. Chữ "chinh" đây có nghĩa là đi xa.

Quẻ Tỉnh:
a) Đức chi Địa :Quẻ Tỉnh là miếng đất của Đức.
Giếng là miếng đất để gieo trồng cái đức và cũng là nguồn nước, cung-cấp không cùng mà không vụ lợi. Đức của Trời đất là không cùng, cho nên đức của con người theo đúng với Trời Đất cũng sẽ vô cùng.

Thoán-từ truyện viết: "Tốn hồ thủy nhi thướng thủy, Tỉnh. Tỉnh dưỡng nhi bất cùng. = Gió luồn dưới nước mà nước đem được lên trên, đó là giếng. Giếng nước nuôi vạn vật và con người mà lại không bao giờ cạn đi vậy.

b) Cư kỳ sở nhi thiên: Giếng là nước ở một nơi mà vẫn đem đi đến nơi khác được.
Thoán-từ truyện viết: "Tỉnh, cải ấp bất cải Tỉnh, vô táng vô đắc, tĩnh tỉnh văng lai. = Giếng là ư-nghĩa của vấn-đề "Đổi ấp không đổi giếng, không mất ǵ mà cũng không được ǵ , kẻ đi lại từ giếng về chỗ ở rất tấp-nập.

Vương Bật nói rằng: "tỉnh: giếng"là tượng-trưng cho miếng đất nơi đó cái nguồn cung-cấp không bao giờ thay-đổi: vơi rồi lại đầy như cũ. "Cư kỳ sở" không có nghĩa là một sự chiếm-ngụ không-gian lâu dài mà không dời chỗ. Chữ "cư" ở đây ư nói cái Đức phải giữ được lẽ "thường" của nó không bị ngoại vật lôi kéo. Người ta có thể đi tới, đi lui từ chỗ này đến chỗ khác, đó là ư-nghĩa chữ "cải ấp", nhưng nước giống như là vẫn không thay đổi: vơi đầy rồi đầy vơi với mức độ "thường" của nó. Nếu múc lên, nước đó vẫn không vơi cạn, đó là "vô táng", nếu để yên nước đó vẫn không tràn ra, đó là "vô đắc".

c) Dĩ biện nghĩa: nhằm phân-biệt điều nghĩa.
Người quân-tử nên gieo, nên lập cái Đức của ḿnh trên cái tượng của giếng. Đức của người quân-tử có một nhưng thi-hành ra khắp nơi mà không cạn, không hết. Đó là ư nghĩa của câu "Tỉnh dưỡng nhi bất cùng": giếng nước nuôi con người mà không bao giờ cùng".

Đại-tượng truyện viết: "Mộc thượng hữu thủy, Tỉnh. Quân tử dĩ lạo dân khuyến tương. = Trên mộc có thủy, đó là tượng của quẻ Tỉnh. Người quân-tử xem đó mà nuôi dân và khuyên họ cùng nuôi nhau.

Đến đây ta thấy ư-nghĩa của chữ "nghĩa". Nghĩa có nghĩa là "con đường" mà người quân-tử phải đi và khuyến-khích người dân cùng đi. Người quân-tử ví ḿnh như nước giếng, lo cho dân, nuôi nấng để họ có thể tự lo sự sống với nhau.

Nuôi-nấng, giúp đỡ không lúc nào ngưng, đó là nhờ ở tấm long không tư lợi. Không lợi mới là "nghĩa". Đổng Trọng-Thư có nói: "Chính kỳ nghi, bất mưu kỳ lợi, minh kỳ đạo bất kế ( 計) kỳ công.. = Làm ngay chính lại những việc phải làm, làm sáng tỏ cái Đạo mà không nghĩ đến công-lao (riêng ḿnh). Học quẻ Tỉnh để biết điều nào hợp với nghĩa và không hợp với nghĩa.

