|
Diễn đàn >> Kiến Thức Phổ Thông >> BÁC PHO CHO EM HỎI CÀI NÀY ĐƯỢC KO??
<< Đăng Chủ Đề Mới >>
BÁC PHO CHO EM HỎI CÀI NÀY ĐƯỢC KO?? - posted by Thiện Nhân (Hội Viên) on April , 16 2012 | em chép trong sách cổ.ngày xua để lại như sau
* trong bài thuốc này cắt theo vạn niên:
như năm
canh thân dùng: hoàng cầm 2-3 đồng cân.
*năm nhâm quư: bội lên hoàng bá
*năm bính đinh: bội hoàng liên
*năm giáp tuất: bội sài hồ
*năm mẩu kỷ : bội cam thảo
*
thầy thuốc chú ư .ngũ hành bát quái ,kim,môc,hỏa,thổ.
can6n thân xuất hành,cân thân lời thuốc.
cào vi,trừ vụ
lấy năm bệnh gia giăm theo thời tiết
vây la sao ha bac pho
thât sự đoc mải mà ko biêt j hết,,
co ai đoc được cái này chua
THIỆN NHÂN: | | |
Replied by PhoHVB (Hội Viên) on 2012-04-18 07:13:55 | Chào Thiện Nhân,
Đây là một đề tài rất rộng, trên diễn đàn tôi chỉ có thể trả lời vắn tắt thôi. Đông y dùng học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành để giải thích mối quan hệ giữa môi trường và tạng phủ. Thuyết Âm Dương và Ngũ Hành dựa vào sự vận hành của những hành tinh chánh (Thái Dương, Thái Âm, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ) của Thái Dương Hệ (đại vũ trụ) mà lập thành. Sự vận hành của những hành tinh này ảnh hưởng tới khí hậu, mùa màng, nóng lạnh, mưa nắng và gián tiếp ảnh hưởng tới sự biến đổi sinh học trong cơ thể con người. Sự thay đổi sinh học của tạng phủ cũng có một chu kỳ nhất định tuân theo sự hưu vượng của thuyết ngũ hành nên được gọi là tiểu vũ trụ. Để hệ thống hóa sự vận hành của Thái Dương Hệ, các vị học giả thời cổ đă đặt ra thập Thiên Can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quư) và thập nhị Địa Chi (Tư, Sửu, Dần, Măo, Th́n, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Mỗi Thiên Can và Địa Chi đều ứng với một hành.
Giáp Ất thuộc mộc
Bính Đinh thuộc hỏa
Mậu Kỷ thuộc thổ
Canh Tân thuộc kim
Nhâm Quư thuộc thủy
Các danh y ngày xưa ngoài y lư ra c̣n rất tinh thông thiên văn, địa lư. Những câu mà Thiên Nhân xem trong sách cổ là ngụ ư là thầy thuốc cần phải linh động, gia giảm bài thuốc theo sự vận hành của vũ trụ, tạng phủ th́ mới có hiệu quả cao.
Phó | | |
Replied by Thiện Nhân (Hội Viên) on 2012-04-18 09:59:38 | cảm on bác pho nhiề,, nhưng những vị đó gia giảm vào nhưng căn bệnh j chứ,,,
xin lổi bác,bác có thể nói rỏ cho em được ko ạ
cháu cảm ơn bác nhiều:
good night
Nguyễn thiện nhân: | | |
Replied by PhoHVB (Hội Viên) on 2012-04-18 10:18:58 | Chào Thiện Nhân,
Những câu này chỉ là nguyên tắc chung thôi. Ví dụ như câu "Năm Giáp Ất: bội Sài hồ" ngụ ư những năm Giáp, Ất thuộc mộc, những bệnh trong năm này mà cần dùng đến Sài hồ th́ cần tăng lượng Sài hồ lên hơn như chỉ định. Những lư thuyết của Đông y đọc th́ dễ hiểu nhưng ngộ được cái ư và ứng dụng được trên lâm sàng mới là quan trọng. | | |
Replied by quangthong02 (Hội Viên) on 2012-04-19 07:44:47 | Chào Thiện Nhân!
Những lời bác Phó nói chí phải! những điều bạn hỏi không thể giải đáp trong phạm vi của diễn đàn này, lại càng không thể qua bút giấy thư từ. Nói phải được trực tiếp nghe từ thầy thuốc đă trải nghiệm qua thể loại kiến thức này giảng giải cho rơ ngọn nguồn.
Cách gia giảm như trên là dựa vào Vận Khí học để gia giảm. Trong Ngũ Vận Lục Khí, các năm được quy định như sau:
Ngũ vận:
Giáp, Kỷ thuộc Thổ vận
Ất, Canh thuộc Kim vận
Đinh, Nhâm thuộc Mộc vận
Bính, Tân thuộc Thủy vận
Mậu, Quư thuộc Hỏa vận
Lục Khí:
Tư, Ngọ thuộc Thiếu âm quân hỏa
Sửu, Mùi thuộc Thái âm thấp thổ
Dần, Thân thuộc Thiếu dương tướng hỏa
Măo, Dậu thuộc Dương minh táo kim
Th́n, tuất thuộc Thái dương hàn thủy
Tỵ, Hợi thuộc Quyết âm phong mộc
Niên tuế ngũ vận dụng dược như sau:
năm Giáp, Kỷ th́ vị Cam thảo là quân dược; năm Ất Canh th́ vị Hoàng cầm là quân dược; năm Đinh Nhâm th́ vị Chi tử là quân dược; năm Bính tân th́ vị Hoàng bá là Quân dược; năm Mậu quư th́ vị Hoàng liên là quân dược.
