Trang Chính

  Dược Vị

  Toa Thuốc

  Diễn Đàn

  Đăng Nhập

  Đăng Ký

Diễn đàn >> Kiến Thức YHCT >> CHƯƠNG III - BÀI 3 - TẠNG TỲ

<< Đăng Chủ Đề Mới >>
CHƯƠNG III - BÀI 3 - TẠNG TỲ - posted by quangthong02 (Hội Viên)
on January , 10 2013
TỲ

Vị trí của Tỳ ở trong khoang bụng, dưới hoành cách mô, dính liền với vị và màng khoang bụng, "h́nh như lưỡi chó, trạng như mào gà" (trạng nghĩa là chi tiết trên h́nh, h́nh là nói về toàn diện), cùng với vị, nhục (thịt), môi, miệng cấu thành hệ thống của tỳ. Tạng này chủ vận hoá, thống nhiếp huyết, phân bố tinh hoa thủy cốc, là nguồn sinh hoá của khí và huyết, thân thể, tạng phủ, bách hài của con người, đều dựa vào sự nhu dưỡng của Tỳ, nên gọi nó là gốc của hậu thiên. Trong ngũ hành th́ nó thuộc Thổ, là tạng chí âm trong âm. Trong bốn mùa th́ Tỳ ứng với trưởng hạ.

1) H́nh thái giải phẫu của tỳ:
A) Vị trí giải phẫu của tỳ: Vị trí nằm phía trên trong khoang bụng, dưới cách mạc, nằm sâu trong sườn non bên trái, gần với phía trên mặt bên trái trên lưng của vị. Thiên "Thái Âm Dương Minh Luận" sách Tố Vấn chép:"Tỳ dữ Vị dĩ mạc tương liên - 脾与胃以膜相连" (Tỳ và Vị nối liền với nhau bằng màng mỡ).

B) Kết cấu h́nh thái của Tỳ: H́nh thái của Tỳ giống như lưỡi liềm, thân bẹt h́nh thoi, khúc khuỷu, màu sắc của nó đỏ tía. Trong văn hiến Đông y, tả h́nh thái của Tỳ "dẹt như h́nh móng ngựa" (Y Học Nhập Môn - Tạng Phủ), "màu sắc của nó đỏ tía như gan ngựa, h́nh của nó như chiếc liềm"(Y Cương Tổng Khu).
Tóm lại, nh́n từ vị trí và h́nh thái của Tỳ, có thể biết được "Tỳ" trong học thuyết tạng tượng Đông y là một đơn vị học thuyết giải phẫu, cũng là bản chất giải phẫu của tỳ trong học thuyết giải phẫu hiện đại. Nhưng công năng sinh lư của Tỳ về ư nghĩa sâu xa th́ không phải là tỳ theo nghĩa của giải phẫu h́nh thể.

2) Công năng sinh lư của Tỳ:
A) Tỳ chủ vận hoá: Vận, tức là chuyển vận, chuyên chở; hoá, tức là tiêu hoá hấp thu. Tỳ chủ vận hoá, ư nói Tỳ bao gồm công năng đem thủy cốc hoá thành chất tinh vi, đồng thời đem vật chất tinh vi chuyên chở đến các tổ chức tạng phủ. Trên thực tế, Tỳ đối với tiêu hoá vật chất dinh dưỡng, công năng hấp thụ và vận chuyển gồm:
Tiêu hoá đồ ăn thức uống và hấp thu, chuyên chở vật chất dinh dưỡng, là một hoạt động sinh lư phức tạp dưới sự tham dự cộng tác của Tỳ Vị, Can Đởm, Đại tiểu tràng, và nhiều tạng phủ khác, trong đó Tỳ đóng vị trí chủ đạo. Công năng vận hoá của tỳ chủ yếu dựa vào tác dụng thăng thanh của Tỳ khí, và ôn ấm của Tỳ dương - Tỳ nên thăng th́ mới mạnh được. Mục Tạng Phủ - phụ lục sách Y Học Tam Tự Kinh chép: "Nhân nạp thủy cốc, Tỳ khí hoá nhi thượng thăng - 人纳水谷,脾气化而上升" (con người ăn thủy cốc vào, nhờ Tỳ khí hoá mà thượng thăng); sách Tứ Thánh Tâm Nguyên chép: "Tỳ thăng th́ (thủy cốc) sẽ ngấu nhừ" (脾升而善磨- Tỳ thăng nhi thiện ma). Thủy cốc nhập vào vị đều dựa vào sự vận hoá của tỳ dương. Nên sách Y Học Nguyên chép: "Tỳ hữu nhất phần chi dương, năng tiêu nhất phần chi thủy cốc; Tỳ hữu thập phần chi dương, năng tiêu thập phần chi thủy cốc - 脾有一分之阳,能消一分之水谷;脾有十分之阳,能消十分之水谷" (Tỳ có một phần dương th́ tiêu hoá một phần thủy cốc, Tỳ có mười phần dương th́ có thể tiêu hoá mười phần thủy cốc). Công năng vận hoá của Tỳ, là gọi tắt của "vận hoá thủy cốc", phân ra mà nói th́ bao gồm hai phương diện là vận hoá thủy cốc, và vận hoá thủy dịch.