Quẻ Tốn: a) Đức chi chế: Quẻ Tốn là phép chế-hóa của Đức.Tốn là thuận, là vào. Một hào Âm ẩn dưới hai hào Dương. Âm theo với

Dương là lợi, nhưng phải biết rơ điều nào đáng theo, điều nào không đáng theo th́ mới giữ được lẽ chính. Người ta tiến-bộ hay không là do cái Đức phân-biệt được hay không, chế-hóa được hay không. Đức làm cho thuận"tính mệnh chi lư".

Thoán-từ truyện viết: Quẻ Tốn trùng lên nhau (thuận) để phát-triển cái tính-mệnh.

Chữ "thân" có nghĩa là duỗi ra, là phát-triển ra, thi hành rộng ra. "Thân mệnh" là phát-triển cái tính-mệnh của ḿnh hợp với tính mệnh của vũ-trụ.

Chương 2 Thuyết-quái truyện viết: "Ngày xưa, bậc thánh-nhân viết ra Kinh Dịch là nhằm để sống thuận theo cái lư của tính mệnh."

Tượng của Tốn là Phong. Trùng Phong có nghĩa là gió này liền với gió kia khiến cho người quân-tử phải nghĩ một cách liên-tục đến việc Đức, làm cho để "thân mệnh" cho "thuận tính mệnh chi lư".

Câu "Đức chi chế" có nghĩa là người quân-tử phải giữ cái Đức của ḿnh lúc nào cũng không thái-quá , không bất-cập, lúc nào cũng điều-ḥa liên-tục, phải trau giồi cái Đức măi-măi.

b) Xứng nhi ẩn: xứng đáng mà ẩn.

Xứng ở đây có nghĩa là Đức và hạnh hợp nhất, hài-ḥa đến nỗi ta thấy như hạnh không lộ ra ngoài riêng lẻ. Tốn là gió, đâu nó cũng lọt vào được mà không ai trông thấy, nhưng rơ-ràng nó hiện-diện khắp nơi.

Sách Trung-dung viết: "Mạc hiện hồ ẩn: không có ǵ hiện ra rơ cho bằng cái đang ẩn."

Người quân-tử thí Đức khắp nơi nhưng không khoe-khoang ra ngoài. Cho nên cái Đức ấy, cái hạnh ấy như đang ẩn không ai trông thấy nó là thế nào, nhưng kết-quả lại hiện rơ khắp nơi.

d) Dĩ hành quyền: Nhằm thi-hành cái quyền.

Chữ "quyền" ở đây không phải là "quyền-hành" hoặc "quyền thế""như chúng ta thường hiểu, mà nó lại chính là cái "quyền" mà Mạnh-tử đă nói.

Trong thiên Ly-lâu thượng sách Mạnh tử, sau khi kể chuyện "nam nữ thọ thọ bất thân" thuộc vấn-đề về Lễ, Ông kết luận:

Nam nữ thọ thọ bất thân, lễ dă.

Tấu nịch viên chi dĩ thủ, quyền dă.

(Nam nữ thọ bất thân thuộc về (phạm-vi) của Lễ. Chị dâu bị chết đuối, dùng tay vớt lên thuộc quyền.
Chúng ta thấy rằng:

+ Lễ là hành-động có trật-tự, có luân-lư nào đó trong lúc xă-hội sống một cách b́nh-thường , cũng gọi là "經 kinh".

+ Quyền lại thuộc hành-động uyển-chuyển, tùy theo hoàn-cảnh khó-khăn trước mắt như thế nào đó để mà giải-quyết, không câu-nệ vào nguyên-tắc của Lễ.

Như vậy "quyền" là khả-năng biết cân-nhắc cho hợp-lư nhằm giải-quyết một hoàn-cảnh cấp-bách nào đó không thể giải-quyết như trong lúc "kinh" (b́nh thường). Tóm lại dù là Lễ hay quyền, lúc nào con người, nhất là ông thầy thuốc Đông-phương cũng phải dựa theo "thường đạo" của Âm Dương là chính.

Nói khác đi, con người sống là phải thông Thiên Đạo, thông Thiên Đạo để tự "trị: quản-lư" lấy ḿnh, từ quản-lư ḿnh mới "tri cơ". Tri được "cơ" mới có thể "tùy cơ mà ứng với biến", đó gọi là "quyền".