Như vậy, những câu hỏi của bạn là câu được trích ra từ bài thuốc Hoàng Liên Giải Độc Thang (黄连解毒汤), ở điều 274 - Sách Thương Hàn Quát Yếu (伤寒括要).Nguyên văn bài đó như sau: "Phương thang gồm Hoàng liên, Hoàng bá, Chi tử. Chủ trị chứng sốt cao, tâm phiền mất ngủ, trung châu uất nhiệt, khiến da thịt sang lở. Tỳ chủ cơ nhục, v́ vậy trong phương dùng Hoàng liên để tả Bính đinh, dùng Hoàng cầm để tả Canh Tân, dùng Hoàng bá để tả Nhâm Quư, dùng Chi tử để tả Giáp ất. Mà các loại thuốc thuộc mậu kỷ (theo tôi, Mậu tức mậu vị thuộc Dương thổ; Kỷ tức là kỷ thổ, thuộc âm Thổ, đều là thuốc thuộc vào Tỳ Vị), lại không dùng đến. Đó là v́ Thổ ở vị trí giữa, mà sự vượng thịnh của nó ở cuối bốn mùa. Bốn mùa được yên ổn, th́ trung cung (tỳ thổ) cũng hưởng được ḥa b́nh vậy. Không cần phải dùng thuốc bổ cho thổ.
Xuất phát từ cách vận dụng của bài thuốc này, mà các thầy thuốc đời sau đều ứng dụng. Nhưng người thời nay cần phải ứng dụng cho linh hoạt, không tùy tiện. V́ ví như năm nhâm quư trong bài thuốc trên, là năm cực thịnh của thái dương hàn thủy và thái âm, nếu có nhiệt mà cự không lại th́ sẽ chết, v́ vậy người ta mới dùng đến vị thuốc hàn lương tả hỏa. C̣n năm Nhâm quư mà mắc hàn chứng, nếu cứ cứng nhắc dùng Hoàng bá th́ người bệnh chắc cũng không qua khỏi.
Trong đó: năm Canh thân phải dùng Hoàng cầm, đó là v́ năm Canh thân thuộc Kim vận, hướng chính Bắc, nên dùng vị Hoàng cầm làm quân. Đây là một công thức bất biến.
Năm Bính Đinh thuốc Thiếu dương tướng hỏa, năm này Quyết âm phong mộc tại tuyền. Nếu người mắc bệnh phổi, kiểm tra huyệt Thiên phủ không thấy mạch th́ chắc chắn dù bệnh có nặng hay nhẹ cũng chết. V́ huyệt này là nơi tụ khí cuả Phế, Hỏa thắng th́ Kim tuyệt. Năm bính đinh là năm của Thiếu dương tướng hỏa, hỏa của tam tiêu cũng phù vượt lên trên, hỏa tà hun đốt lên thượng tiêu mà hun đốt phế kim, phế kim gặp sự hun đốt khiến cho thận thủy mất mẹ (kim sinh thủy), th́ dẫn đến "thượng thực hạ hư, hư dương thượng công", khiến sinh nhiều bệnh về tâm phế, mà dẫn đến tổn thương nguyên dương. Do đó, năm Bính đinh, người có bệnh phổi phải dùng Hoàng liên làm quân mà phục dược, th́ may ra giữ được mạng (cũng có thể dùng châm cứu, nhưng đ̣i hỏi thầy thuốc phải am hiểu rộng về ngũ vận lục khí).
Năm Giáp Tuất, thuốc chính nam, theo quy tắc th́ dùng vị Cam thảo làm Quân. Nhưng nếu có thực chứng th́ sẽ gây uất, cho dùng Sài hồ.
Năm Mậu kỷ thuộc trung ương. trong cơ thể con người thuộc trung tiêu, v́ vậy dùng Cam thảo để điều ḥa.