a) Vận hoá thủy cốc: Thủy cốc, ư nói đến các loại đồ ăn thức uống. Tỳ vận hóa thủy cốc, là ư nói đến Tỳ đối với dụng hấp thu tiêu hoá đồ ăn thức uống . Quá tŕnh vận hóa thủy cốc của Tỳ như sau:
Một là vị bước đầu ngấu nhừ đồ ăn thức uống đă được tiêu hoá, trải qua tác dụng phân tách thanh trọc của Tiểu tràng, thông qua tác dụng làm cho cốc thực tan ră ra của tỳ, khiến cho thủy cốc đă hoá được trở thành chất tinh vi (c̣n gọi là tinh khí thủy cốc).
Hai là hấp thu tinh hoa thuỷ cốc đồng thời đem chất này vận chuyển đi toàn thân.
Ba là đem tinh hoa thủy cốc chuyên chở lên tâm Phế mà hoá thành khí huyết và các vật chất sự sống khác. Nói cách khác, tác dụng sinh lư quan trọng của Tỳ là chủ vận hoá, bao quát về tiêu hoá thủy cốc, hấp thu chuyên chở tinh hoa, đồng thời đem tinh hoa chuyển hoá thành khí huyết. Đồ ăn thức uống sau khi vào vị, đối với việc hấp thu và tiêu hoá ẩm thực, trên thực tế là do Vị và Tiểu tràng tiến hành. Sách "Loại Kinh", mục "Tạng Tượng Loại" chép:"Tỳ chủ vận hoá, Vị tư thọ nạp, thông chủ thủy cốc - 脾主运化,胃司受纳,通主水谷" (Tỳ chủ vận hoá, Vị chủ đón nhận, đều là chủ thủy cốc). Vị chủ thọ nạp thủy cốc, đồng thời bước đầu tiến hành tiêu hoá thuỷ cốc đi vào, đi qua môn vị di chuyển xuống Tiểu tràng tiến hành một bước tiêu hoá. Nhưng phải dựa vào tác dụng làm tan ră tiêu ṃn cốc thực của Tỳ, mới có thể đem thủy cốc hoá thành chất tinh vi.
Đồ ăn thức uống sau khi trải qua hấp thụ, tinh hoa thủy cốc lại dựa vào sự chuyên chở của Tỳ và tác dụng tán tinh mà chuyển lên Phế, bởi tạng Phế mà rót vào Tâm mạch, hoá thành huyết khí, lại nhờ thông qua kinh mạch mà chuyên chở đi toàn thân để dinh dưỡng cho ngũ tạng lục phủ, tứ chi bách hài, đến b́ mao, cân nhục và các tổ chức cơ quan khác. Nói tóm lại, sự duy tŕ tinh hoa thủy cốc cần thiết cho sinh lư hoạt động b́nh thường của tạng phủ, đều phải dựa vào tác dụng vận hoá của Tỳ. Do ăn uống thủy cốc là nguồn gốc chủ yếu của vật chất dinh dưỡng cần thiết cho sự duy tŕ hoạt động sinh mệnh của con người sau khi sinh ra, cũng là cơ sở vật chất của sự sinh thành khí huyết. Sự vận hoá đồ ăn thức uống tất nhiên là do Tỳ làm chủ, cho nên nói Tỳ là gốc của hậu thiên, là nguồn của sinh hóa khí huyết. Mục "Thận Vi Tiên Thiên Bản Tỳ Vi Hậu Thiên Bản Luận" sách Y Tông Tất Độc chép:"Thân thể có được là nhờ bởi cốc khí, cốc nhập vào Vị, tưới thắm cho lục phủ nên Khí đến, điều hoà ngũ tạng mà Huyết sinh, nhờ vậy mà chất trong cơ thể con người được sinh ra. V́ thế nên gọi gốc của hậu thiên là ở Tỳ" (一有此身,必资谷气,谷入于胃,洒陈于六腑而气至,和调于五脏而血生,而人资之以为生者,故曰后天之本在脾 - nhất hữu thử thân, tất chất cốc khí, cốc nhập vu vị, sái trần vu lục phủ nhi khí chí, hoà điều vu ngũ tạng nhi huyết sinh, nhi nhập chi dĩ vi sinh giả, cố viết hậu thiên chi bản tại Tỳ). Thiên "Kỳ Bệnh Luận" sách Tố Vấn chép:"ngũ vị nhập khẩu, tàng vu Vị, Tỳ vi chi hành kỳ tinh khí - 五味人口,藏于胃,脾为之行其精气" (ngũ vị ăn vào, tàng chứa nơi vị, Tỳ th́ hành tinh khí), con người lấy thủy cốc làm gốc, Tỳ vị là bể của thủy cốc, nên nói Tỳ Vị là gốc của hậu thiên, là nguồn sinh hoá của khí huyết. Lư luận này ở phương diện dưỡng sinh mà nói, th́ có ư nghĩa chỉ đạo rất quan trọng.
Công năng vận hoá của Tỳ được mạnh mẽ, trên thói quen thường nói là "Tỳ khí kiện vận". Chỉ có Tỳ khí kiện vận, th́ công năng hấp thu tiêu hoá của cơ thể mới có thể kiện vận, mới có thể hoá sinh khí, huyết, tân dịch và được cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, mới có thể khiến cho các tổ chức toàn thân được đầy đủ dinh dưỡng, để duy tŕ hoạt động sinh lư b́nh thường. Ngược lại, nếu Tỳ mất kiện vận, th́ công năng hấp thu và tiêu hoá của cơ thể cũng v́ nguyên nhân ấy mà thất thường, sẽ xuất hiện các chứng trạng như trướng bụng, tiêu chảy, không thèm ăn, mệt mỏi, gầy c̣m và khí huyết bất túc và các biến hoá bệnh lư khác.

b) Vận hoá thủy thấp: Vận hoá thủy thấp c̣n gọi là vận hoá thủy dịch, là ư nói đến tác dụng của Tỳ đối với sự chuyên chở và hấp thụ của thủy dịch, điều tiết và trao đổi thủy dịch, tức là Tỳ phối hợp với Phế, Thận, Tam tiêu, Bàng quang và các tạng phủ khác để tăng cường tác dụng duy tŕ sự b́nh hoành trong sự trao đổi thủy dịch của cơ thể. Tỳ chủ vận hoá thủy thấp là mắt xích then chốt của sự trao đổi thủy dịch trong cơ thể con người. Trong quá tŕnh trao đổi thuỷ dịch trong cơ thể con người, Tỳ cùng lúc với sự chuyên chở tinh hoa thủy cốc, c̣n đem thủy dịch cần thiết của cơ thể (tân dịch), thông qua Tâm Phế mà vận chuyển đến các tổ chức toàn thân, để phát huy tác dụng tư dưỡng nhu nhuận, lại mang thủy dịch sau khi đă được dùng của các tổ chức cơ quan tạng khí, kịp thời mang xuống Thận, thông qua tác dụng khí hoá của Thận mà h́nh thành niệu dịch (nước tiểu), đưa đến bàng quang, bài tiết ra ngoài, do đó mà duy tŕ được sự thăng bằng của trao đổi thủy dịch trong cơ thể con người. Ở Trung tiêu, Tỳ là then chốt của thăng giáng khí cơ cơ thể con người, nên trong quá tŕnh trao đổi thủy dịch của cơ thể con người thể hiện được tác dụng then chốt quan trọng. v́ vậy, công năng vận hoá thủy thấp của Tỳ được mạnh mẽ, mới có thể khiến cho các tổ chức trong cơ thể nhận được sự nhu nhuận nuôi dưỡng của thủy dịch, lại khiến cho thủy thấp không đến mức độ thái quá mà dẫn đến đ́nh đọng bên trong. Ngược lại, nếu công năng vận hoá thủy thấp của Tỳ thất thường, tất nhiên sẽ dẫn đến sự đ́nh trệ thủy dịch trong cơ thể con người, mà sinh ra thủy thấp, đàm ẩm và các chất bài tiết bệnh lư, nếu nặng th́ sẽ h́nh thành thủy thũng. V́ vậy thiên "Chí Chân Yếu Đại Luận" sách Tố Vấn chép: "chư thấp thũng măn, giai thuộc vu Tỳ - 诸湿肿满,皆属于脾" (các chứng thũng măn do thấp đều thuộc bởi tỳ). Đây cũng là tỳ hư sinh thấp, tỳ là nguồn sinh ra đàm và nguyên lư của sự phát sinh thủy thũng tỳ hư.
Tác dụng của hai phương diện vận hoá thủy thấp và vận hoá tinh vi thủy cốc của Tỳ là liên hệ tương hỗ, ảnh hưởng tương hỗ, nếu công năng của mặt này thất thường th́ cũng sẽ dẫn đến công năng mặt kia cũng thất thường, nên trong bệnh lư trên lâm sàng, cần phải lưu ư đến hai phương diện này.

