Suckhoedoisong.vn - Màn kinh tử vị cay, đắng, tính hơi hàn, vào 3 kinh can, phế và bàng quang. Có tác dụng tán phong nhiệt. Dùng chữa đầu nhức, mắt hoa, mắt đau.
Hỏi: Màn kinh tử là vị thuốc lâu đời. Cây thuốc của vị thuốc này có ở đâu?
(Trần Văn Hoài - Vĩnh Long)
Trả lời: Màn kinh tử còn gọi là kinh tử, vạn kim tử, quan âm, thuốc kinh, thuốc ôn, đẹn ba lá.
Tên khoa học Vitex trifolia L.
Thuộc họ Cỏ roi ngựa Verbenaceac.
Màn kinh tử (Fructus viticis) là quả chín phơi hay sấy khô của cây quan âm hay cây màn kinh. Còn gọi là cây thuốc ôn.
Màn là mọc lan ra, kinh là gai. Thứ cây này mọc lan ra mặt đất, nên gọi tên như vậy.
http://skds3.vcmedia.vn/2014/mankinhtu-b1554.jpg
Hoa màn kinh tử
Mô tả cây
Màn kinh tử là một cây nhỏ hay nhỡ, mùi thơm, có thể cao tới 3m. cành non có 4 cạnh, có lông mềm bao phủ. Lá kép và thường gồm 3 lá chét. Có thứ chỉ có 1 lá chét (var. unifoliata). Trên cùng một cành nhiều khi phía trên hay phía dưới có lá đơn, chỉ gồm 1 lá chét. Cuống gầy hơi tròn có lông, dài 1 - 3cm, lá chét không cuống phiến lá chét hình trứng ngược hay hình cám dài 2,45 - 9cm, rộng 1 - 3cm, phía dưới hẹp lại. Mặt trên nhẵn, mặt dưới nhiều lông trắng. Những lá chét hai bên nhỏ hơn, gân không nổi rõ. Hoa màu lơ nhạt, dài 13 -14mm, mọc thành chùy xim ở đầu cành, nhiều khi phía dưới có lá. Quả hình bầu dục có rãnh, đầu hơi dẹt, rộng chừng 6mm, được che kín quá nửa bởi đài phát triển và tồn tại.
Phân bố thu hái và chế biến
Màn kinh tử mọc hoang rất nhiều ở khắp nơi trong nước ta. Loại 1 lá chét rất phổ biến, ở dọc bờ biển các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Còn mọc ở các tỉnh ven biển Trung Quốc và Malaysia cũng có.
Vào các tháng 9 - 11 quả chín hái về phơi khô, loại bỏ cuống và tạp chất là được.
http://skds3.vcmedia.vn/thumb_w/640/2014/mankinhtu1-b6651.jpg
Màn kinh tử
Màn kinh tử có hình dáng rất đặc biệt. Hình cầu đường kính 5 - 6mm, mặt ngoài màu nâu đỏ đen, hơi phủ lớp phấn màu trắng tro (nếu soi kính sẽ thấy lông). Trên đỉnh có chỗ hơi hõm xuống. Phía cuống có đài tồn tại 1/2 - 2/3 quả, phía trên đài chia 5 hay 2 thùy. Vỏ ngoài mỏng, vỏ giữa xốp, vỏ trong màu xám vàng, chất nhẹ nhưng chắc, cắt ngang trông như có dầu, màu trắng có 4 ngăn, mỗi ngăn có 1 hạt. Vị đắng mùi thơm đặt biệt.
Công dụng và liều dùng
Theo tài liệu cổ, màn kinh tử vị cay, đắng, tính hơi hàn, vào 3 kinh can, phế và bàng quang. Có tác dụng tán phong nhiệt. Dùng chữa đầu nhức, mắt hoa, mắt đau.
Hiện nay màn kinh tử là một vị thuốc có tác dụng chữa cảm mạo, sốt, nhức đầu, nhức bên thái dương, đau nhức trong mắt, mặt mũi tối tăm; còn cò tác dụng giảm đau.
Ngày uống 6 -12g dưới dạng thuốc sắc hoặc với liều 2 - 3g dưới dạng thuốc bột.
Chú thích:
Trong sách đông y, người ta có ghi những người vị hư không nên dùng màn kinh tử sợ sinh đờm, những người đau mắt đỏ, huyết hư có hỏa không phải phong tà chớ dùng.
Tại Malaysia, nhân dân rất hay dùng lá màn kinh tử để chữa mọi bệnh. Ngoài ra họ còn dùng tán nhỏ cho vào gạo hay nơi để vải vóc để chống côn trùng khỏi ăn gạo hay phá hỏng vải.
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)
của GS. ĐỖ TẤT LỢI |