Tóm lại, lẽ Âm Dương biến-dịch trong vũ-trụ có lúc thịnh, lúc suy, có trưởng có tiêu"Vấn-đề chính vẫn là dựa vào lẽ biến-hóa để giữ vững cái Đức. Con số 9 quẻ trên nói về Đức đă diễn-tả đầy-đủ quá-tŕnh vận-hành Âm Dương, h́nh thành sự thịnh suy và bền-vững của Đức qua 3 giai-đoạn:

Lập Đức, phát triển Đức, Dụng của Đức.

Quá-tŕnh này cuối cùng đi đến sự nghiệp. Sự-nghiệp của người thầy thuốc Đông-phương cũng không ra khỏi con đường nói trên. Dưới đây chúng ta tiếp-tục đi vào con đường vận-hành của Âm Dương.
 
Reply with a quote
Replied by PhoHVB (Hội Viên)
on 2014-07-06 17:20:14.0
Quote:
Originally posted by conchocun
Chào bác KHANG TƯỜNG.

Có nhiều điều em đọc từ bài Dịch Lư thấy nó lấn cấn nên em muốn hỏi bác vài ba điều để em bớt thắc mắc:

- Thứ nhất, 5 hành tinh Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy là 5 hành tinh độc lập với nhau trong Thái Dương Hệ, chắc chắn chúng sinh ra cùng một lúc khi Thái Dương Hệ được tạo nên th́ tại sao Kinh Dịch lại cho là Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc...

- Thứ hai, Mặt Trăng và Mặt Trời là hai hành tinh ảnh hưởng nhiều tới khí hậu, thời tiết của trái đất và khí huyết của con người th́ lại không được dùng mà Kinh dịch lại dùng năm hành tinh (Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy) ít ảnh hưởng tới nhân tố của con người?

- Thứ ba, những cái tên Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy là những cái tên được đặt ra để phân biệt cho dễ nhớ th́ tại sao Kinh dịch lại dùng nó làm nguyên lư để suy lư, luận chứng?
Chào Conchocun,
Dịch lư đúng là nó lấn cấn, lủng củng, ngô nghê nhưng lại rất thâm thúy, cần nghiền nghẫm lâu dài mới ngộ ra được. Các vị đại học giả thời cổ được người đời tôn là thánh nhân tôi nghĩ là tương đương với đời nay chúng ta gọi là các khoa học gia hay đại bác học. Tiếc rằng v́ các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa xă hội thời bấy giờ, nhiều khám phá về khoa học đă bị dấu kín và giữ bí mật tối đa, nhất là không muốn giải thích hay viết sách để lại lưu truyền cho hậu thế v́ khó được chấp nhận. Hơn nữa thời bấy giờ giấy viết chưa có, các tài liệu đều phải khắc trên gỗ nên rất khó mà viết dài ḍng, chi tiết được v́ vậy các tài liệu này phần nhiều rất ngắn gọn, rất ngô nghê, hay được thêu dệt thêm, mang tính thần thoại để dễ được chấp nhận của người thời đó. Hiểu biết của tôi về Dịch Lư c̣n rất giới hạn nhưng nghĩ đây là 1 đề tài rất hay và rất rộng nên tôi cũng muốn tham gia cùng mọi người để triển khai thêm.

- Vua Phục Hy (4477-4363 TCN) quan sát thiên văn, địa lư, quan sát sự vận hành của các hành tinh, của sự sống rồi mới lập ra Hà Đồ để diễn tả sự vận hành này như vậy học thuyết Ngũ Hành xuất phát từ Hà Đồ của vua Phục Hy. Học thuyết Ngũ Hành nói lên sự vận hành sinh khắc của thế giới vật chất. Chữ "hành" ở đây mang ư nghĩa là vận hành, hành động, chuyển động chứ không phải là "hành tinh" (tuy các hành tinh này có liên quan tới Dịch Lư cũng như các môn thiên văn cổ nhưng đề tài này rất rộng và ra ngoài phạm vi của bài viết này nên xin không đi vào chi tiết ở đây). C̣n về các hành tinh th́ làm sao Chocuncon biết được "chắc chắn chúng sinh ra cùng một lúc khi Thái Dương Hệ được tạo nên"?