2) Tỳ chủ sinh huyết thống huyết:
Tỳ chủ sinh huyết, là ư nói đến công năng sinh huyết của Tỳ. Thống huyết, thống tức là thống nhiếp, là khống chế. Tỳ chủ thống huyết là ư nói đến Tỳ bao gồm chức năng thống nhiếp huyết dịch, có công năng khiến cho huyết lưu hành trong kinh mạch mà không tràn ra ngoài mạch.

a) Tỳ chủ sinh huyết: Tỳ là gốc của hậu thiên, là nguồn sinh hoá khí huyết. Tinh hoa thủy cốc mà Tỳ vận hoá là cơ sở vật chất chủ yếu của sự sinh thành huyết dịch. Vậy nên mục Huyết Chứng sách Cảnh Nhạc Toàn Thư chép: "Huyết"cuồn cuộn mà đến, sinh hoá bởi Tỳ ( Huyết"nguyên nguyên nhi lai, sinh hóa ư Tỳ - 血..,源源而来,生化于脾). Tinh hoa thủy cốc mà Tỳ vận hoá, trải qua tác dụng khí hoá mà sinh thành huyết dịch. Tỳ khí kiện vận, nguồn sinh hoá sung túc, khí huyết vượng thịnh th́ huyết dịch sung túc. Nếu Tỳ mất đi sự kiện vận, vật chất sinh huyết thiếu thốn, th́ huyết dịch khuyết hư, xuất hiện đầu choáng mắt hoa, mặt, môi, lưỡi, móng tay nhợt nhạt và các chứng trạng huyết hư.

b) Tỳ chủ thống huyết: Sách "Danh Y Hối Tuư" chép: "Tỳ thống chư kinh chi huyết - 脾统诸经之血" (Tỳ chủ huyết của các kinh mạch). Quyển 16, sách "Thẩm Chú Kim Quỹ Yếu Lược" chép: "Nhân ngũ tạng lục phủ chi huyết, toàn lại Tỳ khí thống nhiếp - 人五脏六腑之血,全赖脾气统摄" (Huyết của ngũ tạng lục phủ trong con người, đều dựa vào sự thống nhiếp của Tỳ khí). Tỳ khí có thể thống nhiếp huyết dịch của khắp thân, khiến cho huyết dịch vận hành b́nh thường mà không tràn ra ngoài mạch. Tác dụng thống huyết của Tỳ là thông qua tác dụng nhiếp huyết của khí để thực hiện. Tỳ là nguồn sinh hoá khí huyết, khí là tướng dẫn đường, huyết theo nó mà hành. Công năng vận hoá của tỳ được mạnh mẽ, th́ khí huyết tràn đầy, khí có thể nhiếp huyết; khí vượng th́ tác dụng cố nhiếp cũng mạnh mẽ, huyết dịch cũng không bao giờ đi càng ra ngoài mạch mà phát sinh các hiện tượng xuất huyết. Ngược lại, công năng vận hoá của Tỳ bị suy giảm, nguồn hoá bất túc, th́ khí huyết hư khuyết, khí hư th́ sự thống nhiếp bị mất chức năng, huyết rời khỏi mạch đạo (huyết quản), từ đó dẫn đến xuất huyết. Từ đó có thể thấy, Tỳ thống huyết, trên thực tế là thể hiện cụ thể tác dụng của khí đối với huyết, có thể nói "Tỳ thống huyết giả, tắc huyết tuỳ tỳ khí lưu hành chi nghĩa dă - 脾统血者,则血随脾气流行之义也" (Tỳ thống huyết, ư nói huyết theo Tỳ khí mà lưu hành). Nhưng Tỳ thống huyết và Tỳ dương cũng có liên hệ mật thiết. Mục Tạng Phủ Bệnh Cơ, sách Huyết Chứng Luận chép: "Tỳ thống huyết, huyết chi vận hành thượng hạ, toàn lại ư Tỳ. Tỳ dương hư, tắc bất năng thống huyết - 脾统血,血之运行上下,全赖于脾。脾阳虚,则不能统血" (Tỳ thống huyết, huyết vận hành trên dưới, đều dựa vào Tỳ. Tỳ dương hư, th́ không thể thống huyết được). V́ nếu Tỳ mất kiện vận, dương khí hư suy, không thể thống nhiếp huyết dịch, huyết không quy kinh mà dẫn đến xuất huyết cái đó gọi là Tỳ bất thống huyết, biểu hiện lâm sàng là xuất huyết dưới da, tiện huyết, niệu huyết, băng huyết v.v"và nhất là thường thấy xuất huyết ở nhị âm (nhị âm tức là tiền âm (bộ phận sinh dục), và hậu âm (tức là hậu môn)).
Tỳ không những có thể sinh huyết, mà lại c̣n nhiếp huyết, gồm có hai công năng quan trọng là sinh huyết và thống huyết. Cho nên quyển 2, sách "Kim Quỹ Dực" chép: "Tỳ thống huyết, Tỳ hư tắc bất năng thống huyết; Tỳ hoá huyết, Tỳ hư tắc bất năng vận hoá, thị giai huyết vô sở chủ, nhân nhi thoát hăm vọng hành - 睥统血,脾虚则不能摄血;脾化血,脾虚则不能运化,是皆血无所主,因而脱陷妄行"(Tỳ thống huyết, Tỳ hư th́ không thể nhiếp huyết. Tỳ hoá huyết, Tỳ hư th́ không vận hoá được, đều là huyết không có chủ, nhân đó thoát xuống bên dưới mà vọng hành).