Tôi thật sự không muốn nói đến vấn đề này, v́ đây là vấn đề thực sự phức tạp và nguy hiểm. Trong Đông y, những điều cần phải học thuộc th́ phải học ngay từ nhỏ, như Hán văn, Dịch học, Mạch học, những bài ca phú... không bao giờ để đến khi lớn lên, vào trường đại học mới học, lúc đó không kịp nữa. Chính v́ học dịch học từ bé, lúc c̣n là tờ giấy trắng, chưa có tham vọng, chưa bị tạp ư, chỉ học thuộc mà không nghĩ, về sau này, tự nhiên ứng với thực tế mà ra hành; c̣n các thầy thuốc, sau này mới học, đă có tham vọng, đă có tạp ư, th́ biến thành thầy bói tất. Tôi rất xấu hổ và đau khổ cho các thầy đông y, dịch học (trong đó có vận khí học)vốn là một môn học siêu trí tuệ, có thể giúp cho người thầy thuốc trí tuệ hơn, tỉnh táo hơn, không bị mê lạc vào mê tín dị đoan. Vậy mà sau khi đọc dịch học, các thầy vứt hết trí tuệ đông y qua một bên, chú tâm vào thế giới mê tín ngu muội, khiến cho bệnh nhân hoặc các đồng nghiệp tây y xem thường ông thầy thuốc Đông y. Bởi vậy, khi bạn đặt câu hỏi này, tôi không muốn nói đến, nhưng bạn vẫn quyết tâm muốn biết th́ tôi đành phải hé ra một ít vậy. Nhưng tôi khuyên bạn không nên đào sâu vào phạm vi này, v́ không có căn cơ th́ dễ bị mê loạn, dễ bỏ nghề mà lâm vào trạng thái tâm lư nửa vời. Học dịch học (Ngũ vận lục khí) có thể giúp cho người thầy thuốc biết trước thiên tai của một năm, biết trước người bệnh có nguy hiểm, hoặc có thể chết, có thể phục hồi vào lúc nào, mùa nào; có thể giúp thầy thuốc biết trước bệnh biến của người bệnh. Nhưng đồng thời cũng có thể khiến cho họ bị mê loạn. Bạn nên nghe tôi, biết đến đó là đủ rồi.
Chúc bạn an khang! | | |
Replied by Thiện Nhân (Hội Viên) on 2012-04-20 02:46:45 | chào bác pho,bác quang thống:
cảm ơn các bác rất nhiều.thât sư cảm ơn,bay j minh mới biêt thế gian rộng lớn nhường nào.và v́ điều đó là dộng lức kiến ḿnh phải học vê nhiều hơn nửa..
mốt lần nửa cảm ơn rất nhiều:..............
Nguyễn thiện nhân: | | |
Replied by PhoHVB (Hội Viên) on 2012-04-23 17:25:14 | Những giải thích của thầy Quang Thống thật là hay. Đă lâu lắm rồi hôm nay tôi mới được nghe đến khoa Dịch Lư. Môn học này đă gần như thất truyền, có lẽ chỉ c̣n những thành phố cổ như Hội An mới c̣n lưu truyền được. Câu trả lời của tôi thuộc về Thiên Can Ngũ Hành, câu trả lời bổ túc của thầy Quang Thống thuộc về Thiên Can Ngũ Vận. Đây là 2 lănh vực khác nhau.
Thiên Can Ngũ Vận, như thầy Quang Thống đă giải thích rất rơ, để chỉ sự vận hành của Thái Dương hệ c̣n được gọi là Đại Vũ Trụ. Nó giúp người thầy thuốc biết trước thiên tai của một năm, biết trước người bệnh có nguy hiểm, hoặc có thể chết, có thể phục hồi vào lúc nào, mùa nào; có thể giúp thầy thuốc biết trước bệnh biến của người bệnh. Bệnh thời khí, bệnh dịch là ví dụ thuộc phạm vi nghiên cứu của Thiên Can Ngũ Vận. Theo Thiên Can Ngũ Vận:
Giáp, Kỷ thuộc Thổ vận
Ất, Canh thuộc Kim vận
Đinh, Nhâm thuộc Mộc vận
Bính, Tân thuộc Thủy vận
Mậu, Quư thuộc Hỏa vận
Thiên Can Ngũ Hành ứng với tạng phủ và biệt lập với sự thay đổi của môi trường khí hậu. Nó tương ứng với sự hưng suy của ngũ tạng, công năng của tạng phủ theo một trật tự đă định sẵn (tiểu vũ trụ). Trở lại ví dụ "Năm Giáp Ất bội Sài hồ": năm Giáp-Ất thuộc hành Mộc, trong những năm này công năng của tạng Can (Mộc) sẽ được hưng vượng, nếu những bệnh liên quan đến chứng uất của can mà phải dùng Sài hồ th́ cần phải tăng cân lượng hơn b́nh thường mới giải được chứng uất. Thiên Can Ngũ Hành giúp người thầy thuốc biết trước được sự hưng thịnh hay khắc chế của ngũ tạng, giờ khắc đóng mở của huyệt đạo, kinh mạch để có thể gia giảm phương dược cho phù hợp và hiệu quả. Theo Thiên Can Ngũ Hành:
Giáp Ất thuộc hành mộc
Bính Đinh thuộc hành hỏa
Mậu Kỷ thuộc hành thổ
Canh Tân thuộc hành kim
Nhâm Quư thuộc hành thủy
Nói tóm lại Thiên Can Ngũ Vận và Thiên Can Ngũ Hành là lănh vực cao siêu của Đông y. Cần có sự học hỏi từ rất sớm, có chân sư hướng dẫn và có ngộ tính cao mới lănh hội được.
Phó | | |
<< Trả Lời >>
|