- Dịch lư có nói về mặt trăng, mặt trời chứ. Không những nói tới mà c̣n rất quan trọng trong học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành. Nh́n vào Hà Đồ tại sao phía đông nằm bên trái, phía nam nằm bên trên, phía tây nằm bên phải, phía bắc nằm bên dưới? Nếu chúng ta đứng nh́n về phía nam, chẳng phải là mặt trời mọc ở phía đông bên trái (thiếu dương), lên đến đỉnh là phía nam (dương cực, âm sinh) rồi lặn về phía tây bên phải (thiếu âm) cũng là lúc mặt trăng bắt đầu mọc, phía bắc ở dưới Hà Đồ là lúc mặt trăng sáng tỏ nhất (âm cực, dương sinh) đó sao? Chẳng phải là phía nam lúc nào cũng sáng sủa hơn (dương cực), nhận được nhiều ánh sáng hơn phía bắc (âm cực) đó sao? Âm cực th́ dương sinh và dương cực th́ âm sinh v́ vậy bên trái (tả) của Hà Đồ thuộc dương, bên phải (hữu) thuộc âm. Chẳng phải câu nói "nam tả, nữ hữu" chính là theo nguyên lư của Hà Đồ đó sao? Nói về các hành tinh th́ trong bộ môn Thiên Văn học cổ có rất nhiều hành tinh chứ không chỉ có Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Nhật, Nguyệt nhưng đây là những hành tinh chính. Lịch số dựa trên các hành tinh chính này mà lập thành. Khí hậu và thời tiết th́ do ảnh hưởng của nhiều hành tinh và ảnh hưởng của 5 hành tinh Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ là rất lớn chứ không phải là "ít ảnh hưởng". Có dịp chúng ta sẽ đi sâu hơn về lịch số, tiết khí, và mùa màng.

- Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ (ngũ hành) xuất phát từ Dịch Lư rồi các bộ môn khác mới dùng theo để làm nguyên lư, luận chứng chứ không phải là học thuyết này có sẵn rồi "Kinh dịch lại dùng nó làm nguyên lư để suy lư, luận chứng". Theo vua Phục Hy "thiên nhất sinh thuỷ, địa lục thành chi. Địa nhị sinh hoả, thiên thất thành chi. Thiên tam sinh mộc, địa bát thành chi. Địa tứ sinh kim, thiên cửu thành chi. Thiên ngũ sinh thổ, địa thập thành chi", nghĩa là: trời lấy số 1 mà sinh hành thủy, đất lấy số 6 mà làm cho thành. Đất lấy số 2 mà sinh hành hỏa, trời lấy số 7 mà làm cho thành. Trời lấy số 3 mà sinh hành mộc, đất lấy số 8 mà làm cho thành. Đất lấy số 4 mà sinh hành kim, trời lấy số 9 mà làm cho thành. Trời lấy số 5 mà sinh hành thổ, đất lấy số 10 mà làm cho thành. Ư nghĩa sinh thành này nói lên sự vận hành của thế giới vật chất. Như vậy không phải là những tên này (thủy, mộc, hỏa, thổ, kim) được đặt ra cho dễ nhớ mà những tên này có ư nghĩa của nó về sự vận hành sinh khắc của thế giới vật chất. Đồ h́nh bát quái, thuyết tạng tượng, thuyết nam tả nữ hữu, sự vận hành của kinh lạc, v.v. đều xuất phát từ Hà Đồ và Dịch Lư.

Thầy Quang Thống có bài viết rất hay về Ngũ Hành, Chocuncon có thể tham khảo thêm ở đây.

http://www.yhoccotruyen.org/ViewTopic.jsp?tid=4607&fid=6&Page=1&trp=7&ttp=38

Phó
 
Reply with a quote

<< Trang trước 1 2 Trang kế >>

<< Trả Lời >>

Nội Quy | Góp Ý | © 2009 - 2022 yhoccotruyen.org