3) Tỳ chủ thăng thanh: Thăng, ư nói thăng lên trên và chuyên chở. Thanh, ư nói đến vật chất tinh vi. Tỳ chủ thăng thanh là ư nói bao gồm đem tinh hoa thủy cốc và các vật chất dinh dưỡng khác, hấp thu và cùng đưa lên Tâm, Phế, đầu mắt - lại thông qua tác dụng của Tâm Phế hoá sinh khí huyết để doanh dưỡng cho toàn thân, đồng thời duy tŕ tác dụng của tính cố định tương đối của vị trí tạng phủ trong cơ thể con người. Đặc điểm của công năng vận hoá này là lấy thượng thăng làm chủ, nên mới nói "Tỳ khí thượng thăng". Mà chủ yếu của thượng thăng là vật chất tinh vi, cho nên mới nói "Tỳ chủ thăng thanh". Sự thăng thanh của Tỳ, là cách nói đối lập lại sự giáng trọc của Vị. Tỳ phải thăng mới kiện, Vị phải giáng mới hoà. Tỳ khí chủ thăng cùng với Vị khí chủ giáng h́nh thành một cặp mâu thuẫn với nhau là thăng và thanh giáng trọc, chúng đă đối lập lại c̣n thống nhất, cùng nhau hoàn thành công việc phân bố và hấp thu tiêu hoá đồ ăn thức uống. Ở phương diện khác, sự tương ứng thăng giáng giữa các tạng phủ, hợp tác b́nh hoành là duy tŕ nhân tố quan trọng của sự cố định với nhau vị trí tạng phủ trong cơ thể con người. Tỳ khí nếu thăng th́ có thể duy tŕ vị trí cố định của tạng phủ trong cơ thể con người mà khiến cho nó không bị sa xuống. Công năng thăng thanh của Tỳ b́nh thường, tinh hoa thủy cốc và các vật chất dinh dưỡng khác mới có thể chuyên chở phân bố, hấp thu b́nh thường được, khí huyết sung thịnh, cơ thể con người mới đầy đặn. Đồng thời, Tỳ khí thăng phát th́ khiến cho nội tạng bên trong cơ thể không bị sa xuống bên dưới. Nếu Tỳ khí không thể thăng thanh, th́ thủy cốc sẽ không thể vận hoá, sự sinh hoá của khí huyết không c̣n nguồn, có thể sẽ xuất hiện tinh thần mệt mỏi, người vô lực, huyễn vựng, tiết tả và các chứng trạng khác. Tỳ khí hư hăm (c̣n gọi là trung khí hạ hăm), th́ có thể thấy chứng cửu tiết thoát giang nặng, hoặc nội tạng sa xuống bên dưới.

III) ĐẶC TÍNH SINH LƯ CỦA TỲ
1) Tỳ phải thăng mới kiện:
Thăng tức là từ bên dưới thượng hành lên trên, ư nói đến sự thăng phù hướng thượng. Tất cả ngũ tạng đều có sự thăng giáng: Tâm Phế bên trên, bên trên th́ cần phải giáng; Can Thận bên dưới, bên dưới th́ phải thăng; Tỳ Vị ở giữa, ở giữa th́ có thể thăng có thể giáng. Tác dụng thăng giáng khí cơ của ngũ tạng tương hỗ cho nhau, h́nh thành một tính chất chỉnh thể của hoạt động khí hoá xuất nhập thăng giáng cơ thể, duy tŕ động thái sự xuất nhập thăng giáng của cơ thể. Tỳ thăng vị giáng, là then chốt của thăng giáng trên dưới khí cơ cơ thể. Tỳ khí chủ thăng, ư nói h́nh thức vận động khí cơ của Tỳ lấy thăng là chủ yếu. Tỳ thăng th́ có nghĩa là Tỳ khí kiện vượng, công năng sinh lư b́nh thường.

2) Tỳ hỷ táo ố thấp:
Tỳ là tạng thái âm thấp thổ, Vị là phủ dương minh táo thổ (脾为太阴湿土之脏,胃为阳明燥土之腑). Quyển 2, sách "Giám Chứng Chỉ Nam Y Án" chép: " Thái âm thấp thổ, đắc dương thỉ vận; dương minh táo thổ, đắc âm tự an, thử Tỳ hỷ can táo, Vị hỉ nhu nhuận dă " 太阴湿土,得阳始运;阳明燥土,得阴自安,此脾喜刚燥.胃喜柔润也" (Thái âm thấp thổ có được dương th́ vận hoá; Dương minh táo thổ, có được âm th́ tự an. Đó là bởi Tỳ thích khô ráo, Vị thích trơn nhuận vậy). Tỳ thích táo ghét thấp, cùng với Vị thích nhuận ghét táo trở thành một cặp đối lập nhau. Tỳ có thể vận hoá thủy thấp, để điều tiết sự thăng bằng trao đổi thủy dịch trong cơ thể. Tỳ hư không vận hoá th́ rất dễ sinh thấp, mà thấp tà quá tŕnh thắng lại rất dễ khốn tỳ (gây trở ngại cho tỳ). Quyển 2, sách Giám Chứng Chỉ Nam Y Án chép: " Thấp hỷ quy Tỳ giả, dĩ kỳ đồng khí tương cảm vi giả" (thấp thích đi về Tỳ, ấy là đồng khí tương cảm vậy). Tỳ chủ thấp mà ố thấp, nhân thấp tà tổn thương Tỳ, Tỳ mất kiện vận mà thủy thấp gây ra bệnh, thường gọi là "thấp khốn Tỳ thổ", có thể thấy các triệu chứng như đầu nặng, bụng và chấn thủy trướng đầy, miệng dính không khát, và các chứng khác. Nếu Tỳ khí hư nhược, chức năng kiện vận mất th́ thuỷ thấp đ́nh tụ, đó gọi là "Tỳ bệnh sinh thấp"(Tỳ hư sinh thấp), có thể thấy tứ chi mỏi mệt, sự nạp vào yếu, bụng và chấn thủy trướng măn, đàm ẩm, tiết tả, thủy thũng v.v"Nói tóm lại, Tỳ có đặc tính ghét thấp, đồng thời đối với thấp tà có tính cảm ứng đặc thù.

3) Tỳ khí tương ứng với khí trưởng hạ:
Tỳ chủ trưởng hạ, Tỳ khí vượng vào mùa trưởng hạ, Hoạt động công năng sinh lư của tạng Tỳ, cùng thông ứng hỗ tương biến hoá âm dương với trưởng hạ. Ngoài ra, Tỳ cùng với phương Vị trung ương, thấp, thổ, màu vàng, vị ngọt v.v"có sự liên hệ nội tại. Tỳ vận hoá thấp mà lại ghét thấp, nếu Tỳ thấp khốn, vận hoá bị sút kém sẽ dẫn đến ngực bụng đầy kết, ăn ít người mệt, đại tiện lỏng loăng, miệng ngọt nhiều nước dăi, rêu lưỡi trơn mềm, phản ánh liên hệ giữa Tỳ và thấp. V́ vậy, cách xử phương dụng dược vào thời điểm trưởng hạ, thường gia thêm Hoắc hương, bội lan, và các loại thuốc phương hương hoá trọc, tỉnh Tỳ táo thấp. Ngoài ra, Tỳ là gốc của hậu thiên, là nguồn của sinh hoá khí huyết, Tỳ khí suy nhược th́ xuất hiện mệt mỏi vô lực, ăn uống khôngg thoải mái. Trên lâm sàng lúc điều trị Tỳ hư th́ gia thêm Đảng sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Biển đậu, Đại táo, Di đường và các loại thuốc có vị ngọt, đấy là thể hiện sự liên hệ giữa vị ngọt và Tỳ.

Hội An 11 - 1 - 2013
TRẦN QUANG THỐNG
 
Replied by quangthong02 (Hội Viên)
on 2013-01-11 03:29:04.0
Từ bài này trở đi, tôi sẽ bổ sung thêm phần bài đọc thêm, và phần bài tập. Các bài trước chưa có, tôi sẽ bổ sung sau.

TRỊ NUY ĐỘC THỦ DƯƠNG MINH (Trị nuy chỉ chọn Dương minh)
Trong thiên Nuy Luận, sách Tố Vấn chép: "Khi bàn về "nuy", chỉ chọn Dương minh để chọn là nghĩa ǵ?" Thiên Căn Kết, sách Linh Khu chép: "Thái dương là "Khai" (mở), Dương minh là "Hợp" (đóng), Thiếu dương là "Xu" (then cài)" "hợp" rời ra th́ khí ngừng, mà sinh ra chứng nuy. V́ vậy, chứng nuy th́ phải trị ở Dương minh". Về sau, thuyết này dần dần h́nh thành nguyên tắc trị liệu lâm sàng.
"Nuy" (痿) tức là Nuy chứng, c̣n gọi là "Nuy tích" (痿躄), là một loại bệnh chứng có biểu hiện lâm sàng như cân mạch trong cơ thể yếu mềm, vô lực, hoặc rút lại, thậm chí bại liệt. Đa phần khi xuất hiện chứng này, hai chi dưới sẽ bại liệt. Như trong mục "Ngũ Vận Chủ Bệnh" sách "Tố Vấn Huyền Cơ Nguyên Bệnh Thức" chép: "Nuy, là chứng chân tay yếu mềm, không có sức để vận hành". Nguyên nhân sinh ra chứng này là do bi lụy quá độ, pḥng dục quá độ. Cơ chế bệnh chủ yếu là có nhiệt thịnh tổn thương tân dịch, hoặc thấp nhiệt uẩn kết bên trong, cân mạch ở tứ chi mất đi sự nuôi dưỡng mà sinh ra mềm yếu bại liệt. Có thể nói, trong chứng nuy, thủy khô kiệt sinh nuy, thủy thấp quá thịnh cũng sinh nuy. V́ vậy, thiên "Nuy Luận" sách Tố Vấn chép: "Ngũ tạng do Phế nhiệt khô héo mà sinh nuy". Mục "Ngũ Nuy Tự Luận" sách "Tam Nhân Cực Nhất Bệnh Chứng Phương Luận" nêu ra: "t́nh chí dễ bị kích động, buồn vui bất chợt, làm việc quá sức, khiến cho tinh huyết nội tạng hư hao, vinh vệ không điều ḥa" khiến b́ mao, cân cốt, cân nhục nuy nhược, không có lực để vận động, mà sinh chứng nuy tích". Đồng thời, nhấn mạnh cơ chế sinh bệnh của chứng nuy là do "khí của nội tạng bất túc".
Đối với việc trị liệu nuy chứng, thiên "Nuy Luận" sách Tố Vấn có đưa ra luận điểm: "Trị nuy cần trị ở Dương minh". Dương minh ở đây là túc Dương minh vị kinh. "Trị nuy cần trị ở Dương minh" là nhấn mạnh đến tác dụng của Tỳ Vị trong điều trị nuy chứng. Do "Vị là bể của thủy cốc", là nguồn sinh hóa của khí huyết (như thiên "Cửu Châm Luận" sách Linh Khu nói: "Dương minh đa khí đa huyết"). Tỳ chủ vận hóa, Vị chủ thọ nạp, Tỳ Vị mang thủy cốc sau khi ăn vào, hóa sinh thành chất tinh hoa, đồng thời, mượn khí của Tâm Phế mà mang chất tinh hoa thủy cốc bố tán toàn thân, nhuận trạch cho cơ phu, hoạt lợi cho quan tiết (các khớp), sung dưỡng cho cân mạch, như thiên "Kinh Mạch Biệt Luận" sách Tố Vấn chép: "đồ ăn thức uống vào Vị, trọc khí đi về Tâm, chất tinh túy nhất đi vào mạch," đồ ăn vào vị, tinh khí tràn trề, đi lên Tỳ, Tỳ khí tán bố tinh hoa, đưa lên Phế". Ư nói kinh mạch, cơ nhục, tứ chi, bách hài, đều dựa vào sự sung dưỡng của tinh khí ngũ tạng, mà nguồn sinh ra tinh khí tân dịch của ngũ tạng là ở Tỳ. Vậy nên thiên "Nuy Luận" sách Tố Vấn nói: "Dương minh là bể của lục phủ ngũ tạng, chủ về nhu nhuận cho tông cân; tông cân chủ về bó buộc các khớp xương, trơn nhuận cho quan tiết (các khớp)". Tông cân, là ư nói đến nơi hội tụ của các gân, ngoài ra có ư nói đến màng gân của toàn thân " Thiên "Ngũ Tạng Sinh Thành" sách Tố Vấn nói: "các gân trong người đều liên hệ đến khớp". Tông cân bao gồm tác dụng bó buộc xương khớp, chủ về điều khiển vận động của khớp xương " V́ vậy, thiên "Cửu Châm Luận" sách Linh Khu mới nói: "Dương minh nhiều khí, nhiều huyết", do đó, Dương minh xung thịnh, khí huyết sung túc, cân mạch có được sự nhu dưỡng, th́ mới mềm mại, quan tiết mới hoạt lợi, vận động mới linh hoạt. Nên công năng của Dương minh vị, với sự vận hóa của Tỳ phải gắn bó mật thiết, không thể tách rời, như thiên "Thái Âm Dương Minh Luận" sách Tố Vấn có nói: "Tứ chi đều bẩm khí ở Vị, nhưng khí này không thể đạt được đến kinh lạc, phải nhờ đến Tỳ mà có được khí. Nếu Tỳ có bệnh không thể giúp Vị vận hành tân dịch, tứ chi không nhận được khí thủy cốc, khí huyết bất túc, th́ tông cân mất đi sự nuôi dưỡng, lỏng lẻo không chắc, mà xuất hiện dấu hiệu cơ nhục, quan tiết nuy nhược bất dụng.

ĐIỂM QUAN TRỌNG
Yêu cầu:
1 - Nắm bắt công năng sinh lư chủ yếu của Tỳ.
2 " Học thuộc đặc tính sinh lư của Tỳ
3 " Học thuộc mối quan hệ giữa Tỳ với H́nh, Khiếu, Chí, Dịch, Thời.

Nội dung chính:
1 "Công năng sinh lư của tỳ:
a - Chủ vận hóa
b - Vận hóa thủy dịch
c - Chủ thống nhiếp huyết
2 "Đặc tính sinh lư của Tỳ:
a - Tỳ khí chủ thăng: 1) chủ thăng thanh; 2) Thăng cử nội tạng.
b - Thích táo ghét thấp " quan hệ của Tỳ với thấp.
c - Quan hệ của Tỳ với H́nh, Khiếu, Chí, Dịch, Thời.
c1 - Thể của Tỳ là cơ nhục, chủ tứ chi
c2 - Khiếu là môi miệng.
c3 - Chí của Tỳ là lo lắng.
c4 - Dịch của Tỳ là nước dăi.
Điểm lưu ư:
1 - Tỳ chủ vận hóa
2 - Tỳ khí chủ thăng
3 - Hàm nghĩa và cơ chế của Tỳ thống nhiếp huyết.
Điểm lưu ư quan trọng:
1 - Biểu hiện của Tỳ thích táo ghét thấp, khí chủ thăng
2 - Lư luận căn cứ (đọc bài "Trị Nuy Trị Ở Kinh Dương Minh).
3 - Ư nghĩa của câu: Tỳ là gốc hậu thiên.
Câu hỏi:
1) Tại sao nói Tỳ là gốc của hậu thiên? Ư nghĩa lâm sàng của nó?
2) Hàm ư của Tỳ khí chủ thăng là ǵ?
3) Khái niệm của Tỳ chủ thống nhiếp huyết và cơ chế của nó là ǵ?
 
Reply with a quote
Replied by love4u_hp (Hội Viên)
on 2013-01-11 10:09:16.0
con chào thầy thông.

một bài viết đầy đủ ư nghĩa mà các sách con đọc đều không được diễn giải rơ ràng. sau mỗi bài thầy có sự nhẫn mạnh, câu hỏi thật là dễ học hơn nhiều.
Con xin cảm ơn thầy

con love4u_hp
 
Reply with a quote
Replied by cm (Hội Viên)
on 2013-01-13 08:47:08.0
Xin cảm ơn thầy rất nhiều! Mong thầy sớm hoàn thành phần lư luận cơ bản để em có thể in ra sách tiện cho việc học. Cảm ơn thầy!
 
Reply with a quote
Replied by love4u_hp (Hội Viên)
on 2013-01-17 07:01:09.0
con chào thầy.

Thầy thống cho con hỏi 1 câu hỏi này với mà con không biết đáp án là ǵ, mong thầy giải đáp: Trong phần "TRỊ NUY ĐỘC THỦ DƯƠNG MINH" (tại có thêm chữ THỦ th́ có liên quan tới THỦ DƯƠNG MINH ĐẠI TRƯỜNG KINH KHÔNG?)

- Trong thiên Nuy Luận, sách Tố Vấn chép: ¿Khi bàn về ¿nuy¿, chỉ chọn Dương minh để chọn là nghĩa ǵ?¿ Thiên Căn Kết, sách Linh Khu chép: ¿Thái dương là ¿Khai¿ (mở), Dương minh là ¿Hợp¿ (đóng), Thiếu dương là ¿Xu¿ (then cài)¿ ¿hợp¿ rời ra th́ khí ngừng, mà sinh ra chứng nuy. V́ vậy, chứng nuy th́ phải trị ở Dương minh¿. ===> KHAI - HỢP - XU: Giá trị của 3 từ ứng với 3 kinh nghĩa là như thế nào? thầy có thể phân tích rơ hơn không?

con love4u_hp
 
Reply with a quote
Replied by NoiDat (Hội Viên)
on 2013-01-17 08:17:50.0
Chào love4u_hp,
Thầy Thống bận quá, tôi tranh thủ giải thích cho bạn để giảm tải cho thầy Thống. Nếu thầy Thống thấy chưa rơ th́ sẽ giải thích thêm.

Trị nuy độc thủ Dương minh, chữ thủ ở đây có nghĩa là chọn lựa, cố thủ. Dương minh ở đây là kinh túc Dương minh vị. Vậy nói rơ hơn là trị bệnh nuy cần chữa vào kinh Dương minh vị.

"chỉ chọn Dương minh để chọn là nghĩa ǵ?" tôi nghĩ là thầy Thống viết vội quá nên viết nhầm chữ trị thành chọn. Câu này có lẽ thầy Thống muốn viết là "chỉ chọn Dương minh để trị là nghĩa ǵ?¿

Bệnh nuy thuộc về hư chứng, do cân mạch bị thất dưỡng mà thành. Muốn bồi dưỡng cho chứng hư phải bắt đầu từ Tỳ Vị v́ vậy chỉ cần chữa vào Dương minh là trị được hư chứng. Dương minh là Hợp (đóng). Những ǵ thất thoát thái quá th́ cần phải giữ lại (đóng). Giống nhứ khi chữa chứng di tinh th́ ngoài bổ thận c̣n cần phải cố tinh (giữ tinh lại, đóng lại cho khỏi bị thất thoát). 3 từ Khai - Hợp - Xu là để nói lên sự vận hành, đóng mở của kinh lạc. Dựa vào sự vận hành này mà chọn hướng chữa trị cho thích hợp.
NoiDat
 
Reply with a quote
Replied by love4u_hp (Hội Viên)
on 2013-01-17 10:18:00.0
Con chào bác noidat.

Lâu lắm mới thấy bác lên diễn đàn. Cảm ơn lời giải thích của bác,với lời giải diễn giải của thầy thống mà con đă rơ hơn. Do con không biết về tiếng hán ngữ nên nhiều điều sâu xa mà con không hiểu được. Vậy nên con muốn chắc chắn.
- về chứng nuy chọn dương minh để trị có nguyên nhân:
1. Thủy tinh khô kiệt
2. Thuỷ thấp quá thịnh
--> qua đó ta thấy thuyết chữa thổ hơn chữa thuỷ.lấy thổ làm gốc làm chính đê chữa. Con nói thế không biết được không nhỉ?
. Ngoài ra con vẫn muốn hiểu rơ hơn quy tŕ vận hành của các kinh theo khai-xu-hợp.

Con love4u_hp
 
Reply with a quote
Replied by love4u_hp (Hội Viên)
on 2013-02-01 12:01:13.0
ḿnh nghĩ phần này áp dụng thực tế trong bài thang Tỳ này:

Đây là bài mà "thầy Pho" giải thích với Myle bên chủ đề Khoa Nhi:

"Gạo là một vị thuốc trong Đông y gọi là Ngạnh mễ. Có công năng bổ tỳ dưỡng vị rất tuyệt. Nước cháo chính là thang thuốc bổ tỳ vị cho các cháu bé để giúp tiêu hóa được khỏe mạnh, có thể dùng lâu dài mà không sợ phản ứng phụ ǵ cả. Trẻ sơ sinh nội tạng rất nhạy bén, chỉ cần uống nước cháo là đă có phản ứng rồi. Cháu đi đại tiện ra nhiều là do tỳ vị được khỏe lại nên thải các chất bị ứ đọng ra. Ngay cả các bệnh nhân người lớn khi bị các bệnh về tiêu hóa tôi thường dặn ngừng tất cả các loại thuốc và ăn cháo trong hai ba ngày là các chứng bệnh về tiêu hóa đều được cải thiện rơ rệt. Tạm thời MyLe chưa cần dùng thuốc thang v́ bệnh tiêu hóa của cháu chỉ bị nhẹ và đă ổn định, cũng may là MyLe để ư chữa trị cho cháu được sớm. MyLe tiếp tục cho cháu bú sữa mẹ và dùng nước cháo mỗi tuần 1 vài lần. Sau này chuyển qua dùng sữa bột, MyLe có thể dùng nước cháo loăng để pha sữa thay cho nước thường.

Hầu hết các bệnh ở trẻ sơ sinh đều do ăn uống mà ra. Sự phát triển và sức khỏe của các bé lệ thuộc rất nhiều vào dinh dưỡng, nhưng dinh dưỡng đúng cách vẫn c̣n là điều rất mơ hồ kể cả sau khi đă được tư vấn bên chuyên khoa nhi. Khi các bé có vấn đề về tiêu hóa th́ thường được khuyên là ngưng dùng sữa mẹ và chuyển qua dùng các loại sữa bột có sẵn trên thị trường. Thực tế dùng các loại sữa bột không giải quyết được vấn đề về tiêu hóa ở trẻ em, mà trong nhiều trường hợp c̣n bị xấu đi. Các bệnh về tiêu hóa phần lớn là do bé thường xuyên ăn quá no và do bé ăn uống thất thường không giờ giấc.

Tại sao bé thường xuyên ăn quá no lại có hại? Nếu cho bé ăn thưa bữa quá, đợi tới lúc đói quá khóc thét lên mới cho ăn th́ bé sẽ có khuynh hướng ăn quá no. Theo Đông y, tiêu hóa do tỳ và vị làm chủ. Thức ăn chứa ở vị nhờ sự hỗ trợ của tỳ khí để giúp tiêu hóa. Tỳ giúp đưa chất bổ dưỡng (chất thanh) lên phế và tâm để tạo thành khí huyết đưa đi khắp cơ thể để nuôi dưỡng và bảo vệ cơ thể. Chất cặn bă (chất trọc) được vị đưa xuống dưới qua thận và đại trường thải ra ngoài. Chức năng này của tỳ vị gọi là thăng thanh giáng trọc. Tạng tỳ ở trẻ sơ sinh c̣n rất non nớt, chức năng thăng thanh giáng trọc chưa làm được tốt, khi ăn quá no th́ tỳ khí sẽ bị tŕ trệ do lượng công việc phải làm quá lớn. Trọc khí không giáng xuống hết được đ́nh đọng trở thành thấp, thanh khí không thăng lên hết được trở thành đàm. Thấp đ́nh đọng th́ gây bế tắc đường tiêu hóa, tiêu chảy, sôi bụng. Tỳ là nơi sinh ra đàm nhưng phế lại là nơi chứa đàm. V́ vậy khi bé ăn uống không tiêu sẽ dẫn đến các chứng bệnh ở phế như sổ mũi, nghẹt mũi, đàm cổ, thở kḥ khè, ho. Phế khí bị bế tắc do đàm ẩm đ́nh đọng dẫn đễn vệ khí suy yếu, không bảo vệ được cơ thể khiến bé dễ bị bệnh. Khi tỳ khí không lưu thông được sẽ kết lại thành uất nhiệt làm cho vị bị thiêu nóng đau rát khó chịu. Đây là nguyên nhân khiến các bé hay khóc sau khi đă được ăn no nê. Đàm thấp đ́nh đọng thường gây chứng béo ph́ mà các bà mẹ thường lầm tưởng cho là con ḿnh sổ sữa. Bé to con, khỏe mạnh, hoạt bát, lúc nào cũng tươi cười mới là sổ sữa. Bé béo ph́, hay bệnh, hay khóc là t́nh trạng sức khỏe không được tốt.

Tại sao ăn uống thất thường không giờ giấc lại có hại? Muốn tránh cho bé không bị ăn quá no th́ phải tránh cho bé không bị quá đói. Muốn như vậy th́ phải cho bé ăn có giờ giấc, theo thời biểu nhất định, không đợi quá đói, khóc đ̣i ăn mới cho ăn. Như đă nói ở trên, tỳ vị của trẻ sơ sinh c̣n rất non nớt, không thích nghi được tốt với các điều kiện ăn uống thất thường. Khi bé ăn uống không có giờ giấc lúc th́ quá đói, lúc th́ quá no, lúc th́ lấp lửng không muốn ăn khiến công năng vận hóa của tỳ không ổn định, không làm tốt được chức năng thăng thanh giáng trọc. Trọc khí không giáng hết xuống được làm cản trở dường tiêu hóa gây ra chứng trướng bụng khiến cho bé hay bị khó chịu sau khi ăn. Bé trở nên hay khóc và hay đ̣i ẵm đung đưa, đi tới đi lui hoặc xoa bụng nhè nhẹ th́ mới chịu nín v́ những động tác này giúp làm lưu thông được các chỗ bị ứ đọng nên bé cảm thấy dễ chịu và ngưng khóc.

Trở lại vấn đề bác sỹ dặn dừng sữa mẹ và thay bằng sữa bột. Theo tôi đây là một điều sai lầm. Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho các bé mà không có loại thức ăn nào thay thế được. Ngoài các chất dinh dưỡng ra, sữa mẹ c̣n giúp cho hệ thống miễn nhiễm của các bé được khỏe mạnh. Dùng sữa bột thay cho sữa mẹ chỉ là vấn đề tiện lợi hoặc bắt buộc do người mẹ bị bệnh, không có sữa, hoặc phải đi làm vắng nhà, và không thể nào so sánh với sữa mẹ được. Nếu sữa mẹ tốt như vậy tại sao bé lại có vấn đề về tiêu hóa? Thực vậy, Đông y rất quan trọng sự cân bằng của nội tạng. Ngay cả cái tốt nếu bị thái quá cũng gây hại. Khi bé thường xuyên bị quá đói mới cho ăn th́ bé sẽ thường xuyên ăn nhiều hơn mức cần thiết và dẫn đến tỳ khí bị suy yếu và gây bệnh như đă nói ở trên.

Cho ăn thưa bữa, đợi bé đói quá mới cho ăn, dùng sữa bột thay cho sữa mẹ (một cách không cần thiết) là nguyên nhân dẫn đến trục trặc về tiêu hóa và ảnh hưởng tới sức khỏe của trẻ sơ sinh. Ăn uống theo một thời biểu nhất định giúp tỳ vị vận hóa thức ăn theo một chu kỳ ổn định, tránh được t́nh trạng bé bị quá đói, ăn quá no. Tỳ vị làm tốt được chức năng thăng thanh giáng trọc, bé sẽ nhận được dinh dưỡng đầy đủ, khỏe mạnh, chóng lớn và ít bệnh tật. Cứ mỗi tháng th́ tăng dần số giờ giữa các bữa ăn thêm nửa giờ v́ bé lớn hơn, ăn nhiều hơn nên cần ăn thưa hơn. Các bà mẹ cứ yên tâm cho các cháu ăn uống theo phương pháp trên th́ chắc chắn sẽ không phải lo lắng về tiêu hóa cho con trẻ, các bé sẽ lớn nhanh như thổi và luôn khỏe mạnh hoạt bát."

love4u_hp
 
Reply with a quote
Replied by vanphong (Hội Viên)
on 2013-06-14 00:43:18.0
các thầy con thấy khó hiểu câu : "thăng thanh của tỳ khí ôn ấm của tỳ dương " . Trước đây con cứ nghĩ tỳ khí và tỳ dương, mong các thầy giải đáp cho con. Con xin cảm ơn!
 
Reply with a quote
Replied by timkiemxanhluc (Hội Viên)
on 2013-06-14 07:53:58.0
Một bản tóm tắt về Tỳ do một người Trung Quốc viết. Xin trích ra đây cho các thành viên đọc:

Tỳ - Cơ bản của Hậu thiên
Tạng Tỳ tức là Lá Lách, trong cơ thể có chức năng để thống huyết. Cái ǵ gọi là cơ bản của hậu thiên? Có thể nói là con người sống phải nhờ vào đó, ví dụ thai nhi trong bụng mẹ phải 10 tháng, trong 10 tháng đó phải hấp thu chất dinh dưỡng trong bụng mẹ, thai nhi sau khi ra đời phải uống sữa của mẹ, một thời gian sau th́ bắt đầu ăn cơm. Thời gian ăn cơm lâu hơn hay là thời gian uống sữa lâu hơn? Chính là thời gian ăn cơm lâu hơn. Thế mới gọi là cơ bản của hậu thiên. Thống huyết nghĩa là ǵ? Tức là hấp thu và chuyển hóa. Ví dụ bạn ăn cháo, chuyển hóa trong cơ thể bạn là ǵ? Không phải là cháo mà là máu! Thế gọi là hấp thu. Hấp thu dinh dưỡng trong cháo để tạo máu, rồi do tạng tỳ chuyển hóa. Chúng ta ăn vào mồm, ăn xong đến dạ dày tiêu hóa khoảng 4 tiếng đồng hồ cho tá tràng, tá tràng bắt đầu hấp thu chất dinh dưỡng, hấp thu xong rồi do tạng tỳ (trong Y học hiện đại gọi là tuyến tụy) tiết ra chất In-su-lin vận chuyển cho tạng thận để tạo máu. Cơ bản của hậu thiên chính là thức ăn của ḿnh ăn vào.
 
Reply with a quote
Replied by bé boy (Hội Viên)
on 2013-10-28 06:41:12.0
mọi người cho em hỏi, thầy thống giảng ở chương III tạng tượng được mấy bài rồi mà sao em thấy có 3 tạng: tâm, phế, tỳ? em mới tham gia diễn đàn nên c̣n nhiều điều chưa rơ rất mong được mọi người giúp đỡ!Em xin chân thành cảm ơn
 
Reply with a quote

<< Trang trước 1 2 Trang kế >>

<< Trả Lời >>

Nội Quy | Góp Ý | © 2009 - 2022 yhoccotruyen.org